VĂN XUÔI Truyện lịch sử Lê Minh Quốc - NGUYỄN THÁI HỌC

Lê Minh Quốc - NGUYỄN THÁI HỌC

Mục lục
Lê Minh Quốc - NGUYỄN THÁI HỌC
Lời nói đầu
1.Một vụ ám sát chấn động Hà Nội
2.Vạch trời một tiếng thét vang
3.Một chuyện tình lãng mạn
4.Bản án dành cho kẻ “không giữ lời thề”
5.Không thành công cũng thành nhân
6.Vung súng gươm chọc trời Yên Bái
7.Vào sinh ra tử biết bao phen
8.Nguyễn Thái Học bị bắt
9.Hồn thiên thu thác cũng như còn
Tất cả các trang

Lê Minh Quốc - NGUYỄN THÁI HỌC

Lời thưa,

Có những người, dù chưa một lần gặp mặt, chưa một lần được thọ giáo nhưng trong thâm tâm bao giờ tôi cũng nghĩ đó là thầy của mình. Một trong rất nhiều người như thế đối với tôi là nhà văn hóa Nguyễn Hiến Lê. Nhân đọc tập Hồi ký của ông, dày hàng ngàn trang, nhưng chỉ có dăm dòng của ông đã thay đổi cả cách sống, cách viết của tôi. Ông viết rằng, đại khái, khi muốn tìm hiểu một vấn đề gì thì cách tốt nhất ta viết một cuốn sách về vấn đề đó.

ban-in-lan-1

(Bản in lần 1 NXB Văn Học - 1995)


Từ lời khuyên lạ lùng và hữu ích này, nay nhìn lại công việc đã làm, ngay cả tôi cũng ngạc nhiên tại sao mình lại có thể viết được nhiều đến thế. Tôi bắt đầu lao vào viết nhân vật lịch sử từ những năm 1994. Tình cờ trong một lần đến thăm thầy Trần Hữu Tá tại nhà riêng, qua trò chuyện, tôi biết thầy với nhà văn Hoàng Lại Giang đang chủ biên Tủ sách truyện danh nhân do NXB Văn Học và Công ty FAHASA tổ chức. Thầy gợi ý tôi nhận lời viết về một nhân vật lịch sử mà tôi hằng ngưỡng mộ. Lập tức trong trí óc của tôi hiện lên hình ảnh lãnh tụ Nguyễn Thái Học và tôi nhận lời. Chao ôi! Còn gì hấp dẫn tuổi trẻ hơn hình ảnh một nhà cách mạng  lúc bước ra pháp trường còn ngẩng đầu lên đọc thơ? Những câu thơ  “Chết vì tổ quốc/ Cái chết vinh quang/ Lòng ta sung sướng/ Trí ta nhẹ nhàng” của Nguyễn Thái Học bỗng quay về trong tâm trí của tôi lúc ấy...

ban-in-lan-2-NTH

(Bản in lần 2 của NXB Văn Học)

Ngay sau đó thầy ứng nhuận bút cho tôi, số tiền này nằm trong túi áo tôi không lâu. Vì từ nhà thầy (trên đường An Dương Vương) qua chợ sách cũ (đường Nguyễn Thị Minh Khai) chỉ là một đoạn ngắn, tôi đã dùng toàn bộ để mua tài liệu sử liên quan đến nhân vật vật mà mình sẽ viết.
Khi bắt tay vào viết thì có một lời đề nghị khác khiến tôi phân vân. Số là như thế này, trong thời điểm này, có một người bạn học cũ đang làm việc tại Công ty Phát hành Phim TP.HCM, sau khi biết công việc của tôi đang làm thì đề nghị là nên viết về nhân vật khác. Nếu làm như thế thì sau khi sách ra phát hành, họ sẽ xin sẽ dễ dàng xin tài trợ để làm phim. Lời đề nghị nghe cũng hấp dẫn. Nhưng nhân vật mà bạn tôi gợi ý, thật ra đã có nhiều người viết, nay có viết thêm hoặc không thì vị trí trong lịch sử cũng đã được khẳng định. Còn nhân vật Nguyễn Thái Học lại khác. Với vai trò là người cùng với Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính, Ký Con... lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái long trời lỡ đất, trước cả phong trào Xô Viết Nghệ Tỉnh; và Việt Nam Quốc dân đảng do các ông thành lập trước cả lúc Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời thì tại sao nay ta không viết lại, không đề cập lại một giai đoạn đáng tự hào của những người yêu nước?
Do khúc ngoặt của lịch sử, sau này, tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng đã thoái hóa, chuyển sang một hướng khác không đi cùng với nguyện vọng của dân tộc nên không ít người rất ngại khi viết về tổ chức này. Nhưng điểm son, mặt tích cực của nó thì ta không thể phủ nhận. Đánh giá sự vật phải đặt nó trong hoàn cảnh lịch sử đương thời, vậy mới là khoa học. Nghĩ nôm na, đơn giản như thế nên tôi càng quyết tâm phải viết cho xong quyển tiểu thuyết lịch sử về Nguyễn Thái Học.

 

ban-in-lan-2

(Bản in lần 3 của NXB Kim Đồng)

Quyển tiểu thuyết này tôi viết xong vào ngày 26.11.1994, nó đã được nhiều báo giới thiệu và đánh giá tốt. Nhưng điều không ai ngờ trước là nó đã được báo Nhân Dân (số ra ngày chủ nhật 9.6.1996) đã có bài giới thiệu rất trân trọng. Người đầu tiên kêu lên một cách ngạc nhiên và thú vị là nhà báo Nam Đồng (nay Tổng biên tập báo Pháp Luật TP.HCM), anh gọi điện thoại cho biết đã đọc bài báo này khi ngồi trên máy bay từ Hà Nội về TP.HCM. Nhờ vậy, tôi mới biết và tìm đọc bài giới thiệu này. Thú thật, trong các bài viết thì bài viết này đối với tôi rất quan trọng. À! thì ra lâu nay ta cứ “sợ bóng sợ vía” khi đề cập đến một vài nhân vật nào đó “có vấn đề”, nhưng thật ra giới sử học có cách nhìn nhận, đánh giá đã khác trước. Có điều, ta dám dũng cảm bày tỏ quan điểm của mình hay không? Hay tốt nhất là cứ chọn những nhân vật đã khẳng định để viết cho an toàn? Đó cũng là sự lựa chọn của mỗi nhà văn, nhà nghiên cứu sử.

Lê Minh Quốc

V.2012


 

Lời nói đầu

Mỗi chúng ta, hôm qua và hôm nay, trong những trăn trở buồn lo, trong những lúc mãn nguyện cũng như khi thất bại, đều nuôi trong tâm tưởng mình một điều gì đấy cao đẹp, thiêng liêng về một hình ảnh hữu hình hay vô hình nào đó, đôi khi như một huyền thoại lại đôi khi rất cụ thể sống động để mà vươn tới. Có thể đấy là hình ảnh một Trần Hưng Đạo trí dũng song toàn, một Tư Mã Thiên nhẫn nhục và trác việt, một Nguyễn Trãi tài năng và hiền đức, một Nguyễn Du, một Victor Hugo, một Lý Thường Kiệt và một Quang Trung đầy chất hào khí phương đông.

Mỗi người có một cuộc sống riêng. Nhưng cái lớn lao, cái cao cả của họ đều để lại dấu ấn trong lịch sử của mỗi dân tộc.

Sự gặp nhau giữa Nhà xuất bản Văn học và Công ty Phát hành sách Thành phố Hồ Chí Minh về việc phác họa lại nhiều chân dung các danh nhân trong và ngoài nước làm cơ sở cho vốn hiểu biết lẫn nhau trước cái cao cả giữa các dân tộc, hy vọng sẽ được độc giả đón nhận. Về mặt thể hiện, mỗi tác giả, trên cơ sở tư liệu trực tiếp và gián tiếp, những tư liệu in trong văn bản và những tư liệu mang tính dân gian, dựng lại hình ảnh những danh nhân của một thời để lại cho muôn đời.

Có thể ở một góc nhìn nào đấy tác giả chưa đạt được điều mong ước, chúng tôi cũng như tác giả xin được rút kinh nghiệm qua góp ý của độc giả.

Công ty Phát hành sách TPHCM

Nhà xuất bản Văn học


1

Một vụ ám sát chấn động Hà Nội

Hà Nội, 1929. Chiều ba mươi Tết năm Mậu Thìn. Những vòm cây đang run rẩy trong gió lạnh. Phất phơ những cơn mưa phùn. Rét lạnh. Không gian xám xịt. Những người phu như con ngựa đang cố sức kéo chiếc xe cao su kín mít như bưng, họ thở hồng hộc nhưng vẫn thấy lạnh. Mọi người đều vội vã trở về nhà. Đâu đó vọng lại tiếng pháo đì đùng tống biệt năm cũ. Chiều cuối năm buồn não ruột. Từ hãng buôn Godart trên phố Tràng Tiền sau khi tan sở, cô đầm lai Germaire Carcelle đã ra phía hồ Gươm để đến một hàng phở. Tại đây có gánh phở đặt ngay bên lề đường, khách đứng ăn xì xụp. Ả cũng gọi một tô nhiều thịt.  Mọi người xầm xì, người nọ nói với người kia:

- Chà! Phở ngon thật. Ngay cả ả đầm cũng đến đây ăn!

Nhưng rồi mọi người đều bất ngờ và tức giận khi ả đặt tô phở xuống đất, miệng gọi “Tôtô”, ra hiệu cho con chó lông xù đến ăn. Chừng như không thấy ngon miệng, nên con chó chỉ ngửi qua, ngoe nguẩy vẫy đuôi bỏ đi. Mọi người đều phẫn nộ nhưng họ chỉ trơ mắt ngó. Ả đầm điềm tĩnh mở ví trả tiền. Ả tuột tay để con chó xổng xích. Chừng như sợ chủ sẽ bắt ăn món không ngon nên con Tôtô chạy quýnh lên. Nó vượt qua đường. Ngay lúc đó có một chiếc ôtô trườn đến. Bánh xe lăn qua mình con chó đú đởn này. Nó chỉ kịp kêu ăng ẳng mấy tiếng rồi chết như… chó chết.

Ả đầm tức giận. Bước đến chỗ chiếc ô tô đang dừng lại, ả xỉa xói vào mặt chủ xe. Anh tài xế là người Việt khúm núm vừa mở miệng xin lỗi và xin bồi thường thì ả đã vung tay. Năm ngón tay mềm mại nhưng chứa đầy sự giận dữ đã tát thẳng vào mặt anh ta:

- Mày liệu hồn! Đồ con lợn!

Lúc đó, trong đám thực khách có một người thanh niên giận dữ, anh cầm tô phở đang ăn, bước đến và ném thẳng xuống chân ả đầm, anh buột miệng nói:

- Sale race! (giống kinh tởm!)

Ả kinh ngạc khi có một người An-nam-mít mà ả đã từng miệt thị lại dám nói với ả như thế. Ả quay lại thì nhận ra người thanh niên Việt Nam này cùng làm chung ở hãng Godart với ả, anh ta tên là Đoàn Trần Nghiệp.

Những người hiếu kỳ bu lại xem rất đông. Cảnh sát đến lập biên bản. Đoàn Trần Nghiệp vẫn đứng đó, anh ném về ả một cái nhìn khinh bỉ. Trong khi cảnh sát làm việc thì anh nghiêm nét mặt nói với đám đông:

- Avec cette poupée prétensieuse, Le France risque de perdre l’Indochine! (Với con búp bê kiêu hãnh này, có thể nói rồi nước Pháp sẽ mất cả Đông Dương).

Mọi người cười ồ lên và vỗ tay tán thưởng câu nói đó. Ả đầm cúi mặt.

Bây giờ, trên đường trở về nhà, nghĩ lại câu nói đó ả còn thấy ấm ức. Ngày mai phải báo cáo với sếp tống cổ tên này ra khỏi hãng thôi. Ả lầm bầm: “Câu nói đó là tư tưởng của bọn phản loạn”. Đường về nhà sao dài thế? Ả đang nôn nóng vì gã tình nhân sẽ đến với ả tối nay. Nghĩ đến vòng tay rắn chắc, khỏe mạnh của tình nhân ả khẽ hát “J’ai deux amours. Mon pays et Paris là lá la…”, một ca khúc thịnh hành thời bấy giờ.

Đúng vào lúc hai mươi giờ, từ ngôi nhà của ả đầm lai ở số 110 Chợ Hôm, (*)***** Nay là phố Huế.***** một người đàn ông Pháp bước ra. Đến trước cửa, hắn dừng lại cúi xuống hôn cô tình nhân bé bỏng một nụ hôn đắm đuối và nói nhỏ: “Đêm nay, anh sẽ mơ thấy em”. Ả cười khúc khích. Người đàn ông buông tay ả ra và băng qua đường.

Trước lúc bước lên chiếc xe hơi bóng lộn hiệu Hotchkiss sơn màu bleu royal đang đợi bên kia đường, hắn không quên đưa tay lên môi để từ biệt người yêu một cách kiêu hãnh. Tài xế bắt đầu nổ máy. Đột ngột lúc đó có hai người thanh niên xuất hiện. Gương mặt họ rắn rỏi. Môi mím chặt. Trông họ có dáng dấp của người trí thức. Họ mặc Âu phục. Đầu đội mũ nỉ sang trọng. Một người lịch sự cúi vào trong xe và nói bằng tiếng Pháp:

- Thưa ông, có lá thư của một người quen gửi cho ông.

Hắn nhíu mày ngạc nhiên nhưng vẫn cầm lấy lá thư. Hắn vừa liếc nhìn chỗ ghi tên người gửi là Hãng tàu buôn Bạch Thái Bưởi và mở thư ra đọc - thực chất đây là bản cáo trạng dành cho hắn - lập tức một thanh niên đã rút súng ra bắn vào ngay đầu hắn. Ba tiếng súng nổ đanh. Tia lửa sáng rực. Đạn xuyên qua hàm. hắn gục xuống. Nghe tiếng súng nổ, người tài xế tên là Nguyễn Văn Ty sợ quá nằm ép trong xe. Đợi lúc hai thanh niên đi khỏi, Ty mới dám ngồi dậy tri hô lên. Ả đầm Germaire Carcelle sợ hãi chạy thụt vào trong nhà, chỉ dám nhìn qua khe cửa. Liền lúc đó có ông Weill - bạn thân của nạn nhân chạy đến. Hắn được đưa vào bệnh viện Lanessan, nhưng dọc đường đã tắt thở…

Người đàn ông Pháp bị bắt chết ngay giữa Hà thành này là ai?

Hắn là Bazin – Giám đốc Sở mộ phu, chuyên nghề mua bán nô lệ, có thế lực nhất ở Bắc Kỳ, có một vợ ba con, đang cư ngụ tại ngôi nhà số 35 phố Félix Faure. (*)**** Nay là đường Trần Phú.*****

Khi  thực dân Pháp đặt chân lên Việt Nam, họ đã bắt đầu để ý một cách thèm thuồng đến những vùng đất cao nguyên màu mỡ. Sau nhiều năm nghiên cứu, họ thấy rằng, nếu được trồng cao su thì nơi đây sẽ đem lại nguồn lợi vô tận. Vùng Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh sang tới Kompong Chàm, Kompong Thom được họ đặt tên là Vùng Đất Đỏ. Họ liền mộ dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ vào làm trong những đồn điền của họ. Mỗi người dân phu phải ký hợp đồng làm trong thời hạn ba năm với những lời hứa hẹn tốt đẹp. Nhưng khi xuống tàu vào đến Nam Kỳ thì những người cu li này bị đối xử tàn tệ như những người nô lệ. Từ đây, những người nô lệ này phải miệt mài cuộc đời trâu ngựa để rồi vùi xác dưới những gốc cao su. Máu của người dân quê này đã tưới cho các lô cao su thêm tươi tốt. Nỗi kinh hoàng này đã được khắc họa thành những lời thở than:

Kiếp phu đổ lắm máu đào

Máu loang mặt đất máu trào mủ cây

Trần gian địa ngục là đây

Đồn điền Đất Đỏ nơi Tây giết người!

Vì lẽ đó, khi nghe nói đến việc đi phu cao su là ấn tượng khủng khiếp trong dân chúng. Ngay cả tờ báo có tinh thần xã hội như tờ Journal D’opposition viết bằng Pháp ngữ xuất bản ở Sài Gòn cũng lên tiếng phê phán chính sách bóc lột này của thực dân.

Trong khi đó, tại Bắc Kỳ, tên Bazin ra sức lừa mị dân nghèo. Hắn tổ chức bắt cóc hoặc vu oan để đẩy nông dân vào thế đường cùng, không còn cách nào khác là phải đi mộ phu. Trung bình cứ một cu li đăng ký giao kèo thì hắn được hưởng mười lăm đồng. Lương của một cu li làm một ngày là 0 đồng 41 xu, còn đàn bà và trẻ con thì chỉ đến 0 đồng 23 xu. Như vậy số tiền hưởng trên mỗi đầu cu li – một năm dụ dỗ được 8.000 người như những năm trước đây – thì hắn hốt được bạc triệu. Vì thế Bazin ra sức mộ phu bằng mọi thủ đoạn. Chính hắn đã thuê bọn bồi bút tung ra trong dân gian bài “Đi Phu Mộ” mà đâu đâu cũng nghe trẻ con hát:

Bà con ơi! Bà con ơi!

Cao su sống thật là nhàn

Vào đây có xóm có làng hẳn hoi

Không tin vào đó mà coi

Gạo thịt chủ phát ôi thôi thiếu gì

Tiền lương một tháng hai kỳ

Thức ăn giá rẻ mặc tình mà mua

Nhà cửa cứ vào mà xem

Nhà tô nhà ngói lại chen nhà lầu

Tất cả mọi thứ nhu cầu

Chủ nhân bán rẻ ai mà chẳng ham

Tội chi ôm mãi xóm làng

Mau mau một chuyến vào Nam xem nào!

Đứng trước một thực trạng nguy hiểm như thế, các Đảng Cách mạng Việt Nam không thể làm ngơ được. Tiếng súng bắn nát sọ tên mộ phu Bazin là lời thách thức công khai và quyết liệt. Hành động táo bạo này đã gây chấn động trong giới cầm quyền thực dân. Mười lăm ngày sau khi xảy ra vụ ám sát nầy, Toàn quyền Đông Dương đã ký nghị định thiết lập Hội đồng đề hình tại Hà Nội để xử “những kẻ phiến loạn” theo sắc lệnh đã ký ngày 26-11-1896 của Tổng thống Pháp.

Những con chó săn điên tiết trước cái chết đột ngột đã diễn ra ngay tại Hà Nội, điều này chúng không lường trước được. Sang ngày mồng bốn tết năm đó, Sở mật thám Bắc Kỳ bủa vây, khám xét nhiều người, nhiều nhà trong thành phố mà chúng nghi ngờ.

Trong số này có một học sinh trung học Albert Sarraut tên là Léon Sanh. Anh ta tên thật là Hoàng Văn Tiếp, khi viết báo ký tên Tế Xuyên – đã dùng tờ giấy khai sinh của một thanh niên Việt có quốc tịch Pháp đã chết mà không khai tử. Léon Sanh bị bắt ngay tại nhà số 25 phố Hàng Đào, (*)**** Nay vẫn gọi tên phố Hàng Đào.***** anh ta bị nghi ngờ vì trước đó hai tháng đã bị bắt quả tang rải truyền đơn tố cáo vụ đi mộ phu Tân Thế Giới của Bazin. Anh bị tòa án tiểu hình Hà Nội kết án sáu tháng tù. Trong khi khám xét thì bọn chó săn có tìm được một mảnh giấy ghi số 110 và bức thư anh viết gửi vào Sài Gòn mà chưa kịp bỏ vào thùng thơ bưu điện. Bức thư ấy có tuồng chữ hao hao như nét chữ của bản cáo trạng mà người thanh niên đã trao cho Bazin trước lúc hạ thủ.

Léon Sanh bị đánh đập tàn nhẫn và buộc phải tự nhận mình là thủ phạm. Anh bị đưa đến nhà 110 Chợ Hôm để diễn lại sự việc. Nhưng căn cứ vào lời khai của cô đầm Germaire Carcelle - chủ nhân ngôi nhà và tài xế thì vẫn còn thiếu một tòng phạm nữa. Vậy người đó là ai? Léon Sanh đã bịa ra một người khác có tên là Trần Bình Nam. Sở mật thám không tìm ra ai tên này. Chúng bèn bắt chú của Léon Sanh – vì trước đây ông này có đứng ra thầu việc phá rừng cho Công ty Đất Đỏ nên bị nghi ngờ là hạ thủ Bazin vì cạnh tranh trong làm ăn.

Ra trước phòng dự thẩm của Tòa án Hà Nội, luật sư của Léon Sanh đã xúi anh phản cung vì không tìm ra một chứng cớ gì khác để buộc tội bị can. Hơn nữa khi giảo nghiệm tự dạng trong hai bức thư thì rõ ràng bức thư đưa cho Bazin không phải anh viết dù hai tuồng chữ giống nhau. Đến nước này, dù thừa biết thủ phạm không phải là Léon Sanh, nhưng để trấn áp dư luận đang bàn tán xôn xao, Sở mật thám loan tin đã tìm được thủ phạm và đánh hướng rằng vụ ám sát táo bạo này là do sự cạnh tranh trong làm ăn.

Léon Sanh bị tống vào Hỏa Lò.

Vậy ai đã giết Bazin? Tổ chức nào? Đảng phái nào? Câu hỏi này đang treo lơ lửng trong sự căm hờn của Sở mật thám.

Tưởng rằng sự việc này sẽ chìm dần theo năm tháng. Nhưng rồi sự việc lại bị tiết lộ. trước đó hai năm – năm 1927 – những nhân sĩ bạn hữu của cụ Phan Bội Châu ở Bắc Kỳ như các cụ Ngô Đức Kế, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, Lê Dư, v.v… đánh điện vô Huế mời cụ Pham ra chơi đất Bắc. Các cụ đã ủy nhiệm cho những thanh niên yêu nước như Trần Đình Nam, Nguyễn Quốc Túy, Trần Vỹ thuê xe hơi và hộ tống cụ ra Bắc. Khi xe đưa cụ Phan đến đồn Bửu Sơn thì viên chánh giám binh Pháp ở đó đã giăng sẵn dây tam tài ngang qua đường, chặn xe cụ lại. Hắn bước đến bên xe, lịch sự hỏi:

- Có phải ngài là Phan Bội Châu?

Cụ Phan đáp:

- Phải!

- Tôi mới nhận được dây thép ở Vinh cho hay cụ sẽ qua đây và thượng cấp ra lệnh cho tôi phải ngăn xe cụ lại. Tìm kiếm mãi mới biết cụ ra Bắc.

- Ủa! Tôi là người Việt Nam, không có quyền đi chơi thăm đồng bào Việt Nam trong nước tôi hay sao? Tôi có đi ngoại quốc đâu mà phải xin giấy tờ?

Lúc bấy giờ cụ Phan đang trong tình trạng bị an trí - thực chất là bị giam lỏng ở Huế - nên cụ mới bực bội nói thế. Mỗi bước đi của cụ đều bị theo dõi nghiêm ngặt, ngay cả những đoàn thể nhân dân đến thăm cụ cũng bị thực dân ghi tên vào sổ đen. Nghe cụ nói vậy, hắn đáp:

- Không nói lôi thôi, mời ông về ngay Huế.

- Ngộ tôi cứ đi thì sao?

- Nếu ông đi tôi sẽ ra lệnh bắn vô bánh xe cho nổ. Ông sẽ hết đi!

Cụ Phan cứng cỏi hỏi:

- Ông bắn nổ xe hơi, tôi sẽ đi xe lửa!

- Nếu ông đi xe lửa, tôi ra lệnh cho chef ga không bán vé!

Cụ Phan lại hỏi cắc cớ:

- Thế ngộ tôi bay thì ông làm gì?

- Nếu ông bay được thì tôi xin chịu.

Thế là cụ Phan cười xòa, cho xe quay về Huế. Và để làm rõ sự việc này nên chúng đã bắt giữ lại Nguyễn Quốc Túy. Bấy giờ khi xảy ra vụ ám sát Bazin thì Thống sứ Bắc Kỳ ký lệnh trục xuất Nguyễn Quốc Túy về nguyên quán Trung Kỳ. Nhận được lệnh, Túy đã đến Sở mật thám nói với tên Rinert là xin ở lại Bắc Kỳ, nếu được đồng ý thì y sẽ cung cấp cho Rinert một tin rất quan trọng. Tên mật thám cáo già này cười khẩy và mỉa mai:

- Quan trọng à? Mày về Vinh mà khai với quan chánh mật thám Vinh. Ngài chưa quên tội trạng của mày đâu.

Lính giải Túy về Vinh. Tại đây, dù chưa bị ăn đòn nhưng y đã thành thật khai:

- Trước đây có người đồng học với tôi tên là Nguyễn Thái Học có rủ tôi vào hội kín. Mục đích của hội kín này là dùng bạo lực để lật đổ chế độ. Ngoài Nguyễn Thái Học ra còn có Hồ Văn Mịch, Phạm Tuấn Tài, Nhượng Tống và…

Không đợi Túy nói hết, tên chánh mật thám Vinh đã rú lên như bắt được vàng. Hắn cho Túy một số tiền và buộc viết tường trình lại toàn bộ sự việc quan trọng này. Túy ngoan ngoãn làm đúng yêu cầu đó và dưới bức thư này thay vì ký tên thì y chỉ đánh dấu thập.

Lập tức Sở mật thám Bắc Kỳ giăng lưới đồng loạt để bắt bớ những người có tên trong hội kín này theo lời khai của Túy.

Túy đã cho bọn mật thám biết rõ thủ phạm của vụ ám sát kinh thiên động địa này là Nguyễn Văn Viên. Anh là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân (VNQD) đảng. Năm mười sáu tuổi, từ Bắc Ninh, anh lên Hà Nội với bố mẹ để đi mộ phu vào Nam Kỳ. Khi vào đó, tên anh được thay bằng con số thứ tự là 3087. Một buổi sáng sương đêm còn ẩm ướt trên những vòm cây cao su. Trời rét lạnh. Những cu li đang ngủ thì có kẻng báo thức. Họ chạy ra sân theo lệnh của bọn cai trong cơn ngái ngủ. Những bó đuốc lập lòe ánh sáng. Cuộc điểm danh bắt đầu. Bọn cai gọi tên từng người một và cho số. Cuối cùng đến phiên anh.

- Nguyễn Văn Viên!

- Có!

- Mày số 3087 nghe chưa?

- Rõ!

Sau đó, chúng gọi lại lần thứ hai, khi gọi tên thì người đó phải nói số của mình. Xong đâu vào đấy, thấy anh nhỏ con đang đứng co rúm trong chiếc manh khố rách, tên cai gọi anh:

- Mày ra đây thử coi nhóc!

Anh bước ra khỏi hàng. Hắn lại hỏi:

- Mày tên gì?

- Tôi tên là Nguyễn Văn Viên số 3087!

Anh vừa dứt lời thì chiếc roi đuôi bò quất tới tấp vào mặt:

- Tôi! Tôi! Tôi cái thằng cha mày chớ!

Chưa hết giận, hắn nhảy song phi lên đạp thẳng vào bụng anh, anh té quỵ xuống đất. Máu trào ra khỏi miệng. Hắn chống nạnh, bước chân dẫm lên bụng anh và nói với đám cu li:

- Ai cho phép bọn mày xưng “tôi”? Thật là một lũ mất dạy! Vào đây, bọn mày phải xưng “con” khi trả lời với các ông nghe không?

Vừa nói xong, hắn đưa tay chỉ vào mặt một người cu lì già:

- Con đĩ kia rõ chưa?

- Dạ, con rõ.

Đám cu li mặt mày tái mét đứng co ro im lặng. Hắn nói tiếp:

- Vào đây bọn mày không còn tên tuổi gì nữa. Bọn mày chỉ là những con số thôi. Bọn mày cứng đầu, làm loạn là tao giết hết. Bọn mày chết thì cũng còn thua con chó chết. Nghe lệnh của tao là phải răm rắp nghe theo nghe chưa? Còn thằng nhóc này…

Hắn cúi xuống nhìn anh Viên đang ngọeo cổ thở khò khè dưới chân hắn:

- Mày muốn làm loạn à? Ai dạy mày xưng “Tôi” với ông? Mả mẹ mày vào đây mà còn làm cao. Đứng lên tao biểu mày.

Anh lồm cồm bò dậy. Hắn nắm tóc anh, nhìn vào mặt anh và hét lớn:

- Giỏi lắm! Mới vào đây mà đã làm loạn rồi. Mày có anh chị không?

Anh thành thật trả lời:

- Dạ, con có anh chị!

Nhanh như chớp, hắn lôi đầu anh xuống và nâng đầu gối lên mặt anh:

- Gớm! Mày có anh chị à?

Anh kêu lên:

-  Ối! Chết con rồi bố mẹ ơi!

- Cho mày kêu bố mẹ mày. Tao là bố mẹ mày đây. Kêu ai nữa hử?

Vừa nói hắn vừa đấm tới tấp vào mặt anh. Tên sếp Tây đang đứng đó cũng nổi máu lên lấy chiếc đòn gánh nện vào lưng anh. Anh lại ngã quỵ xuống. Tên cai lại hỏi:

- Mày đứng dậy ngay thằng nhóc con. Mày có anh chị không?

Anh lại thành thật đáp:

- Dạ, con có anh chị!

Chỉ chờ nghe vậy, hắn co chân đạp thẳng vào mặt anh. Anh chỉ kịp kêu lên:

- Ối trời ơi! Ối trời ơi! Con có anh chị thật mà ông Cai!

Anh ngất xỉu. Bố mẹ anh và đám phu đứng nhìn căm thù mà không dám nói một lời nào cả. Mẹ anh rơm rớm nước mắt. Hắn chỉ tay vào mặt bà:

- Con đĩ già kia mày đẻ con mà không biết dạy con. Con cái của mày anh chị à? Anh chị ở trong Nam có nghĩa là “đồ du côn”. Con mày anh chị du côn là tao phải trị rõ chưa?

Mặc kệ nạn nhân đang nằm ngất xỉu dưới đất, hắn ra lệnh:

- Cuộc điểm danh sáng nay là xong. Bây giờ tất cả ra lô mau!

Từng tốp cu li phân tán, thực hiện mệnh lệnh của hắn. Tên sếp Tây vỗ vai hắn:

- Mày giỏi lắm. Phải đánh phủ đầu như thế để làm gương cho tất cả bọn nó. Bọn trâu ngựa này mà không dùng roi vọt để dạy dỗ thì chúng chỉ làm loạn!

Nghe chủ khen như thế, hắn cúi đầu đáp:

- Dạ, ông dạy rất đúng. Ngày nào mà con không đánh đập chúng nó thì tay chân con mỏi lắm. Con ăn không ngon, ngủ không yên. Bọn trâu ngựa này chỉ có thể dùng roi vọt mà thôi. Con xin ghi nhớ lời của ông chủ.

Cả hai cùng cất tiếng cười vang. Trời bắt đầu sáng. Sương đêm phai dần và lóe lên những ánh sáng của một ngày mới. Những người cu li bắt đầu một ngày tủi nhục như thế.

Sau trận đòn thừa sống thiếu chết này, anh Viên bắt đầu ý thức được thân phận nô lệ của mình. Căm thù chứa đầy trong lồng ngực. Làm trong lô cao su được hai năm thì anh không còn chịu đựng nổi được nữa. Kiếp người cu li như kiếp người tù. Bố mẹ anh tìm cách vượt ngục. Chỉ có mỗi mình anh trốn thoát được về đến Hà Nội, còn bố mẹ anh thì bị người dân tộc bắt được. Họ bị bon này chặt đầu để nộp cho chủ Tây mà lãnh thưởng.

Khi trở về Hà Nội, được sự giác ngộ của những đảng viên VNQD đảng, anh đã tự nguyện xin vào Đảng. Muốn tuyên truyền và tranh thủ tình cảm trong giới công nhân cao su, nên anh đã đưa ra kế hoạch phải ám sát tên Bazin. Trong những cuộc họp của tổng bộ Đảng, Nguyễn Thái Học không đồng ý vì nhận định thời cơ chưa cho phép. Thế là anh Viên tự mình theo dõi mọi hành động của Bazin. Sau khi nắm rõ mọi hành tung của tên cáo già thực dân này, anh đã bí mật lấy cắp khẩu súng lục và một số đạn của Hãng Poinsart et Veyret – nơi anh đang làm công việc bán hàng cho khách. Có vũ khí trong tay, anh rủ thêm một người đồng chí nữa là Nguyễn Văn Lân để thực hiện mưu đồ của mình. Phát súng táo bạo của anh đã làm cho phong trào mua bán nô lệ ở Bắc Kỳ giảm xuống một cách rõ rệt.

Do tên Nguyễn Quốc Túy chỉ điểm nên anh bị bắt. Ngay đêm đó, anh tự xé áo mình làm dây thừng, buộc vào song sắt nhà tù để siết cổ mình mà tự tử.

Thực dân Pháp đã thực hiện một cuộc bố ráp lớn. Dịp này nhiều cơ sở bí mật của VNQD Đảng bị khám phá, nhiều tài liệu quan trọng bị mật thám tịch thu. Hàng ngàn đảng viên bị giam cầm, tra tấn. Những nhân vật quan trọng của Đảng tức tốc bị bắt hoặc bị truy nã trừ Nguyễn Khắc Nhu, Nguyễn Thái Học và một số yếu nhân khác đã thoát khỏi. Thực ra, trước đó thực dân đã biết đến hoạt động của Đảng, nhưng Pháp chưa ra tay vội vì muốn để tổ chức này lan rộng rồi sau đó mới tận diệt. Vụ ám sát Bazin là cơ hội để chính quyền Đông Dương thực hiện cuộc đàn áp. Từ đây, tổ chức chính trị VNQD Đảng bị lôi ra ánh sáng. Tình trạng bố ráp này, không những chỉ xảy ra ở Bắc mà còn có ở Nam Kỳ nữa. Con số đảng viên đã bị bắt lên đến 227 người.

Ngày 3-7-1929, hội đồng đề hình bắt đầu thực hiện quyền lực của mình. Đây là một tòa án đặc biệt thay thế các tòa án thường để xử dân bản xứ, những đồng hóa phạm, những khinh trọng tội liên quan đến nền an ninh của chính sách bảo hộ hoặc tới sự mở mang của chính sách thuộc địa Pháp. Tên thực dân Brides được cử làm chánh hội đồng. Hắn là một trong bốn tên cáo già mà nhân dân Bắc Kỳ đã liệt vào hàng “tứ hung”. Nhất Đạc (Darles) nhì Ke (Eckert) tam Be (Dela Gambert) tứ Bích (Brides). Hội đồng này tuyên xử 80 án tù từ 20 năm trở xuống đến 2 năm. Trong số này có những nhân vật như Nhượng Tống, Nguyễn Triệu Luật, Trúc Khê, Nguyễn Thế Nghiệp, Trần Huy Liệu, v.v…

Đứng trước sự khủng bố này, Nguyễn Thái Học đã nhận thấy sự tiên đoán của mình về việc manh động giết Bazin là đúng. Khi đưa vấn đề này ra trước tổng bộ Đảng để bàn bạc thì anh phát biểu:

- Nếu chúng ta vội giết tên buôn người Bazin thì bọn thực dân sẽ khủng bố dữ dội, vì đa số các đồng chí trong cấp lãnh đạo Đảng đều có tên trong “sổ đen” của Sở mật thám. Thực dân sẽ có cớ mà bắt hết chúng ta. Đảng sẽ tan rã dần. Lợi ít mà hại nhiều. Bazin chẳng qua là một cành cây, gốc đổ thì cành cây tất phải héo. Vì lẽ đó, các đồng chí hãy bình tĩnh, nén căm hờn lại mà mưu những việc đại sự.

Thế rồi sự việc vẫn cứ xảy ra. Sau vụ án này, nhân dân như được bừng tỉnh. Tên tuổi Nguyễn Thái Học được lén lút nhắc đến với tất cả sự kính trọng. Chàng thanh niên này là ai mà dám chủ trương một Đảng cách mạng ngay giữa Hà Nội?


2

Vạch trời một tiếng thét vang

Nguyễn Thái Học sinh năm 1902, nhưng theo giấy học bạ của anh thì ghi ngày 1/12/1904. Anh sinh tại làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay là tỉnh Vĩnh Phú). Bố của anh là một nông dân chất phác tên Nguyễn Văn Hách. Mẹ là bà Nguyễn Thị Quỳnh, ngoài thời gian làm ruộng còn tranh thủ làm thêm nghề dệt vải, buôn vải ngay tại làng Thổ Tang. Anh là con trai trưởng trong gia đình, các em kế theo là Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Lâm và Nguyễn Văn Nỉ.

Năm 1906, anh được thân phụ đưa đến thụ giáo Hán văn tại nhà một cụ tú tài trong làng. Năm 1912, trường tiểu học Pháp-Việt được thiết lập tại phủ Vĩnh Tường, anh xếp bút lông để cầm bút sắt. Làn gió Tây bắt đầu thổi vào trong sinh hoạt của người dân bản xứ. Những câu trong sách Thánh hiền như quân tử chi học dã, dĩ vi kỳ thân, tiểu nhân chi học dã, dĩ vi cầm độc – người quân tử học là để làm cho thân mình, kẻ tiểu nhân học là để làm thân trâu ngựa – bắt đầu được thay thế dần bằng chữ quốc ngữ. Nguyễn Thái Học thông minh nên học đến đâu là nhớ đến đó. Những buổi tối khi ngồi dệt vải, bà Quỳnh không thể biết được là con mình đã học những gì? Tiếng Tây sao lạ quá vậy? Đêm đêm dưới ngọn đèn dầu, anh ngồi học.

Ngồi buồn kể chuyện Phăng-xe (Francais)

Ăn trầu nó gọi xí-kê (chiquer) lạ thường

Lơ-li (le lit) chính gọi cái giường

Bát-xa (passage) cái ngõ, con đường xơ-manh (chemin)

Cơ-lu (Clou) đích thực cái đanh

Li-mô-nat-đờ (limonade) nó gọi nước chanh rõ ràng

Hoặc cũng có khi anh cao hứng hát theo điệu lý hành vân:

Se dăng-făng, se dăng-făng

Vu dết jơn jăng

Lơ tăng pát xờ vít

Tờ-ra-vây-lê, pơ-rơ-nê le pen

Ác-bờ-rờ ki pút-xờ, xuốc-ki-um

Pi-e ki run mác-cờ lơ tăng ki xê-cun, xê-cun.

Bà Quỳnh ngừng tay nhìn con trai hỏi:

- Con hát gì mà lạ vậy Học? Đẻ nhớ bài này hát theo điệu hành vân có đúng không?

Anh ngoan ngoãn đáp:

- Thưa đẻ, đúng vậy ạ.

- Thế cái chữ Tây nó nghĩa ra làm sao?

Anh nhìn vào vở và đọc rành mạch:

Chers enfants, chers enfants

Vous êtes jeunes gens, travaillez, prenez la peine

Abre qui pousse, soucre qui coule, pierre qui roule

Marque le temps qui s’ecoule, s’ecoule.

Bà Quỳnh nghe ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm. Bà không thể nào hiểu nổi. Vừa dứt lời, anh nói:

- Thưa đẻ, tiếng Tây nó nói như thế này: “Các  con thân yêu, các con thân yêu. Các con còn trẻ, hãy làm việc đi, hãy chịu khó. Thời gian qua nhanh. Cây mọc, suối chảy, đá lăn. Đánh dấu thời gian trôi đi thấm thoát, trôi đi thấm thoát”.

Bà Quỳnh nghe con giải đáp, gật gù nói:

- Ừ! Thời gian qua nhanh lắm, như bóng câu vụt qua cửa sổ. Con gắng học cho giỏi để mở mày mở mặt với thiên hạ.

Anh “dạ” thật nhỏ rồi cú xuống học. Tiếng dệt vải vẫn kêu đều đều trong căn nhà. Ngoài vườn bóng trăng đã lên cao, đâu đó có tiếng ếch kêu uôm uôm vọng lại.

Ngoài thời gian cắp sách đến trường, khi trở về nhà là anh dẫn trâu ra đồng. Một buổi chiều mùa thu, nắng vàng úa, trên đường dẫn trâu về nhà thì anh gặp bà mẹ của ông Đội Cấn. Bà cụ ôm chầm lấy anh mà khóc, từ khi con trai mình hy sinh, bà cụ trở nên dở người, khi gặp mọi người thì bà vừa khóc vừa nói thảm thiết:

- Các cậu! Các cậu làm thế nào mà báo thù cho con của già!

Ban đầu anh không hiểu gì cả. Đêm đó, anh trở về nhà hỏi mẹ anh, thì bà Quỳnh nhìn trước nhìn sau kể cho anh nghe cái chết của ông Đội Cấn. Tư tưởng cách mạng đã được nhen nhúm trong tâm hồn anh từ đó. Năm 1917 này vừa diễn ra cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên do con trai của cụ Lương Văn Can là Lương Ngọc Quyến và Trịnh Cấn (tức Đội Cấn) chỉ huy. Cụ Quyến lúc đó bị giam trong ngục Thái Nguyên, thực dân Pháp đã dùng thép nóng dùi bàn chân cụ để buộc xích sắt, nên liệt hẳn một chân. Mặc dù vậy, cụ vẫn liên lạc với viên đội khố xanh Trịnh Cấn, bày mưu cho Trịnh Cấn khởi nghĩa phá ngục Thái Nguyên. Nghĩa binh này làm chủ được tỉnh lỵ Thái Nguyên một tuần (từ 30-8 đến 5-9-1917), dùng lá cờ năm ngôi sao làm quốc kỳ, đặt tên quốc hiệu là Đại Hùng Đế Quốc và công bố hai bài tuyên ngôn do cụ Quyến soạn thảo. Sau thực dân Pháp phản công đàn áp, nghĩa quân không chống cự nổi phải rút lui. Cụ Quyến vì bị liệt nên không rút chạy được, đã yêu cầu Đội Cấn bắn một phát súng vào ngực mình để tìm cái chết. Đội Cấn trên đường rút lui, bị thương ở Pháo Sơn nên tự bắn vào bụng mình mà chết. Cái chết của hai ông dù không được công khai kể ra, dù thực dân Pháp cố tình bưng bít nhưng đã gây xôn xao trong nhân dân.

Nguyễn Thái Học nghe mẹ kể đã rơi nước mắt. Đêm đó, anh không ngủ được. Ý thức làm cách mạng đang cháy dần trong tâm tưởng của anh.

Năm 1921, trường Sư phạm bắt đầu khánh thành tại phố Đỗ Hữu Vị (*)***** Nay là cửa Bắc.******** gần cửa Bắc, Nguyễn Thái Học là một trong số bốn mươi lăm người trúng tuyển.

Rời khỏi quê nhà, Nguyễn Thái Học ra Hà Nội. Không như những học sinh lúc bấy giờ thích ở nội trú, anh xin ở trọ bên ngoài. Bàn chân anh lang thang khắp ba mươi sáu phố thường. Hà Nội lạ lùng quá, mới mẻ quá mà chưa thể nào anh hiểu hết được. Đã có một lần đi qua Hồ Gươm, chính mắt anh đã chứng kiến một sự việc ghê rợn: dưới ách đô hộ của Pháp thì đàn ông đến tuổi mười tám phải nộp tiền thuế sưu, mỗi người ba đồng bạc rồi được cấp cho một cái thẻ gọi là giấy thuế thân. Nếu ai không có giấy này thì bị gọi là lậu đinh, bị phạt rất nặng, có thể bị giam vào nhà lao làm việc khổ sai, mãn hạn còn phải nộp phạt nặng gấp mấy lần tiền thuế. Lính tuần cảnh nếu mỗi tuần không bắt được ai phạm pháp thì bị khiển trách. Chiều hôm ấy, có một người nông dân nghèo, trông anh ta như từ nông thôn lên Hà Nội. Lính tuần cảnh xét giấy anh ta. Không hiểu sao, anh lính lại vò nát giấy thuế thân của người này, rồi bỏ vào miệng định nuốt đi. Anh ta sợ quá vội bóp cổ anh lính không cho nuốt. Anh lính vẫn không nhả ra, người nông dân càng bóp chặt thêm khiến cho anh lính tắt thở mà chết. Chứng kiến cảnh đó, sợ hãi, Nguyễn Thái Học nhanh chân phóng về nhà trọ, anh kể lại cho người bạn thân của mình là Hồ Văn Mịch.

Sau khi nghe hết câu chuyện, Mịch trầm ngâm nói:

- Trong sự việc đó, cả hai người đều là vô tội. Họ đều là nạn nhân của chính sách chó đẻ này.

Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp đã nêu rõ: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và luôn luôn tự do bình đẳng về quyền lợi”. Bọn thực dân Pháp đã phản bội lại bản Tuyên ngôn này. Anh có đồng ý vậy không anh Học?

Nguyễn Thái Học đáp:

- Vâng, tôi cũng suy nghĩ như vậy. Qua sự việc mà tôi kể với anh, thì hai người đó là nạn nhân và chúng ta cũng là nạn nhân! Liệu rằng sự học của chúng ta có giúp ích được gì cho quốc dân không?

- Được chứ! Sự học như con thuyền ngược nước, không tiến ắt lùi. Nhưng thời buổi này chỉ có học thôi thì vẫn chưa đủ đâu! Không lẽ chúng ta học xong để an phận là thầy thông, thầy ký sáng vác ô đi, tối vác về?

- Vậy thì chúng ta phải làm cách mạng.

Anh nói với giọng quả quyết, nghe vậy Hồ Văn Mịch nhíu mày:

- Anh nói khẽ thôi!

Kết thúc những năm học tại trường Sư phạm vào năm 1926, Nguyễn Thái Học không đi nhậm chức mà anh lại xin vào học trường Cao đẳng Thương Mãi Hà Nội. Trong thời kỳ này, Nguyễn Thái Học và Hồ Văn Mịch thường lui tới giao du với nhóm Nam Đồng Thư Xã. Tại đây, ngôi nhà số 6 đường 96 khu Nam Đồng (*)****** Nay là đường Trúc Bạch (khu Nam Đồng).****** (trước hồ Trúc Bạch) vào cuối năm 1925 có ba thanh niên trí thức yêu nước là Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài và Nhượng Tống đứng ra tổ chức nhóm này. Họ chuyên sáng tác, dịch thuật những tác phẩm như Cách mạng Trung Hoa, Lịch sử Tôn Dật Tiên, Chủ nghĩa Tam dân, v.v…. in trên giấy xấu, bán giá bình dân để tuyên truyền trong công chúng. Việc làm này đã gây được cảm tình trong thanh niên. Lui tới Nam Đồng Thư Xã Hà Nội Nguyễn Thái Học, Hồ Văn Mịch còn có Phó Đức Chính, Lưu Văn Phùng và nhiều sinh viên học sinh khác. Họ gặp nhau để bàn luận về tình hình chính trị trong và ngoài nước. Năm 1925, cụ Phan Châu Trinh về nước hăng hái đi diễn thuyết, hô hào quốc dân khắp nơi. Cuộc vận động đòi thả cụ Phan Bội Châu từ Bắc vào Nam cũng như những bài nói của cụ Phan Châu Trinh như Đạo đức luân lý Đông Tây và quân trị, dân trị từ Nam truyền ra Bắc. Trước đó, năm 1924, chàng thanh niên Phạm Hồn Thái đã ném bom giết hụt Toàn quyền Merlin ở Sa Điện (Quảng Châu) đã đánh thức cơn mê ngủ của đồng bào. Trong lúc này vua bù nhìn Khải Định ở Trung Kỳ lo tăng thuế để làm lễ “Tứ tuần đại khánh” và chuẩn bị đón con là Bảo Đại từ Pháp về. Báo chí tiến bộ trong Nam Kỳ lại rộ lên những bài viết vạch tội Khải Định và dịch đăng bức thư Bảy tội đáng chém của cụ Phan Châu Trinh gửi cho Khải Định, hồi sang Pháp. Những tờ báo in bài này dù bị cấm lưu hành, nhưng vẫn dội ảnh hưởng ra Bắc.

Có thể nói, thanh niên Việt Nam của thế hệ này rất thích đọc sách của nhóm Nam Đồng Thư Xã. ngoài ra, còn có thể kể thêm sách của Quan Hải Tùng Thư ở Trung Kỳ do Đào Duy Anh và Trần Thị Như Mân chủ trương. Còn ở Nam Kỳ, ngoài nhóm La Lutte của Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, thì còn có sách của nhóm Nữ Lưu Thư Quán do Phan Thị Bạch Vân chủ trương. Về báo chí chính trị tiến bộ thì có những tờ như L’Argus Indochinois xúât bản tại Hà Nội, tờ Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng xuất bản ở Huế, tờ Cloche Fêlee bằng Pháp ngữ của Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn, v.v… Tất cả những sách báo này và nhất là những lần thảo luận chính trị tại Nam Đồng Thư Xã đã thúc đẩy Nguyễn Thái Học viết hai bức thư gửi cho Varenne – Toàn quyền Đông Dương. Trong hai lá thư này anh yêu cầu:

1/ Quyền tự do mở các trường học không lấy tiền, dành cho dân cùng đinh đến học, nhất là cho thợ thuyền và nông dân.

2/ Quyền tự do mở các bình dân thư xã ở làng cũng như ở các tỉnh công nghệ.

Ngoài ra, anh còn gửi kèm theo dự án giúp đỡ dân nghèo thoát khỏi cảnh bùn lầy nước đọng. Hai lá thư tâm huyết ấy đều không được phúc đáp. Trong lúc Nguyễn Thái Học tin tưởng vào lão già Varenne đã hứa hẹn để viết những dòng chữ cháy bỏng nhiệt tình thì lúc bấy giờ, bên tận trời Tây – nhà cách mạng kiệt xuất Nguyễn Ái Quốc bằng mẫn cảm chính trị tuyệt vời của mình đã lật mặt nạ của Varenne trên báo Paria (số 36-37 ra tháng 9-10/1925).

Chưa chịu thất bại, thời gian sau, Nguyễn Thái Học lại gửi đơn đến Thống sứ Bắc Kỳ để xin phép xuất bản nguyệt san lấy tên là Nam Thanh. Mục đích của tờ này là tuyên truyền nâng cao trình độ trí, đức, thể dục cho nhân dân. Khuyến khích họ bỏ thói ham thích hư danh, làm quan lại mà hãy chú trọng vào công nông thương nghiêp. Nhà cầm quyền Pháp không chấp thuận. Hơn thế, những bài báo của anh viết cũng bị Pháp kiểm duyệt xóa bỏ nốt!

Nguyễn Thái Học bắt đầu chán nản, anh nhận thấy việc học của mình không giúp ích được gì cho quốc dân, anh bỏ học và bắt đầu lao vào con đường hoạt động chính trị. Lúc bấy giờ, nhóm Nam Đồng Thư Xã cũng bị những con chó săn của bọn mật thám đánh hơi được ý đồ sâu xa của nhóm này là vận động lòng yêu nước trong công chúng nên ra tay khủng bố. Chúng ra lệnh đóng cửa Nam Đồng Thư Xã và tịch thu tất cả sách của nhóm đã xuất bản.

Sau buổi lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh vừa mất tại Sài Gòn – mà cái chết của nhà ái quốc này đã gây ra làn sóng biểu tình rầm rộ từ Nam chí Bắc, Hồ Văn Mịch đã đứng trang nghiêm ngâm bài thơ Chiêu Hồn Nước của Phạm Tắc Đắc. Tác giả bài thơ này là một học sinh trường trung học Bảo Hộ (Hà Nội) viết năm 17 tuổi. Bài thơ dài 198 câu, được đưa cho nhà in Thanh Niên xuất bản. Sách được in ra vài hôm thì tác giả và viên quản lý nhà in lập tức bị bắt giam. Khi ra tòa án, viên chánh án hỏi Phạm Tắc Đắc: “Ai đã xúi giục mày viết bài thơ này, hay ai đã làm hộ cho mày?”. Ông trả lời cứng cỏi: “Đầu tôi nghĩ. Tay tôi viết. Công việc này hoàn toàn do tôi làm”. Kế đó tòa lại gọi thân sinh của ông ra trước vành móng ngựa để tra hỏi việc này, bố của ông đáp: “Con tôi lúc ở nhà là quyền dạy dỗ của tôi. Nay nó đi học trường Chánh phủ thì việc là của nó, là trách nhiệm của Chánh phủ. Chánh phủ đã nhận giáo dục nó, tại sao còn hỏi tôi?”. Câu trả lời đanh thép ấy đã buộc tòa án câm miệng. Dù chưa đến tuổi trưởng thành, nhưng tòa vẫn tuyên án Phạm Tắc Đắc, bị tống giam lên Bắc Giang. Giam ở đó được ba tháng, ông lại bị lôi về tống vào Hỏa Lò. Trước khi bài thơ này được in thành sách thì nó đã được truyền tụng trong giới sinh viên học sinh một cách sâu rộng và bí mật. Trong buổi lễ truy điệu cụ Phan, anh Hồ Văn Mịch đã ngâm thống thiết:

Hăm lăm triệu trẻ già trai gái

Bốn nghìn năm con cái Hồng Bàng

Cũng nhà cửa, cũng giang san

Thế mà nước mất nhà tan hỡi trời?

Nghĩ lắm lúc đương cười hóa khóc

Muốn ra tay ngang dọc dọc ngang

Vạch trời thét một tiếng vang

Cho thân tan với giang san nước nhà

Đồng bào hỡi!

Nhiều người đã òa lên khóc. Nguyễn Thái Học mím môi thật chặt. Anh nuốt nước mắt. Sau buổi lễ truy điệu này, anh nói với các đồng chí của mình:

- Chúng ta phải lập một Đảng cách mạng.

Nhượng Tống hỏi lại:

- Hoạt động hợp pháp hay bí mật. Thú thật tôi chỉ là người cầm bút, nên chỉ muốn hoạt động công khai mà thôi.

Anh hỏi lại:

- Mày sợ tù đày à?

Tống không trả lời mà rụt rè đưa ra ý kiến là nên hoạt động theo đường lối bất bạo động của Thánh Gandhi. Nguyễn Thái Học vốn nóng nảy ngoài mặt, nhưng trong lòng rất điềm tĩnh, mưu lược, anh nói:

- Mày ăn phải bả của ông thánh Cam Địa rồi. Làm gì có cách mạng hòa bình. Cách mạng là phải thực hiện bằng vũ lực, sắt máu, chứ không thể ngồi trông đợi vào sự bố thí của kẻ thù được. Thử xem ông Thánh Cam Địa đã đem lại gì cho Ấn Độ chưa?

Tống không đáp lại. Nguyễn Thái Học đứng trầm ngâm, khoanh tay. Tuy da anh đen, cằm nở, môi dày, hàm răng vổ, nhưng anh cũng có giọng ngâm thơ rất gợi cảm. Anh đang ngâm lại đoạn thơ trong Chiêu Hồn Nước mà anh thích:

Hồn trở về mau mau hồn hỡi

Hồn trở về tôi đợi tôi mong

Hồn về tô điểm non sông

Hồn về dạy dỗ con Rồng cháu Tiên

Ngọn gió lọt đèn tàn hiu hắt

Dân không còn nước mất sao còn?

Hồn hồn nước nước non non

Hồn về tôi sẵn lòng son giúp hồn

Ngâm xong đoạn thơ này, anh quay sang hỏi  Phạm Tuấn Tài:

- Ý kiến của anh như thế nào anh Tài?

Phạm Tuấn Tài tuy nhỏ hơn Nguyễn Thái Học hai tuổi, nhưng anh được Nguyễn Thái Học yêu mến nhất vì bản lĩnh và rất thông minh. Tài đáp:

- Tôi tán đồng ý kiến của anh. Đã đến lúc chúng ta phải làm cách mạng thôi. Ngòi bút thép không xuyên được qua tim thằng giặc. Chúng ta đánhnó bằng dòng chữ thì nó trả thù bằng đòn tra tấn ở Hỏa Lò, Côn Đảo. Chúng ta còn gì khi nước đã mất nhà đã tan? Tâm sự của tôi được trút vào trong bài thơ này.

Anh ngừng lại và cất giọng đọc bài thơ “Phải tự cường” của anh mới sáng tác:

Trông người lại ngẫm đến ta

Nín đi đứt ruột nói ra nghẹn lời

Than ôi! Cũng một kiếp người

Tủi thân trâu ngựa thiệt đời thông minh

Trâu cày ngựa cỡi

Cũng thông minh tai mắt một phường

Người mắc ách, kẻ giong cương, kỳ quái chưa?

Thà rằng thể phách như trâu ngựa

Khổ nỗi tâm hồn khác cỏ cây

Nhìn giang san khi quắc mắt lúc cau mày

Tưởng nông nổi đắng cay lòng tráng sĩ

Nước đời cay đắng bao nhiêu vị

Giống ươn hèn càn nghĩ lại càng thương

Bảo nhau ta phải tự cường.

Anh đọc dứt bài thơ và nói:

- Phải tự cường anh Học ạ! không thể trông cậy vào lời hứa hẹn của bọn thực dân đâu! Còn Nhượng Tống này, mày là thằng chỉ sống trong mộng và sách vở, đã biết đời là quái gì đâu! Phải nghe theo lời chúng tao, bổn phận của một đứa em nhỏ là phải thế.

Nguyễn Thái Học nói thêm:

-Trong lúc thực dân đem sắt và máu đô hộ Việt Nam, chúng ta không thể nào dùng đường lối khoanh tay đối phó với súng đạn được. Xem các gương Đông Kinh Nghĩa Thục ngày trước thì biết. Một nhóm nhà Nho trong tay không một tấc sắt mà có vô số người bị chém giết, bị tù đày. Nay còn chủ trương hòa bình cách mạng là lại đi vào vết xe cũ, rất uổng công vô ích mà thôi.

Để tránh đi vào “vết xe cũ”, Nguyễn chủ trương tiến hành cách mạng theo phương thức bạo động. Vào tháng 10/1927 Nguyễn Thái Học đã triệu tập một phiên họp với nội dung là nhanh chóng thành lập một Đảng bí mật. Đảng này dùng võ lực để lật đổ chính quyền thực dân phong kiến. Sau đó, thành lập một chính thể cộng hòa để đem lại cơm no áo ấm cho toàn dân. Họ đã họp tại trụ sở của Nam Đồng Thư Xã, với khoảng mười người có mặt. Sau nhiều lần tranh luận, những người có mặt trong phiên họp này đồng ý và tạm gọi tên tổ chức này là Chi bộ Nam Đồng do Nguyễn Thái Học làm Chi bộ trưởng. Có thể nói, Nam Đồng Thư Xã là hạt nhân đầu tiên của VNQD Đảng.

Sau buổi họp này, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của anh tích cực hoạt động, một mặt đi vận động bạn bè quen biết ở Hà Nội, mặt khác đi liên hệ thêm với các nhóm và cá nhân yêu nước ở các địa phương để đoàn kết lực lượng tiến tới thành lập Đảng chính thức. Công việc tiến hành thuận lợi nên chỉ trong thời gian ngắn, nhóm Nam Đồng Thư Xã đã thành lập được 18 chi bộ rải rác trên mười bốn tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ, với số lượng khoảng 200 đảng viên.

Vào những ngày cuối tháng 12/1927, Nguyễn Thái Học đã triệu tập một phiên họp quan trọng tại làng Thể Giao (Hà Nội) vào ngày 25-12-1927. Vào lúc tám giờ tối, những đảng viên nòng cốt đã có mặt, họ bàn tán sôi nổi về mọi vấn đề liên quan đến sự ra đời của Đảng. Nhượng Tống có mặt trong buổi họp đó, anh đã có cảm tưởng “Vẻ im lặng tôn nghiêm làm cho người ta nghĩ đến những việc thiêng liêng cao cả. Tôi tưởng đâu như hết thảy các vị anh hùng cứu quốc đang đứng ở trên đầu, trên cổ mà chứng giám chúng tôi”. Trong buổi họp này, Nguyễn Thái Học tuyên bố.

- Thưa các đồng chí, mục đích và tôn chỉ của Đảng là làm một cuộc cách mạng quốc gia, dùng võ lực để đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, lập nên một nước Việt Nam Độc Lập Cộng Hòa. Đồng thời giúp đỡ các dân tộc bị áp bức trong công cuộc đấu tranh giành độc lập của họ, đặc biệt là các lân quốc: Ai Lao và Cao Miên. Để làm được điều đó thì chúng ta phải có một chính Đảng, tôi đề nghị gọi tên Đảng là Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Ý kiến của anh đưa ra đã được mọi người nhanh chóng thông qua. Vào lúc mười một giờ khuya đang bàn bạc về Điều lệ Đảng thì Phạm Tuấn Tài đến. Anh đến muộn vì khi bước chân đi thì bị thám tử theo dõi, biết vậy anh phải đi lòng vòng để đánh lạc hướng chúng nên bây giờ mới đến nơi. Tưởng là đã lừa được chúng nhưng không ngờ khi anh vừa vào nhà mới ngồi xuống nghe Nguyễn Thái Học và các đồng chí mình suy tôn Chi bộ Nam Đồng Thư Xã làm “đệ nhất chi bộ” thì có báo động khẩn cấp. Phiên họp tuyên bố tạm ngừng. Tất cả mọi người rút lui. Bọn thám tử theo dõi Phạm Tuấn Tài vẫn bám sát anh nên mới xảy ra cớ sự như thế. Tương kế tựu kế, anh phải lang thang đi một mình cho tới sáng để giữ sự bình an cho các đồng chí của mình.

Mãi đến hai giờ sáng mọi người lại có mặt ở trụ sở của Nam Đồng Thư Xã để tiếp tục bàn bạc công việc đang dang dở. Lần này, Nguyễn Thái Học yêu cầu không ai được ghi chép hoặc giữ lại bất cứ tài liệu gì liên quan đến cuộc họp này cả. Mọi người bắt đầu bằng việc bầu Tổng bộ lâm thời. Sau một hồi tranh luận nhau, cuối cùng mọi người đồng ý biểu quyết Nguyễn Thái Học làm chủ tịch Đảng, phó chủ tịch là Nguyễn Thế Nghiệp và từng người phụ trách như sau: ủy ban tổ chức – Phó Đức Chính; ủy ban tuyên truyền – Nhượng Tống; ủy ban ngoại giao – Nguyễn Ngọc Sơn, Hồ Văn Mịch; ủy ban tài chính – Đặng Đình Điền; ủy ban ám sát – Hoàng Văn Tùng; ủy ban trinh sát – Phạm Tiềm và lúc này chưa có ủy ban binh vụ. Đến năm giờ sáng thì mọi người đã thảo luận xong chương trình cách mạng tổng quát, mà cơ bản là rập khuôn theo Trung Hoa Quốc Dân Đảng.

Sau đó, mọi người có mặt phải đứng lên tuyên thệ, đặt niềm tin sắt son vào Đảng. Đứng trước những đồng chí của mình, Nguyễn Thái Học nắm chặt tay, đôi mắt sáng rực:

- Trước giang sang Tổ quốc, tôi xin thề tuyệt đối trung thành với Đảng, tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của Đảng, tuyệt đối giữ bí mật công việc của Đảng, tuyệt đối hy sinh cho Đảng. Quyết tâm làm tròn sứ mệnh đã được giao phó, hăng say đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công mỹ mãn. Tuyệt đối hy sinh tất cả cho Nước cho Đảng. Nếu trái với lời thề tôi xin chịu tội tử hình.

Những lời thề rắn rỏi trang nghiêm vang như tiếng kèn cách mạng thúc giục nhiệt huyết mọi người. Họ ý thức từ giây phút thiêng liêng này, họ phải đối đầu với hòn tên mũi đạn, với tra tấn tù đày khi đã quyết một lòng xả thân trong công cuộc đấu tranh chống áp bức.


3

Một chuyện tình lãng mạn

Nguyễn Thái Học đã trở thành linh hồn của Đảng. Các ủy ban được bầu vào Tổng bộ lâm thời bắt đầu hoạt động ráo riết. Ban tài chánh phụ trách nâng cao tài chánh của Đảng bằng mọi phương tiện. Ban ám sát phụ trách thủ tiêu những cá nhân có thể nguy hại cho Đảng hay xứ sở… Thời gian này, ban ngoại giao đã mở rộng quan hệ với các đảng phái yêu nước tại hải ngoại cũng như trong nước. Tổng bộ quyết nghị cử ba đại biểu sang Thái Lan là: Hồ Văn Mịch, Nguyễn Ngọc Sơn, Phạm Tiềm. Sau đó, họ liên lạc với Nguyễn An Ninh ở Nam Kỳ, Nguyễn Thế Truyền ở Bắc Kỳ… Thậm chí Nguyễn Thái Học còn phái cả Chu Dưỡng Bình sang Quảng Tây để liên hệ với nhà chức trách địa phương ủng hộ cho hoạt động của Đảng. Nhưng rồi những liên lạc tích cực ấy không đem lại một kết quả đáng kể nào. Trong thời gian này, cụ Phan Bội Châu đang bị thực dân bắt an trí tại Bến Ngự (Huế) nhưng uy tín của cụ vẫn còn lừng lẫy trong công chúng. Nguyễn Thái Học nói với các đồng chí của mình:

- Khi còn ở bên Tàu, cụ Phan đã lập ra Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhưng chỉ mới dừng ở tên gọi. Sau vụ ám sát tên Merlin thì ngày 23-6-1924 cụ đã công bố “thư thanh minh của Việt Nam Quốc Dân Đảng”. Còn chúng ta mới thật sự đứng ra thành lập Đảng. Vậy chúng ta tại sao không vào Huế mời cụ làm Danh dự chủ tịch Đảng?

Ý kiến sáng suốt đó đưa ra được mọi người tán thành ngay. Tháng 10/1928, Đảng đã cử Đặng Đình Điển vào Huế gặp cụ Phan. Trước khi phái viên này lên đường, Nguyễn Thái Học dặn dò:

- Nhiệm vụ của anh vào gặp cụ Phan là nhiệm vụ của Đảng đã giao phó. Tuyệt đối không được để bọn mật thám theo dõi và phát hiện được nhé. Anh gặp cụ Phan thì nói rằng, lớp hậu sinh của cụ nhờ cụ giúp cho hai việc. Thứ nhất nhờ cụ đứng ra, đem oai quyền đạo đức mà thống nhất các Đảng lại. Thứ hai là về phương diện ngoại giao, nhờ cụ giới thiệu chúng ta làm quen với các yếu nhân ở ngoại quốc như Khuyển Dưỡng Nghị, Cung Kỳ Di Tàng ở Nhật, Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ ở Tàu, v.v…

Đặng Đình Điển đã mang sứ mệnh của Đảng giao phó đi tìm gặp cụ Phan. Cụ vui vẻ và đồng ý nhận làm những trọng trách mà VNQD Đảng đã đề nghị. Cụ nói:

- Tôi già yếu thật, lịch sử đời tôi là một chuỗi thất baại, nay được hậu sinh tin tưởng đặt nhiệm vụ nặng nề, lẽ nào tôi từ chối.

Cụ bùi ngùi ngâm bài thơ “Vào thành” mang nặng tâm sự chim lồng cá chậu của những ngày cuối đời.

Vào thành ra cửa Đông

Xe ngựa chạy tứ tung

Vào thành ra cửa Tây

Sa gấm rực như mây

Vào thành ra cửa Nam

Áo mũ đỏ pha chàm

Vào thành ra cửa Bắc

Mưa gió đen như mực

Dạo khắp trong và ngoài

Đàn địch vang tai trời

Đau lòng có một người

Hỏi ai? Ai biết ai?

Ngâm xong bài thơ cụ thở dài, buồn não ruột. Đặng Đình Điển thưa:

- Thưa cụ, đạo đức và uy tín của cụ vẫn là chỗ dựa của anh em VNQD Đảng, mong cụ có những lời chỉ bảo cho đám hậu sinh.

- Vâng, nếu còn giúp ích được việc gì cho Tổ quốc thì tôi xin hết sức phục tòng mệnh lệnh của Đảng.

Khi chia tay, cụ đã trao cho Đặng Đình Điển một tấm danh thiếp phía sau có ghi bốn chữ “khả dĩ đoạn kim” phòng khi Đảng có phái người vào gặp cụ thì cầm thiếp này làm tin. Sự tham gia của cụ Phan Bội Châu đã làm cho Đảng tăng uy tín lên rất nhiều.

Thiết trưởng cũng nên nhắc lại vai trò của cụ Phan đối với việc sát nhập của Hội Việt Nam Dân Quốc do Nguyễn Khắc Nhu lãnh đạo vào VNQD Đảng – mà sau này, Nguyễn Khắc Nhu đã trở thành một trong những yếu nhân sáng chói của tổ chức này.

Năm 1903, trên bước đường tuyên truyền liên kết với các anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, cụ Phan Bội Châu đã đến gặp cụ Cử Đường ở Kinh Bắc, để bàn tính việc công việc cho phong trào Đông Du. Nhân dịp này cụ Phan đã nhờ cụ Cử Đường tìm cho một người thông thạo đường đi nước bước, để đưa lên đồn Phồn Xương gặp Đề Thám mưu việc lớn. Người đưa đường chính là Nguyễn Khắc Nhu. Để bảo đảm an toàn cho cụ Phan, Nguyễn Khắc Nhu đã tìm đường tắt xuyên rừng, tránh những trạm kiểm soát của Pháp. Haithầy trò đã xuyên qua vùng thượng du Bắc Giang với nhiều rừng rậm để đến đồn Phồn Xương. Sau chuyến đi này, Nguyễn Khắc Nhu tham gia phong trào Đông Du. Năm 1907, cùng 17 thanh niên khác, Nhu bí mật vượt biên sang Quảng Tây để đi Nhật học tập quân sự. Nhưng do sự trục trặc trong thông tin nên phái đoàn này không gặp được cụ Phan, cuối cùng những thanh niên yêu nước này bị bọn chỉ điểm của thực dân phát hiện và yêu cầu Tổng đốc Quảng Tây bắt giữ trả về Việt Nam. Sau khi về nước, Nguyễn Khắc Nhu về ở hẳn tại quê nhà là làng Song Khê (Hà Bắc) và hoạt động cách mạng – do đó anh còn có tên là Song Khê. Năm 1926, có hai phái viên của cụ Phan tìm đến Nguyễn Khắc Nhu và nêu câu hỏi: “Với tình hình trước mắt, chúng ta nên hành động ra sao để đưa phong trào cách mạng lên cao?”. Sự gặp gỡ này đã đem đến một kết quả là Nguyễn Khắc Nhu đã thành lập một hội lấy tên là “Quốc dân dục tài”. Hội này đã kết nạp thêm một số đồng chí thời Đông Du, một số dư đảng của cụ Hoàng Hoa Thám và một số binh lính có tinh thần chống Pháp quyết liệt nên sau đó họ đổi tên thành “Việt Nam Dân Quốc”.

Việc gia nhập của Việt Nam Dân Quốc vào VNQD Đảng xét ra cũng là một tất yếu của lịch sử. Vì năm 1926, khi phái viên của cụ Phan gặp Nguyễn Khắc Nhu thì có truyền đạt lại hai lời khuyên: chú trọng đào tạo nhân tài và thành lập một Đảng theo kiểu Trung Hoa Dân Quốc. Xét thấy tôn chỉ của VNQD Đảng mà đứng đầu là Nguyễn Thái Học cũng hoạt động theo đường lối như thế và ủng hộ chủ trương bạo động của mình, nên Nguyễn Khắc Nhu sáp nhập toàn bộ tổ chức của mình vào VNQD Đảng. Sự việc này diễn ra vào đầu năm 1928 đã làm cho VNQD Đảng lớn mạnh lên và có những thay đổi lớn trong Đảng. Nếu VNQD Đảng với nhóm Nam Đồng Thư Xã làm nòng cốt bao gồm những nhà văn, nhà báo, tư sản thành thị chủ yếu là đấu tranh công khai trên báo chí,  nghị trường thì việc gia nhập của Việt Nam Dân Quốc đã làm VNQD Đảng nghiêng hẳn về phía khởi nghĩa vũ trang. Nếu thành phần gia nhập VNQD Đảng chỉ mới dừng lại ở những dạng sinh hoạt tại thành thị thì nay thêm đông đảo những người chân lấm tay bùn ở nông thôn, v.v…

Chính từ sự sáp nhập này, Nguyễn Thái Học đã làm quen với nữ đồng chí của Hội Việt Nam Dân Quốc. Đó là chị Nguyễn Thị Giang (thường được gọi là Cô Giang) mở đầu cho một thiên tình sử lãng mạn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Thái Học. Cô Giang sinh năm 1906 em ruột cô Bắc quê ở Bắc Giang. Hai chị em cùng tham gia tích cực trong việc tuyên truyền liên lạc giữa các đảng viên và các cơ sở Đảng ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Yên… Khuôn mặt tuy hơi bị rỗ huê, nhan sắc không mặn mòi nhưng cô Giang ăn nói rất duyên dáng, lịch thiệp. Ngay buổi gặp gỡ đầu tiên giữa hai người đã nổ ra tiếng sét ái tình. Phàm trai tài gái sắc phải lòng nhau cũng là chuyện thường tình trên đường đời.

Sự thật, thời còn nhỏ, bố mẹ Nguyễn Thái Học đã cưới vợ cho anh là cô Nguyễn Thị Cửu. Năm 1927, khi đứng ra thành lập Đảng thì anh ly hôn với vợ - vì không muốn đem cuộc đời sóng gió, bất trắc hiểm nguy mà làm lụy đến một người đàn bà. Hơn nữa, hôn nhân này xảy ra do sự sắp xếp của bố mẹ hơn là thúc đẩy của tình yêu. Do đó, khi anh đến với Cô Giang chính là đã tìm được một người bạn đời, cùng chí hướng và từ lời khuyên bảo của trái tim.

Vào một buổi chiều mùa hè trên đường từ Phú Thọ trở về miền xuôi, Nguyễn Thái Học cùng Cô Giang ghé vào đền Hùng để hội đàm cùng Phó Đức Chính, Nguyễn Thế Nghiệp, Lê Hữu Cảnh. Họ bàn bạc về vấn đề phải nhanh chóng thành lập ban binh vụ, phụ trách huấn luyện quân sự các đảng viên, để tổ chức những đội quân quyết tử, những đơn vị chiến đấu. Sau khi họp xong, thì anh cùng Cô Giang ra ngoài hóng gió, họ đã vào đền thờ Tổ chiêm bái. Trước nhang khói trang nghiêm, hai người cùng thề non hẹn biển, sẽ cưới nhau thành vợ thành chồng sau khi cách mạng thành công. Sau một lúc suy nghĩ, Cô Giang rụt rè nói với Nguyễn Thái Học:

- Nếu anh đã tin và yêu em thì anh có thể cho em được đeo súng lục giống như anh không?

Anh đăm chiêu hỏi:

- Đeo súng trong người à? Công tác của em không cho phép làm điều đó vì dễ bị phát hiện.

Cô Giang trả lời chậm rãi:

- Vâng, em cũng đã từng suy nghĩ như thế. Nhưng từ giây phút này, em xem như đã là người vợ chính thức của anh, dù chúng ta chưa làm lễ cưới với sự chứng giám của gia đình và của tổ chức. Nhưng thưa anh, khi lao vào con đường hoạt động cách mạng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đưa đất nước ra khỏi ách áp bức thì chúng ta phải đương đầu với tù đày và chết chóc. Em vẫn tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến đấu quyết liệt này, nhưng chúng ta có còn sống đến ngày vinh quang của Tổ quốc hay không? Nên em muốn…

Cô Giang nói đến đây thì im lặng, khẽ thở dài. Nguyễn Thái Học cũng đã hiểu ý của người yêu. Anh nhìn lên bàn thờ Tổ và nói nhỏ bằng tiếng Pháp vì anh không muốn những người xung quanh nghe được – dường như anh tâm tình với Cô Giang trong giây phút t hiêng liêng này.

- If faut faire la Révolution! Il faut faire la Révolution! Pour que les Annamites ne soient plus des esclaves, pour que les Francais ne soient plus des oppresseurs… Il faut faire la Révolution!

Những giọt mồ hôi chảy dài trên gương mặt nghiêm nghị và quyết đoán của anh. Cô Giang như uống lấy từng lời của người chồng tương lai lại là cấp trên của mình. Phải làm Cách mạng! Phải làm Cách mạng! Để người An nam hết làm nô lệ, để người Pháp không còn áp chế tàn bạo nữa. Phải làm Cách mạng! Cô Giang cúi đầu nói nhỏ:

- Vâng, chỉ có một con đường duy nhất là làm Cách mạng. Nếu anh có vì Tổ quốc mà hy sinh thì em cũng quyết dùng khẩu súng lục của anh trao mà chết theo…

Từ giây phút đó hai trái tim đầy nhiệt tình cách mạng đã đập chung một nhịp. Năm đó Cô Giang vừa tròn mười tám xuân. Sau lần gặp gỡ này, một hôm Nguyễn Thái Học bảo người yêu của mình:

- Đảng chúng ta cần có sự tham gia của binh lính thì sau này mới có thể tính việc khởi nghĩa. Anh truyền lệnh cho em phải lôi kéo được viên Quản hoặc viên Đội Nhất, Đội Nhì có uy tín trong lính khố xanh để họ gia nhập Đảng ta. Và chính họ, chứ không ai khác sẽ làm công việc đưa toàn bộ binh sĩ của họ gia nhập vào Đảng. Đây là một việc rất gian khó. Em có làm được không?

Cô Giang thưa:

- Anh là Đảng trưởng, anh ra lệnh thì em xin chấp hành tuyệt đối.

Nguyễn Thái Học không trả lời vội. Anh nâng điếu cày lên và rít một hơi thuốc lào thật dài. Ngửa mặt lên trời, anh nhả hơi khói bay và trầm ngâm nói:

- Anh lấy tư cách là Đảng trưởng giao phó cho em công tác sau đây: Trong vòng ba tháng em phải lôi kéo cho bằng được đồn lính khố xanh Yên Bái gia nhập Đảng ta. Suốt thời gian công tác, em không được liên lạc với anh, bất cứ ở nơi nào.

Cô Giang mỉm cười và trả lời cương quyết:

- Em xin tuân lệnh.

Trước lúc chia tay, Nguyễn Thái Học nói nhỏ:

- Em ạ, nhiệm vụ này chỉ có em mới thực hiện được đấy nhé! Phải có lính khố xanh, khố đỏ được giác ngộ thì họ sẽ là một lực lượng nội ứng khi chúng ta tiến hành tổng khởi nghĩa. Khẩu súng lục anh đã trao cho em thì em hãy gìn giữ cẩn thận đề phòng lúc bất trắc…

- Vâng, em đã thông suốt nhiệm vụ anh giao phó. Riêng về khẩu súng này thì em xem như là vật đính hôn của đôi ta.

Nguyễn Thái Học cầm tay Cô Giang và siết mạnh. Họ nhìn vào mắt nhau và mỉm cười.

Cô Giang từ giã người yêu và bắt đầu tìm đường lên Yên Bái. Bấy giờ là mùa đông. Thành phố ướt đẫm sương mù. Trời rét. Lạnh thấu xương. Mưa phùn. Ban đêm có những người đàn bà hàn rong bán mía lùi. Phải là loại mí mưng thì mới ngon. Mía mưng này nổi tiếng trong câu ca dao huê tình:

Nhà em có giậu mía mưng

Có con chó dữ anh đừng vô ra

Mía mưng này được chặt ra từng khúc dài hai gang tay, lùi trong than nóng hoặc được đem luộc. Hai món quà dân dã này rất được mọi người yêu thích. Cắn một miếng thì môi đang thâm tím vì lạnh, sẽ bừng bừng nóng lên, hàm răng đang đánh lập cập thì cảm thấy dễ chịu ngay. Đầu lưỡi rần rần bởi mùi vị thơm dịu và ngọt lịm. Nhai xong miếng này, lập tức người ta muốn cắn thêm một miếng nữa. Ngon tuyệt. Vừa ngọt lạivừa ấm miệng. Mỗi khúc mía lùi này bán chỉ một xu. Cô nữ sinh Nguyễn Thị Giang bắt đầu bỏ học để đi bán hàng rong ban đêm, từ sau buổi chia tay với Nguyễn Thái Học. Chỗ cô thường hay nồi đặt gánh hàng của mình là dưới một vòm cây sao, lá rợp, chỉ cách đồn lính khố xanh vài chục bước chân. Nhiều binh lính đã mê hương vị mía lùi của cô, vì cô có bỏ vào trong thùng nước mía những bông bưởi nên thơm thoảng thoảng khi cắn khúc mía.Và nhất là mê luôn giọng nói “chết người” của cô bán hàng. Những người lính này thường buông những lời cợt nhả, bông đùa nhưng chẳng lúc nào cô cau có. Một hôm người lính ngồi xổm trước gánh hàng của cô, hắn mê cô nhưng chưa một lần dám tỏ tình. Hôm nay, nhờ có men rượu nên hắn sật sừ và táo bạo vuốt má cô.

- Cô em duyên dáng quá làm vợ anh không?

Cô Giang nghiêm mặt:

- Anh đừng đùa như thế. Tôi là gái đã có chồng. Gái chính chuyên chỉ thờ một chồng…

Hắn bật lên tiếng cười khả ố:

Có chồng thì mặc có chồng

Nơi đây vắng vẻ anh bồng anh hôn!

Cô Giang vén tóc lại gọn gàng và đáp:

- Vâng, người ta chỉ hôn nhau khi đã yêu nhau chứ? Tôi không cho phép anh làm điều đó. Hơn nữa thiên hạ có nói về các anh như thế này.

Hắn hỏi ngay:

- Họ nói sao? Nói rằng làm vợ lính thì sướng lắm phải không?

- Chả biết có sướng hay không nhưng có bài vè như thế này. Anh có muốn nghe không?

- Vâng! Xin mời cô em cứ đọc!

Cô Giang khéo léo đáp:

- Ồ! Phải đông người kia chứ, tôi mới đọc cho nghe. Bài vè này hay lắm!

Thế là hắn gọi những đồng đội của mình bu quanh gánh hàng của cô. Chẳng mấy chốc họ đến cũng dăm bảy người, vừa ăn mía, vừa chờ đợi giọng đọc vè của cô bán hàng rong này. Đây là bài vè của trường Đông Kinh Nghĩa Thục đã tuyên truyền những năm trước mà Cô Giang còn nhớ được. Thế là cô nói:

- Bài ấy như thế này nhé! Tôi đọc qua một lần nhé! Ai mà thuộc thì được thưởng.

Binh lính nhao nhao lên:

- Nào thưởng cho tớ những gì cô em? Một nụ hôn nhé!

Cô Giang không đáp và bắt đầu đọc:

Các chú tập binh

Chú ở An Nam sinh

Chú ở An Nam trưởng

Chú sung chú sướng

Chú hả chú hê

Chú mãn hạn về

Thuế sưu chú chết

Rồi chú quệ kiệt

Thân thích chú xác xơ

Chú nghĩ đã biết chưa?

Tây công ơn gì chú

Tây thương yêu gì chú!

Bài vè vừa đọc dứt thì mọi người cùng im lặng. Không rõ những người lính này buồn hay vui, nhưng một cách vô tình cô hàng rong này lại nhắc đến thân phận của họ, mà những năm tháng trôi qua họ đã cố quên đi… Đã có tiếng kẻng điểm danh, mọi người lục tục kéo nhau vào đồn. Cô Giang cũng đã bán hết mía và đứng lên ra về. Cứ từng ngày như thế, mỗi ngày cô tâm sự với họ những điều mà trước đây không ai nói với họ. Trong số những người lính này có một ông Cai cũng mê tít Cô Giang. Ông ta tên là Cai Hoằng. Nhớ lời dặn dò của Nguyễn Thái Học nên cô khéo léo lấy lòng Cai Hoằng. Biết Cai Hoằng mê nghe hát, nên đêm nào có ông ta thì Cô Giang cũng khẽ hát theo điệu Bình bán bài ca như thế này:

- Thầy cai ơi! Em hát tặng thầy cai bài này nhé!

Ông ta tít mắt lại, gióng tai lên mà nghe giọng hát ngọt như mía lùi:

Ta là dân nước Nam

Giống Lạc Hồng phải bước lầm than

Làm sao giết lũ tham tàn

Thế rồi đây đời mới an

Nghĩ câu nước mất nhà tan

Sáu mươi năm trong vòng nô lệ

Cái lũ tham tàn rất tệ

Bắt dân mình cực khổ xiết bao

Nào anh em ta đứng lên đi nào

Ta đồng lòng giành lại giang san!

Thoạt mới nghe qua, Cai Hoằng dựng tóc gáy. Ông ta sợ. Nhưng rồi giọng nói nhỏ nhẹ của cô bán hàng lại rót vào tai. Dần dần Cai Hoằng được giác ngộ và qua ông ta, hơn ba trăm lính khố xanh được tuyên truyền tư tưởng cách mạng.

Đúng thời gian mà Nguyễn Thái Học đã giao phó, Cô Giang đưa Cai Hoằng đến và nói:

- Thưa anh, đây là một đồng chí mới của Đảng ta, đại diện cho hơn ba trăm năm mươi người lính ở đồn Yên Bái.

Nguyễn Thái Học đã siết tay Cai Hoằng và giao nhiệm vụ cho đồng chí mới. Và qua những người được giác ngộ như Cai Hoằng, VNQD Đảng đã có những địa đồ quân sự, những súng ống và cách thức chế tạo vũ khí để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa sau này. Chính vì lẽ đó, trong khi truy nã Nguyễn Thái Học và những nhân vật quan trọng của Đảng, Sở mật thám Pháp đã nhân định: “Các giáo viên, các binh sĩ như hai cây cột chống đỡ mái nhà Đông Dương. VNQD Đảng đã làm lay chuyển hai cột ấy. Nguy hiểm nữa là những kẻ được rủ rê. Họ nếu có vào thì vào, bằng không thì cũng chẳng ai đi tố cáo với nhà đương cục. Sự im lặng đó khác nào đồng mưu”. Để có những nhận định này, bắt đầu từ một tên đội được giác ngộ phụ trách sân bay Bạch Mai, nhưng đã phản Đảng ra tố cáo với Pháp. Hắn tên là Đội Dương. Do cách tổ chức của VNQD Đảng nên Đội Dương chưa chỉ điểm thêm những binh lính ở nơi khác, những đồn lính khác. Nhờ vậy, có thể nói, năm 1928 mọi việc đều được tiến hành êm xuôi.

Nguyễn Thái Học ngày đêm lao vào công việc củng cố và xây dựng Đảng. Tuy vậy, anh vẫn là người rất dễ ngủ. Khi cần ngủ, chỉ cần đặt lưng xuống là anh ngáy khò khò ngay. Anh thường nói: “Không ngủ thì chết mất. Còn làm sao được việc đời, việc Đảng?”. Nói xong, anh nằm sấp xuống, hai chân quặp vào mông và ngủ ngon lành.

Và cũng trong thời gian này, Nguyễn Thái Học cùng đồng chí của mình thành lập tờ báo Hồn Cách Mạng, in bằng thạch bản và phát hành ngầm trong Đảng lẫn bí mật chuyền đến tay công chúng. Tờ báo này đặt ở đường Sơn Tây, do Đoàn Trần Nghiệp (tức Ký Con) trông nom phần ấn loát. ngoài ra, Nguyễn Thái Học còn phân công cho Nhượng Tống viết quyển Cách Mạng Tiền Thanh, kể 32 tội ác của thực dân bằng lập luận thuyết phục và đanh thép. Khi sách được in ra và phát hành vào tận Nam Kỳ, Trần Huy Liệu nhận được lệnh của Đảng là phải lặn lội đem vào Huế, tìm cụ Phan để hỏi về việc in bản chữ Nho nhằm phát hành rộng rãi sang Trung Quốc.

Bên cạnh những việc làm đó, VNQD Đảng còn chủ trương mở khách sạn Việt Nam – làm nơi kinh tài cho Đảng. Ngày 30-9-1928, khách sạn chính thức khai trương - bằng tiền vốn quyên trong anh em, người đóng góp nhiều nhất là Đặng Đình Điển - tại ngôi nhà số 39 phố Hàng Bông Đệm. (*)**** Nay là phố Hàng Bông.******* Tất cả nhân viên phục vụ trong khách sạn đều là người của VNQD Đảng. Thời bấy giờ, nếu không kể những khách sạn của ngoại quốc ở Hà Nội thì đây là một khác sạn lớn vào bậc nhất. Ban đầu thực khách đến rất đông, vì món ăn được nấu rất ngon mà giá cả lại phù hợp với túi tiền người bình dân.

Việc thành lập khách sạn này không lọt qua mắt các thám tử thuộc Sở mật thám Bắc Kỳ. Lập tức chúng giăng ra một mạng lưới theo dõi. Nghi ngờ VNQD Đảng sẽ tổ chức một hội nghị tại khách sạn này, nên từng đêm chúng đã bí mật leo lên mái ngói để theo dõi. Quả thật ngày 1-1-1929, có một kế hoạch như thế và biết rằng chúng sẽ đột nhập xuống, nhưng cao tay ấn hơn, vào phút chót Nguyễn Thái Học quyết định thay đổi nơi hội họp nên những con chó săn đã tẽn tò. Bắt hụt lần này, bọn thám tử càng điên lên, không có chứng cứ quả tang khách sạn này là nơi làm kinh tài cho Đảng nên chúng đã tung tin phá hoại về mặt kinh tế: đây là nơi tụ tập của những người làm “hội kín”, do đó thực khách sợ bị liên lụy nên không dám lui tới nữa. Khách sạn dần dần vắng khách. Và nó chỉ tồn tại đến ngày tên Bazin bị đảng viên VNQD Đảng ám sát vào chiều ba mươi Tết năm 1929.

Thực dân Pháp đã mở Hội đồng đề hình để xét xử những đảng viên VNQD Đản mà chúng đã bắt được sau vụ án động trời này. Thực dân đã cho in hình Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu phân phát khắp nơi để truy nã, treo giải thưởng 5.000 đồng - trị giá khoảng trên dưới 1.000 tạ gạo ngon, và ban phẩm hàm cho kẻ nào bắt được lãnh tụ VNQD Đảng.

VNQD Đảng đang đứng trước một thử thách lớn.


4

Bản án dành cho kẻ “không giữ lời thề”

Thực dân Pháp mở chiến dịch đàn áp VNQD Đảng, chúng bắt đầu thực hiện câu châm ngôn “Laisser dévolopper pour mieux réprimer” nhằm hốt trọn “hội kín” nguy hiểm này. Trong lúc này, Nguyễn Thái Học phải cải trang, lúc thì anh đeo râu giả, dùng thẻ thuế thân giả, ăn mặc như một nông dân, khi thì anh đội khăn, mặc yếm đóng vai đàn bà. Anh vẫn xuất hiện đấy chứ! Đến nỗi thiên hạ đồn rằng Nguyễn Thái Học có phép “tàng hình”. Có gì đâu. Nhờ sự quả cảm nên anh đã vượt qua sự bủa vây của kẻ thù trong gang tấc. Đầu của anh và Nguyễn Khắc Nhu được thực dân treo giá 5.000 đồng, nhưng chẳng ai dại dột điềm chỉ cả. Họ bảo: “Bắt làm sao được các ông ấy. Các ông ấy cho phát súng thì toi mạng, còn đâu mà ăn cái giải 5.000 đồng”. Thế mới biết quần chúng vừa tin yêu Nguyễn Thái Học vừa lại sợ uy tín của anh.

Có lần, mật thám đương hùng hổ khám xét nhà của một đồng chí, do không được thông báo nên anh vẫn ung dung bước vào nhà. Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc như thế này, tiến thoái đều lưỡng nan, nếu quay lui bỏ chạy thì chúng sẽ phát hiện ngay. Một ý nghĩ táo bạo như luồng điện chạy qua óc, anh bình tĩnh vào trong nhà, ngồi xuống ghế và bảo:

- Tôi là thư ký của làng này, các ông có cần lập biên bản không?

May mắn, lúc ấy quả thật viên thư ký của làng đi vắng thật nên không phát hiện anh đã đóng giả vai ấy. Thế là anh bình thản lấy giấy bút ra ghi biên bản cho chúng. Vóc dáng cục mịch và nét chữ xấu như gà bươi nên anh đã đóng vai này rất đạt. Sau khi bọn mật thám rút lui thì dân làng hết sức kinh ngạc – không ai hiểu được tại sao Nguyễn Thái Học ngồi sờ sờ ra đó nhưng không ai phát hiện được! Đã thế, trước khi đi chúng cũng không quên lịch sự bắt tay anh và… cám ơn!

Lại có lần, Nguyễn Thái Học trốn về Hải Dương, vào lúc bốn giờ sáng thì bọn thực dân và lính cơ về khám xét. Đang ngủ say và ngáy như sấm, những đồng chí vào đánh thức anh dậy. Biết có chuyện không may đang xảy đến, anh điềm nhiên cởi hết quần áo ra, rồi mặc bộ quần áo của thợ cấy, đi ngả sau ra vuộng cùng cuốc đất với nông dân. Bọn chúng vào khám xét không thấy gì liền rút lui. Hú vía!

Thoát được lần này, anh phải xuống Hải Phòng để chủ trì một cuộc họp quan trọng. Trong khi đi anh cải trang thành một ông già từ quê ra tỉnh với áo dài khăn đóng, vai vác dù, nách kẹp đôi guốc mộc. Anh chọn chuyến xe lửa xuất phát vào lúc bốn giờ rưõi sáng và ngồi ghế ở toa hạng ba. Không ngờ khi xe lửa sắp chạy có hai tên mật thám đang áp tải một đồng chí ngồi đối diện với anh. Nguyễn Thái Học bủn rủn tay chân. Gương mặt bê bết máu của người tù với đôi tay bị còng đang lén nhìn anh. không khéo léo xử trí tình huống này là bị phát hiện ngay. Anh nhổm người dậy định bước xuống, không kịp nữa rồi. Xe lửa đã chuyển bánh. Từng âm thanh đay nghiến trên đường ray vọng lên khô khốc. Tàu lửa chạy một hồi, anh đứng lên nói với bà cụ ngồi bên cạnh:

- Nhờ cụ giữ giùm tôi chiếc va li này, tôi đi giải một chút sẽ quay lại ngay.

Nói xong, anh đi thẳng về phía toa-lét mặc dầu bọn mật thám đang nhìn chòng chọc về phía anh. Bất cần. Bước vào đó, anh trút bỏ quần áo đang mặc và lao khỏi xe lửa. Thế là thoát!

Tưởng rằng Nguyễn Thái Học sẽ sợ hãi mà lẩn trốn tiếp, nhưng không, anh vẫn tiếp tục đón xe kéo về Hải Phòng. Khi đến cầu Hạ Lý, anh bèn điều đình với người phu xe là cho anh thuê lại chiếc xe với bộ quần áo với giá ba đồng. Người phu xe kinh ngạc, chẳng hiểu ất giáp gì nhưng cũng đồng ý cho anh thuê. Thế là anh lẳng lặng kéo xe lên cầu. Khi đến trạm gác thì tên lính vẫy anh lại:

- Lại đây! Có giấy tờ gì không?

Anh vui vẻ đáp:

- Chào sếp. Tôi đây mà sếp. Sếp có về thì tôi kéo về. Mọi ngày tôi vẫn thường kéo sếp đấy mà!

Câu chào hỏi thân thiện, lễ phép và bất ngờ đã làm hắn ngớ người ra. Một lúc sau, hắn nghĩ đây là người kéo xe quen nên để cho anh qua. Khi anh đến nơi thì đã có Nguyễn Thị Gian và các đồng chí ngồi đợi anh. Họ ngạc nhiên không rõ tại sao anh có thể đến đúng giờ hẹn như thế. Anh ngã người ra trên chiếc chõng tre sau khi chiêu một ngụm nước chè xanh và rít một hơi thuốc lào Vĩnh Bảo. Cô Giang ngồi bên cạnh quạt cho anh. Anh âu yếm nhìn vào mắt người yêu mà ngâm bài thơ của Nguyễn Khắc Nhu mới trao cho anh:

Nặng lòng ưu ái khó làm thinh

Dội máu nam nhi rửa bất bình

Cướp nước, chém cha quân Phú Lãng

Cháy thành, chết mẹ chú Ba-danh (Bazin)

Gian nan những xót người cùng hội

Tâm sự nào ai kể với mình

Hỡi hỡi anh em cùng gắng sức

Phen này quét sạch lũ hôi tanh

Bài thơ này đã mở đầu cho buổi họp, nhằm tìm kế hoạch liên lạc để động viên anh em đang bị giam trong Hỏa Lò giữ vững khí tiết.

Vào tháng 4/1929, tên Armoux - Tổng giám đốc công an Bắc Kỳ và tên Brides - Chủ tịch Hội đồng đề hình đã nhận được một tin quan trọng: Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí mình đang chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa đánh phá Hỏa Lò – nhân kỷ niệm Jeanne d’Arc, một nữ anh hùng của Pháp vào ngày 14/7 sắp tới để giải htoát tù nhân. Tin này đã làm cho bọn thực dân điên tiết và kinh hãi. Hằng ngày, Brides đích thân xuống tận xà lim C – nơi mệnh danh là Le tombeau vivant (Mồ chôn người sống) để răn đe các đảng viên VNQD Đảng. Hắn đã điên cuồng vung ba-toong đánh người tù tóe máu với câu quát tháo:

- Chúng mày liệu hồn. Bảo với Học là nó phải yên đi. Nếu xảy ra bất cứ một cuộc nổi loạn nào ở Hà Nội là tất cả chúng mày rơi đầu.

Người tù không im lặng, họ đáp:

- Các ông cướp nước chúng tôi với đủ quyền hành trong tay, các ông không bảo được ông Học thì chúng tôi như cá chậu chim lồng làm được gì nào?

Khi nhận được tin tức từ trong tù báo ra ngoài, Nguyễn Thái Học biết rằng kế hoạch này đã bị bại lộ, nên anh quyết định hoãn lại cuộc mưu phá Hỏa Lò.

Để đánh lừa chúng, anh phao tin là mình đã trốn sang Tàu. Anh đã chỉ thị cho một đảng viên là Nguyễn Văn Kinh, người tài xế ở Móng Cái đã từng làm việc ở khác sạn Việt Nam giấu trong người lá thư do chính anh viết. Và Kinh phải làm gì đó cho mật thám bắt, khi khám xét thì sẽ lòi ra bức thư này, như vậy bọn chó săn sẽ tin là anh đã trốn ra nước ngoài thật. Bức thư này lấy địa chỉ ở Quảng Châu ghi ngày 25/4/1929 với nội dung như sau:

Kinh,

Thái Học đồng chí nghe tin khác nào sét đánh bên tai. Mấy phen toan trèo non, vượt bể về thành sầu khổ. trước là tìm cách giúp ích cho đồng chí. Sau là xem mặt những lũ vô nhân loại bán nước buôn dân. Nhưng chưa thể về được. Lại phải đến ngày Fête de Jeanne d’Arc vậy! Đồng chí Thái Học nay nói chott đồng chí biết, cách hậu trình đi xuyên sơn hoặc đi thuyến không chừng. Sau này xin đồng chí chớ nên nản lòng. Xem như đồng chí bao năm góc bể, chân trời, lao  tâm, khổ tứ, ấy cũng chỉ vì trông thấy cái chế độ cường quyền áp chế đồng bào Việt Nam mình. Nếu đồng chí nay phải ly biệt gia đình ra, ấy cũng bởi vấn đề khôi phục giang san, mong có ngày hai mươi nhăm triệu đồng bào thoát khỏi vòng nô lệ. Đồng chí nghĩ sao?

Thư riêng cho Kinh và em của Trác, nhưng phải cẩn thận (Xem xong đốt đi).

Đúng như dự kiến của Nguyễn Thái Học, Kinh bị mật thám bắt thật. Kinh bị bắt giải về Hà Nội, tại đây Kinh đã chạm mặt Brides. Tương kế tựu kế, hắn đã tìm cách mua chuộc Kinh sau khi cho nếm mùi tra tấn tàn nhẫn. Hắn ra lệnh thả Kinh. Được thả tự do, Kinh về nằm nhà ở Phủ Lạng Thương nghỉ ngơi, thời gian sau không thấy Kinh hoạt động, hắn ra lệnh bắt lại. Vừa khủng bố tinh thần kiểu đó, hắn lại vừa huấn luyện cho Kinh thêm nghề gián điệp. Kinh hoàn toàn sa vào bẫy. Những cơ sở bí mật của Đảng đã bị Kinh khai tuốt luốt và dẫn mật thám đi tìm bắt Nguyễn Thái Học ở những nơi mà anh thường lui tới. Đứng trước một tình thế nguy hiểm như thế này, tòa án Cách mạng tối cao của Đảng được thành lập: Tuyên án tử hình Nguyễn Văn Kinh. Người chịu trách nhiệm thi hành bản án này là Ký Con, bí danh của Đoàn Trần Nghiệp. Anh là một nhân vật quan trọng trong Đảng, đã từng giữ chức trưởng ban ám sát để trừng trị bọn mật thám và bọn phản bội. Căn nhà số 56 Hàng Bạc của anh liên tục có người theo dõi. trước khi vào Đảng, anh làm thuê ở hiệu buôn Godard và tại đây anh có quen với một người bạn tên Vũ Trọng Phụng – mà sau này trở thành nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm như Giông tố, Vỡ đê, Số đỏ v.v… Thái độ phê phán không khoan nhượng vào xã hội thối nát của nhà văn họ Vũ, ít nhiều có sự tác động sau những lần trò chuyện tâm tình với Ký Con. Theo ảnh truy nã của mật thám thì anh người dong dỏng cao, da trắng xanh, miệng cười tươi và hai môi đỏ như son. Lúc vào Đảng, anh nhỏ con và làm thư ký coi kho cho khách sạn Việt Nam – cơ quan kinh tài của Đảng – nên được mọi người gọi đùa là Ký Con.

Vào buổi tối đẹp trời, ăn mặc thật đẹp như một công tử, Ký Con lận súng vào người đến tìm gặp Trần Đức Chính – một thanh niên yêu nước vừa tròn mười chín tuổi – anh bảo:

- Thằng Kinh phản Đảng rồi. Tối nay anh đến bảo thằng Kinh là tôi mời hắn đi hát cô đầu. Sau đó, anh dắt hắn ra vườn Bách Thảo.

Ký Con dừng lại, anh hạ giọng nói khẽ:

- Con dao này là của Đảng giao cho anh. Anh giữ lấy. Khi đến vườn Bách Thảo, hễ tôi bắn hắn xong thì anh cầm dao này đâm vào cổ hắn. Nhớ lấy giấy lót vào chui dao. Đâm xong, cầm giấy mà đi, để dao lại. Làm như thế thì bọn mật thám không tìm được vết tay mình in ở chui dao. Anh rõ chưa?

Trần Đức Chính gật đầu:

- Mệnh lệnh của Đảng đã ban hành, tôi xin chấp hành.

Tối đó, bóng trăng đang lả lơi trên vòm cây xanh, những đôi tình nhân dìu nhau đi trên phố. Hà Nội vẫn yên tĩnh. Đúng hẹn, Chính và Kinh đã đến vườn Bách Thảo. Họ ngồi chờ Ký Con. Kinh đang nghĩ đến chầu hát tối nay và nghĩ đến những công việc mà Brides đã giao phó. May quá, chưa ai trong Đảng biết mình đã nhận tiền làm việc cho Brides. Kinh ngửa mặt nhìn lên vòm trời lồng lộng và khe khẽ hát một làn điệu ca trù:

Hồng hồng tuyết tuyết

Mới ngày nào còn chửa biết cái chi chi!

Kinh hát hết bài đó nhưng Ký Con vẫn chưa đến. Chính trong lòn đang lo lắm, anh vẫn giữ im lặng. Kinh lại gõ tay xuống ghế và hát:

Trống chầu lên ngón tự nhiên

Chát tom, tom chát bốn bên ba bề

Tiếng vào giữa, tiếng ra khe

Tiếng nâng dưới phách, tiếng đè lên trên

Nghề hát xướng roi chầu làm chuẩn đích

Trống làm sao mà khúc khích chị em cười…

Kinh mới hát đến đó thì ngay từ phía sau đã xuất hiện một bóng đen. Đó là Ký Con. Anh chĩa súng bắn chính xác vào đầu Kinh. Một dòng máu phụt ra. Kinh ngã người xuống ghế dài. Ngay lập tức, Chính rút dao ra đâm vào cổ tên phản Đảng. Do lúng túng nên anh cắm vào ngay sườn. Máu phun thành dòng như mạch nước ngầm. Lưỡi dao ấy vẫn cắm phập. Ký Con ung dung móc ví của Kinh nhét vào đó bản án gồm bốn chữ “không giữ lời thề” và đút lại vào túi như trước. Sau đó, hai anh em leo lên xe đạp mà phóng đi. Sự việc xảy ra quá mau chóng như trong chớp mắt. Không ai phát hiện gì cả. Hà Nội vẫn yên tĩnh. Đó là ngày mồng 6/10/1929, năm đó Kinh vừa tròn hăm hai tuổi.

Tin Kinh bị ám sát chết đã làm cho Brides sửng sốt. Hắn không ngờ mới mua chuộc được một tên phản Đảng thì đã bị thanh trừng rồi! Điên lên như con lợn bị chọc tiết, Brides thẳng tay đàn áp những tù nhân trong Hỏa Lò. Cũng không xong. Hắn chuyển sang thủ đoạn dụ dỗ và mua chuộc những đảng viên VNQD Đảng đang ngồi tù. Trong số nàycó một nhân vật đáng chú ý là nhà văn Trúc Khê Ngô Văn Triện - ủy viên tuyên truyền của Đảng – đã từng có mặt trong nhóm Nam Đồng Thư Xã và được kết nạp vào Đảng rất sớm. Hắn gọi anh lên văn phòng tiếp đón ân cần và vuốt ve: Nếu anh chịu viết lá thư gọi được Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu ra đầu thú thì anh sẽ được trả tự do ngay. Triện kiên quyết từ chối:

- Thưa ông, ông đã biết được kỷ luật sắt và máu của Đảng tôi. Nếu tôi làm việc đó mà có được tự do thì cũng chung số phận như Kinh mà thôi. Tôi hiểu được thiện chí của ông, nhưng xin ông cho tôi được từ chối nhiệm vụ mà ông đang giao phó. Nó vượt ra ngoài khả năng của tôi.

Trả lời cho lời nói cương quyết ấy là một cú ba-toong quất thẳng vào mặt Triện. Brides rú lên:

- Tao hiểu tâm trạng của mày. Nhưng mày nên suy nghĩ cho thấu đáo. Nếu Học và Nhu ra đầu thú thì được hưởng ân huệ của mẫu quốc. Còn mầy, được tự do, bảo toàn được mạng sống mà hoạt động cho Đảng, hơn là chết rục xác trong tù. Mày ngheo tao nói đúng không?

Triện lắc đầu, Brides nhỏ nhẹ:

- Mạng sống con người quý nhất là sự tự do. không có sự tự do thì sống cũng như loài cầm thú. Mày đã quên bài thơ mày đã viết năm mười bảy tuổi đã từng in trên tờ Tân Bắc Tân Văn à?

Triện lạnh xương sống. Tên cáo già này biết rõ về mình thế à? Lời thơ bay bướm vừa thoáng qua trí nhớ của anh thì Brides đã đọc:

- Mày có nhớ không? Tao đọc lại cho mày nhớ nhé.

Làm kiếp chim bằng ta tự do

Trời Nam bể Bắc rộng khôn do

Dặm khơi chín vạn bay tung cánh

Trút sạch trần gian trăm mối lo

Có đúng là thơ của mày không?

Triện không trả lời. những ngày đầu tiên gặp Nhượng Tống, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Văn Mịch… lại hiện về trong trí nhớ của anh. Đó là những ngày họ thảo luận sôi nổi nên thực hiện cách mạng theo lối “hòa bình cách mạng” hay chủ trương “bạo động cách mạng”. Đó là những ngày đi lang thang trên đường phố Hà Nội, ấn tượng dữ dội đập vào mắt anh là những chàng thanh niên gầy còm,  ốm yếu bước vào hút thuốc phiện. Hỡi ôi còn đâu là nhuệ khí của dân Việt? Chính Nguyễn Thái Học đã phân tích cho Triện nghe về thủ đoạn của chính sách mà bọn thực dân cho dung dưỡng mua bán thuốc phiện. Chúng cho trồng cây thuốc phiện tại vài tỉnh trên thượng du, nhiều nhất là Hà Giang và độc quyền nấu nhựa thành thuốc để độc quyền bán. Nhà bán thuốc phiện lẻ gọi là ty, có cắm cờ Tam Tài (cờ nước Pháp) có ghi rõ hai chữ R.O (Régie d’Opium: Độc quyền thuốc phiện). Giữa lúc thanh niên sa ngã vào bàn đèn, cô đầu thì ngay khi gặp gỡ đầu tiên Nguyễn Thái Học lại nói với anh về đồng bào, về hồn nước. Vậy lẽ nào bây giờ mình lại phản bội lý tưởng khi đã gia nhập vào Đảng của Học? Anh đang suy nghĩ lan man như thế thì Brides vỗ vai anh:

- Thế nào? Đã suy nghĩ chưa về sự tự do hả mày?

Triện lắc đầu. Brides đập tay xuống bàn. Chỉ chờ vậy, hai thằng hộ pháp đang đứng hai bên bỗng lồng lên như con chó sói bị bỏ đói lâu ngày thấy miếng mồi ngon. Hai thằng nhảy sổng vào người Triện. Chúng đánh đập anh tơi bời. Triện mửa ra máu và ngã gục. Một xô nước lạnh xối vào người anh. Triện tỉnh dậy. Anh thấy trời đất quay cuồng. Brides rút súng chĩa vào thái dương của Triện:

- Mày không viết lá thư đó thì tao bắn ngay!

Nòng súng đen. Lạnh ngắt. Không gian như đông đặc lại. Brides lại rú lên:

- Mày viết không?

Triện chưa kịp trả lời. Một cú đá hiểm hóc tống ngay vào bụng Triện. Anh quặn người. Nôn thốc ra một búng máu đỏ tươi.

Hành động xuất quỷ nhập thần của đảng viên VNQD Đảng nhiều phen đã làm Brides điên tiết, hắn tuyên bố nếu Nguyễn Thái Học bạo động thì tất cả những đảng viên bị giam cầm ở Hỏa Lò sẽ bị xử bắn hết. Sở mật thám lúc này càng khủng bố và truy lùng gắt gao lãnh tụ VNQD Đảng. Hoạt động của Đảng đang sa sút và phạm vi hoạt động cũng đang bị thu hẹp lại. Giữa lúc này, Nguyễn Thái Học tỏ ra tích cực trong việc củng cố lại Đảng. Chính anh đã thảo ra bản “Tu Chính” điều lệ Đảng – trong đó có những điều mà anh nhận thức được từ thực tiễn của Đảng Cộng sản đang hoạt động – đó là tuyệt đối giữ gìn bí mật Đảng, tổ chức nhóm chiến đấu, phụ nữ đoàn… sinh hoạt bên cạnh Đảng. Giữa lúc gian nan này, các lãnh tụ VNQD Đảng đã có một hội nghị quan trọng họp tại Lạc Đạo (nơi giáp ranh hai tỉnh Bắc Ninh và Hưng Yên) vào ngày 17-9-1929. Cuộc họp toàn quốc kể từ sau ngày xảy ra vụ ám sát Bazin. Trong hội nghị này đã nảy ra hai chủ trương nhằm đối phó lại tình huống đang nguy ngập của Đảng. Chủ trương thứ nhất cho rằng, lúc này phải tổ chức lại Đảng để bảo vệ, bảo toàn lực lượng của Đảng. Chủ trương thứ hai là cần phải tiến hành ngay cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, vì lúc này thực dân Pháp chưa phá vỡ được hẳn tổ chức Đảng, nếu kéo dài thời gian chuẩn bị thì sớm muộn gì các đảng viên đều rơi vào nanh vuốt của kẻ thù. Và sẽ không còn cơ hội khởi nghĩa được nữa. Cuộc họp này đã chia rẽ nội bộ VNQD Đảng. Nhóm chủ trương thứ nhất cho rằng, nếu manh động khởi nghĩa thì dễ thất bại, Pháp sẽ khủng bố và Đảng có thể đi vào con đường tiêu diệt.

Tranh chấp dữ dội, cuối cùng chủ trương thứ hai của Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu đã thắng.

Khi thảo ra kế hoạch khởi nghĩa thì các lãnh tụ VNQD Đảng đã tính đến lực lượng trong và ngoài nước. Và xúc tiến việc chế tạo vũ khí, tổ chức các vụ tống tiền nhằm bổ sung quỹ của Đảng v.v…

Cơ sở chế tạo vũ khí đầu tiên của Đảng đặt ở làng Mỹ Điền (Bắc Giang). Vào ngày 31/9/1929 do bất cẩn trong khi chế tạo vũ khí, một vụ nổ bom đã xảy ra. Tiếng nổ dậy trời. Tường nhà sập. Mái nhà bị hất tung. Người chế tạo bom bị dập nát xương thịt. Mặt mày cháy sém. Máu me đầy người. Sự việc vỡ lở, chủ nhà là Lương Văn Trạm cùng đồng chí của mình bị mật thám bắt tra tấn tàn nhẫn, nhưng kẻ thù vẫn không lấy được lời khai nào! Trong các loại vũ khí được chế tạo, ngoài kiềm, dao ra, Nguyễn Thái Học rất chú ý đến bom và lựu đạn. Hai loại này, khi chế tạo xong chưa dùng đến thì buộc lòng phải chôn để bọn mật thám không phát hiện được. Ngày 20/11/1929, tình cờ bọn chúng khám phá ra ở Phao Tân có 67 quả bom giấu trong một cái chum chôn dưới đất. Ngày 23/12/1929 tại Nội Viên (huyện Tiên Du - Bắc Ninh) hai chum bom chôn ở một gò cao giữa đồng cũng bị phát hiện. Nguyên nhân là do thấy vết đất mới đào, bọn trẻ chăn trâu đã tò mò đào lên lại… Biết chuyện viên quản ấp Nội Viên phải báo cho quan huyện. Huyện về khám thì phát hiện ra 84 quả bom. Dân làng sợ bị liên lụy nên bỏ trốn sạch. Khám trong ấp thì chúng tìm được những mảnh gang, dây thép gai, tài liệu chế tạo bom do chính Nguyễn Thái Học ghi ra! Thế là tất cả các loại bom, lựu đạn vào cuối năm 1929 do VNQD Đảng sản xuất ở các vùng Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Kiến An, ngoại thành Hà Nội (vùng quanh sân bay Bạch Mai, ấp Thái Hà…) v.v… đều bại lộ. những điều nầy đã gây lúng túng cho Đảng vì thực dân đã đánh hơi được mọi sự công việc khởi nghĩa của VNQD Đảng nên bủa vây, khủng bố gay gắt hơn bao giờ hết.

Đã thế, ngày 8/10/1929 sau hai ngày mà Ký Con ám sát tên Nguyễn Văn Kinh phản Đảng, một đảng viên tâm huyết của Đảng là Ngô Đức Thụ đem bạc giả từ Tàu về bổ sung cho nguồn kinh phí của Đảng cũng đã bị thực dân bắt. Đến nước này, Nguyễn Thái Học lại phái người sang Quảng Tây để cầu viện. Tất cả mọi người đều nôn nóng chờ đợi tin tức. Nguyễn Khắc Nhu đã tâm sự với Nguyễn Thái Học bằng hai câu đối:

Tinh thần chớp nhoáng muôn non ngắn

Tin tức chậm ghê khoảng khắc dài

Thế rồi sự việc cầu viện nầy cũng không đem lại kết quả khả quan nào. không nản chí, Nguyễn Thái Học lại đưa người đi cầu viện ở nước ngoài. Muốn thành công thì phải có người đầy đủ uy tín với giới chính trị quốc tế. Họ nghĩ ngay đến cụ Phan Bội Châu. Từ năm 1928 cụ Phan đã nhận làm Chủ tịch danh dự của Đảng, và rõ ràng chỉ có cụ mới đủ danh nghĩa để thực hiện ý đồ nầy. Thế là Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu đề ra kế hoạch tổ chức đưa cụ Phan xuất dương lần nữa. Sẽ có năm chiếc xe ôtô thay phiên nhau đưa cụ Phan từ Huế sang Trung Quốc. Tiếc thay, thực dân Pháp đã đánh hơi được ý đồ này nên giám sát cụ rất ngặt. Cụ không thể rời Huế mà thực dân không biết. Vậy là kế hoạch này thất bại.

Tất cả những điều trên cho thấy, VNQD Đảng đang bị dồn vào thế chân tường và buộc lòng mau chóng bước sang giai đoạn chống đối công khai bằng võ lực. Họ liên hệ với việc Kinh Kha san Tần giết Tần Thủy Hoàng không thành công, nhưng hy sinh vì đại nghĩa vẫn được muôn đời sau khâm phục. Nguyễn Thái Học đã nêu lên khẩu hiệu “không thành công cũng thành nhân” đã được các đảng viên VNQD Đảng chấp nhận. Trên tinh thần đó, ngày 25/12/1929 một cuộc họp lớn tổ chức ở Võng La - một làng ven sông Đà (Phú Thọ). Sở dĩ họ chọn nơi này vì làng có nhiều đảng viên, nhiều người cảm tình với Đảng. Hơn nữa làng này xa trung tâm Hà Nội – tránh được cái mũi đánh hơi sục sạo của bọn chó săn, đồng thời có đường thủy, đường bộ thuận lợi cho việc bố trí canh gác phát hiện địch từ xa.

Điều mà các yếu nhân VNQD Đảng không ngờ tới là cuộc họp này đã có người mật báo với Riner – thanh tra Sở mật thám. Kẻ đó là Đội Dương. Hắn nguyên là sinh viên trường Y, sau khi tốt nghiệp lại đâm đầu vào lính. Khi Đảng mới thành lập thì hắn đóng quân ở Chùa Thông, Nguyễn Thái Học đã lên đó tuyên truyền và giác ngộ được hắn vào Đảng. Sau một thời gian dài thử thách về lòng trung thành, hắn được cử làm trưởng ban Binh vụ, mà lúc Đảng đang thiếu người phụ trách. Dương đã được Đảng giao nhiệm vụ chôn giấu 700 quả bom quanh khu vực Bạch Mai để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa sắp tới. Bố của Dương là Giáo Du biết được chuyện này, sợ quá y bèn bắt Dương ra đầu thú với quan Tây.

Vừa bước chân vào nhà ông Lý Cả để bắt đầu cuộc họp, Phó Đức Chính đã tinh mắt thấy thái độ lúng túng, không bình thường của Dương. Anh vội kéo Nguyễn Thái Học vào nhà sauvà khuyên nên đề phòng.

Khi bước ra lại thì trên mặt bàn đã đặt một khay trà. Ba lãnh tụ của VNQD Đảng là Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính cùng ngồi trò chuyện với Dương. Mặt Dương không rõ sao hôm nay lại men mét, rịn ra những giọt mồ hôi. Thái độ không được tự nhiên lắm. Thỉnh thoảng hắn lại kín đáo liếc xem đồng hồ, như có hẹn với ai vậy. Lúc đó, từ phía trạm gác báo tin là có xe ô tô của địch đang qua phà Trung Hà và hướng về phía Võng La.

Lập tức, Dương đứng phắt dậy. Hắn thò tay vào túi quần, rút ra khẩu súng bắn vào các lãnh tụ VNQD Đảng. Tiếng đạn nổ đanh. Mọi người nhốn nháo cả lên. Nhanh như chớp, Nguyễn Khắc Nhu co chân đạp chiếc bàn vào người Dương. Hắn ngã lăn ra. Thừa cơ ấy, mọi người bỏ chạy tán loạn. Dương bật người ngồi dậy. Hắn nâng súng lên bắn vào Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính. Anh Chính bị đạn ghim vào dưới vú. Viên đạn này lặn vào thịt. Mãi mãi không bao giờ anh lấy ra được. Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính ngã lăn ra giả chết. Tưởng thật, Dương và đồng bọn bỏ đó, một tay cầm súng, một tay dắt xe đạp vội rượt theo Nguyễn Khắc Nhu.

Nguyễn Khắc Nhu chạy ra ngoài đồng đã được một nông dân có cảm tình với Đảng cho mượn ngay chiếc cuốc, chiếc nón lá giả làm một lão nông dân. Trong khi đó, Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính cũng đứng dậy tẩu thoát. Vì đang bị thương nặng, không thể chạy được, Phó Đức Chính được Cô Giang và đồng đội của mình đem giấu trong một đống rơm. Nguyễn Thái Học cũng chạy theo lối tắt ra đồng, một nông dân đang đập đất thấy anh vội vàng cởi áo tơi mặc lên người anh, chụp trên đầu anh cái nón lá và trao luôn cả cái vồ đập đất. Còn lão nông dân thì vơ điếu cày ra ngồi đầu bờ ruộng canh chừng cho anh. Anh giả vờ đập đất rồi vác cuốc lùi ra khỏi làng Võng La, tìm đến nhà một đồng chí ở làng kế cận để dễ cải trang rồi rút về Hải Dương.

Các lãnh tụ VNQD Đảng đã chạy thoát hết. Đội Dương vì không rành địa thế của Võng La nên không dám đuổi theo, hơn nữa hắn cũng bị các vệ sĩ của Đảng bắn trả dữ dội trong cuộc hỗn chiến này. Khi nghe tiếng súng báo hiệu của Dương ngay lúc ban đầu, bọn mật thám cũng ập vào làng để bắt các nhà cách mạng. Chúng bắt tất cả dân làng phải tập họp lại để chúng nhận mặt, mặt khác chúng sục vào từng nhà một để khám xét. Thế nhưng, chúng không bắt được một đảng viên nào cả. Điên tiết, bọn chúng nổi lửa lên đốt cả làng Võng La, bắt dân chặt hết tre ngoài lũy rồi đuổi dân đi. Mãi về sau, do kiên trì đấu tranh những người dân này mới được về làng cũ.

Việc Đội Dương phản Đảng, dám cả gan cầm súng bắn vào các lãnh tụ là một tội lớn. Một tòa án tối cao đã được thành lập Vĩnh Yên do Nguyễn Khắc Nhu chủ trì đã quyết định: phải xử tử Đội Dương. kế hoạch này, Ký Con – trưởng ban ám sát của Đảng – đã giao cho em ruột Nguyễn Thái Học là Nguyễn Văn Nho thi hành.

Nguyễn Văn Nho nguyên là học sinh lớp nhất trường tiểu học Pháp Việt Việt Trì. Anh bị thực dân đuổi học vì là em ruột của Nguyễn Thái Học đã chống đối lại nhà nước Bảo hộ. Năm đó, Nho mới mười bảy tuổi nhưng rất gan dạ, xung phong nhận nhiệm vụ vẻ vang này. Ký Con xét thấy Nho còn ít tuổi, thiếu kinh nghiệm nên đã cử thêm Nguyễn Xuân Huân - một tay thiện xạ đi theo trợ giúp.

Vào buổi chiều ngày 22/1/1930 trời Hà Nội dường như mây thấp hơn. U ám. Gió rét. Đường phố nhộn nhịp người đi lại, xe cộ tấp nập. Một anh phu xe đang còng lưng, rướn hết sức để kéo một người đàn ông sang trọng. Miệng thở phì phò, mồ hôi toát ra đầm đìa, làm kiếp người ngựa sao mà khổ thế này. Anh ta thở hồng hộc. Mặt cúi gầm xuống đất. Chân rảo nhanh. Đã sắp đến nhà của khách rồi. Anh ta đi chậm lại. Bỗng lúc đó có hai người thanh niên xuất hiện. Họ chặn đầu xe lại. Hai người này da trắng trẻo, đầu đội mũ, chân mang giày trông hết sức lịch sự. Họ nói với người đàn ông đang ngồi trên xe:

- Thưa thầy, cho phép con được thưa một việc.

Gã đàn ông dậm chân mạnh xuống xe:

- Dừng lại!

Người kéo xe dừng hẳn lại. Gã nói tiếp:

- Cút xéo!

Tội nghiệp người phu xe khúm núm:

- Thưa ông cho thêm tiền ạ!

Lập tức gã quát tháo:

- Đồ con lợn! Thêm tiền gì nữa?

Tiện tay, gã đàn ông cởi chiếc thắt lưng da đang đeo ngoài bụng, nhấp nhoáng một chiếc khóa đồng. Gã cầm chiếc thắt lưng ấy quật vào mặt người phu xe:

- Con lợn cứng đầu! Cút ngay!

Người phu xe ôm mặt máu đứng chịu trận. không thể nhìn cảnh thảm thương ấy được, một người thanh niên đã móc trong túi ra hai xu dúi vào tay anh phu xe.

- Thêm tiền cho anh đây! Anh đi ngay đi!

Nói xong liền quay lại phía người đàn ông:

- Thưa thầy có thư của quan lớn gửi cho thầy. Con xin trình thầy.

Gã đàn ông nheo mắt, hắn ngạc nhiên. Thư từ gì không đưa nơi công sở mà đưa giữa phố xá như thế này. Suy nghĩ như thế nhưng hắn cũng đưa tay cầm. Và cúi xuống đọc. Lập tức, nhanh như chớp người thanh niên trẻ tuổi, da trắng đã móc súng lục trong người ra. Anh bắn ngay hai phát vào ngực của gã. Gã lảo đảo ngã xuống, trên tay còn cầm bức thư mà gã chưa kịp đọc hết: “Nước mất nỡ ngồi yên! Đạo trời đâu có thế! Cha con Giáo Du đã phụ lời thề, cam tâm làm tay sai cho giặc. Tiết lộ bí mật của Đảng! Phản bội đồng chí. Phải chịu tội tử hình trước Đảng, trước quốc dân! Tòa án cách mạng VNQD Đảng”. Người bị bắn chết là Giáo Du – cha của Đội Dương. Hai thanh niên sau khi làm xong nhiệm vụ đã trốn thoát. Họ đi đâu? Ít ai ngờ tới là họ đã liều lĩnh đến nhà số 34 ngõ Hồng Phúc – nhà của Đội Dương. Họ gõ cửa dồn dập. Một cô gái bước ra hỏi:

- Các ông hỏi ai ạ?

- Ông cụ đã bị cảm ngất xỉu cạnh chợ Đồng Xuân, thầy Đội Dương và cô sao không đi dìu ông cụ về?

Cô gái hoảng hốt:

- Thầy tôi bị ngất à? Còn anh Đội Dương của tôi đã đi Bạch Mai không có ở nhà! Khổ quá!

Một người thanh niên đáp:

- Vậy à? ?Thôi, cô ra khiêng ông cụ về nhà mà chăm sóc cho ông cụ nhé.

Nói xong, hai thanh niên nhanh chân bước ra ngoài lẫn vào trong đám đông. Đường phố vẫn tấp nập. Chiều xuống dần. Rét hơn. Thế là vẫn chưa giết được tên Đội Dương. Sau khi thực hiện hành động đê hèn ở Võng La, Đội Dương được Phủ toàn quyền phong cho “Mề đay tím” và hàm “Hồng lô tự thiếu khanh”. Mỗi tháng được lãnh một ngàn đồng và được đặc phái sang làm ở thanh tra mật thám Bắc Việt. Cái chết của Giáo Du đã khiến cho Dương đề phòng cẩn mật hơn. Nguyễn Văn Nho và Nguyễn Xuân Huân phải rình rập theo dõi mãi, đến ngày 24/4/1930, nghĩa là phải mất ba tháng sau họ mới có cơ hội để xử tử tên phản Đảng này.

Đó là lúc trên phố Cửa Đông, hai thanh niên này đã bắn Dương thòi ruột. Hắn đã vùng dậy rút súng bắn trả lại, nhưng viên đạn lại ghim vào đùi người phu xe. Sự kiện ám sát cha con Giáo Du được thực hiện giữa thanh thiên bạch nhật đã gây tiếng vang lớn. Danh tiếng của VNQD Đảng ngày càng lan rộng trong thanh niên. Đội Dương đã được Pháp đưa sang Paris chữa chạy. Giữa kinh đô ánh sáng hoa lệ, lệnh truy nã vẫn bám theo hắn. Một Việt kiều là đảng viên VNQD Đảng đã bắn hắn ngay tại bệnh viện ở Paris.


5

Không thành công cũng thành nhân

Tình hình mỗi lúc mỗi bất lợi cho sự hoạt động của VNQD Đảng, chính vì thế Nguyễn Thái Học từ Kinh Bắc cấp tốc lên lại Phú Thọ, anh đã triệu tập buổi họp khẩn cấp vào ngày 26/1/1930 cũng tại làng Võng La mặc dầu tại địa điểm này những lãnh tụ của Đảng đã từng bị tên phản Đảng Đội Dương bắt hụt trong tháng qua. Nhưng lần này, các cơ sở trong làng đã được bố trí lại, những người canh gác đều là những người trong Đảng nhờ vậy hội nghị vẫn tiến hành tốt đẹp.

Đứng trước những đồng chí của mình, gương mặt rắn rỏi của Nguyễn Thái Học đã có vẻ mệt mỏi, đôi mắt sâu hoắm vì những đêm mất ngủ và trằn trọc lo nghĩ đến việc khôi phục lại hoạt động của Đảng. Không khí của hội nghị trở nên nghiêm trang. Nguyễn Thái Học đã cất tiếng nói nhỏ nhẹ nhưng cương quyết:

- Chúng ta làm cách mạng bằng sắt máu, bao giờ cũng lấy lực lượng quân đội làm chủ lực. Nay Đội Dương đã làm phản, phần chủ lực đã bị sứt mẻ rồi. Mặt khác, những vũ khí chế tạo được thì cũng bị địch khám phá rất nhiều. Nếu lúc này chúng ta không hành động ngay thì các đồng chí của chúng ta và số vũ khí còn lại cũng sẽ bị địch làm tan vỡ hết. Vấn đề đặt ra trong hội nghị này là các đồng chí bàn bạc thử xem chúng ta có thể chiến đấu với một quân đội được huấn luyện chu đáo, cùng khí giới tinh nhuệ không?

Tất cả mọi người có mặt trong hội ng hị đều im lặng. Anh dừng lại, húng hắng họ và nói tiếp:

-Vậy đó, chúng nó là đội quân có tổ chức, khí giới sẵn sàng còn chúng ta có gì? Chúng ta có một ít bom xoàng, gươm cùn, dao nhụt mà thôi. Nhưng các đồng chí ơi! Chúng ta có một lò lửa đang giấu trong lồng ngực này. Chúng ta có một trái tim sẵn sàng chết vì Tổ quốc, vì hăm lăm triệu đồng bào đang làm kiếp trâu ngựa. Chúng ta phải hành động thôi. Không thành công thì cũng thành nhân. Người ta thường bảo: “Cần phải đứng trước chỗ không thua”, nhưng chúng mình thì đang đứng trước thua mất rồi. Thế nhưng liệu không đánh, liệu tổ chức lại rồi sẽ đánh có được không?

Mọi người đang chăm chú lắng nghe như uống lấy từng lời tâm huyết của lãnh tụ Đảng. Xa xa có tiếng chó sủa vu vơ vọng đến. Tiếng tre xào xạc và đâu đó có tiếng bà mẹ trẻ ru con ầu ơ nghe buồn buồn… Nguyễn Thái Học ngừng lại, anh đánh diêm rít một hơi thuốc lào và nhả khói bay. Lúc này, Lê Hữu Cảnh đột ngột đứng dậy:

- Thưa Đảng trưởng, tôi trộm nghĩ rằng trong binh pháp có nêu lên ba yếu tố để thành công là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Hiện nay, thiên thời chưa thuận lợi cho phép chúng ta hành động. Không khéo thịt nát xương tan trước sự đàn áp khốc liệt của thực dân. Do đó tôi đề nghị hoãn lại cuộc khởi nghĩa.

Nguyễn Thái Học gằn giọng:

- Vâng, gặp thời thế không thuận lợi, không chiều mình, Đảng có thể tiêu mòn lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã chen vào trong đầu óc quần chúng, khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng vào Đảng thì phong trào có thể nguội lạnh như tro tàn. Chúng ta còn bó tay ngồi chờ đến bao giờ?

Cuộc họp bắt đầu sôi nổi lên. Nhiều ý kiến tranh luận gay gắt bắt đầu. Nguyễn Khắc Nhu đứng dậy nói bằng giọng đanh thép:

- Hiện tình đang khẩn trương lắm. Tôi thấy bọn thực dân và bọn Việt gian đang đẩy chúng ta đến thế chân tường rồi. Chúng ta chỉ còn chọn lấy hai tư thế hoặc ngồi trong bóng tối chờ chúng đến còng tay tống vào Hỏa Lò, đày ra Côn Lôn hoặc vùng lên đánh chúng để cướp lấy thời cơ. Tôi ủng hộ ý kiến của anh Nguyễn Thái Học là phải đánh. Phải đánh!

Nguyễn Đôn Lâm tranh luận với ý kiến đó:

- Tôi sợ rằng, lòng quyết tâm sắt đá của chúng ta không thể chống lại súng đạn của chúng đâu! Thử nghĩ câu “châu chấu đá xe” có đúng với hành động của chúng ta lúc này không?

Chị Nguyễn Thị Giang rụt rè đứng dậy, bằng giọng nói nhỏ nhẹ nhưng không kém phần u uất:

- Chúng ta có thể chỉ là “châu chấu đá xe”, nhưng xin các đồng chí nên nhớ rằng ngoài lực lượng Đảng chưa bị địch bắt thì chúng ta còn có hàng ngàn chi bộ dân sự, hằng trăm chi bộ nhà binh, cùng sự ủng hộ của đồng bào. Lẽ nào chúng ta đành chịu tan rã trong lúc này?

Nhiều ý kiến còn phát biểu nữa, đa số đều ủng hộ tinh thần quyết chiến của Nguyễn Thái Học. Chờ đến phút cuối cùng khi các ý kiến đã tạm nhất trí với nhau thì Nguyễn Thái Học nói:

- Trước bàn thờ Tổ quốc chúng ta thề chết để lại gương phấn đấu cho thế hệ sau tiếp nước! Dù chết nhưng để lại danh thơm há không phải là vinh dự cho VNQD Đảng hay sao?

Nói xong, anh rút trong túi áo bản hiệu triệu của Lệnh Khởi nghĩa.

- Bản hiệu triệu này, tôi và anh Nguyễn Khắc Nhu cùng soạn thảo. Bây giờ thông qua cho hội nghị.

Mọi người chuyền tay nhau đọc bản hiệu triệu đó, nó được viết bằng mực tím, nét rắn rỏi như thể hiện được quyết tâm của người soạn thảo:

HỊCH HIỆU TRIỆU

Đại cáo: Trục xuất thực dân ra khỏi Đông Dương.

Hỡi quốc dân đồng bào,

Suốt hơn nửa thế kỷ, Dân tộc ta đã nằm trong ách thống trị của bọn thực dân Pháp.

Biết bao thống khổ cơ hàn đã do bọn chúng gây nên trên giang sơn gấm vóc này.

Trong khi ấy bọn vua quan và tay sai đã cam tâm làm tôi mọi cho thực dân Pháp, không thèm đếm xỉa đến những đau thương tủi nhục của hai chục triệu con dân Lạc Hồng đang ngày đêm âm thầm chịu đựng. Hỡi quốc dân đồng bào! Ai mà không bất bình? Ai mà không căm phẫn?

Nay VNQD Đảng chúng tôi cùng với Quốc Dân toàn quốc vâng lệnh Tổ quốc cùng hợp lực đứng lên đánh đuổi bọn thực dân ra khỏi Đông Dương này.

Giang sơn Việt Nam do người Việt Nam làm chủ!

Nền Độc lập nước nhà phải do bàn tay người Việt Nam xây đắp.

Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái phải có trên giang sơn gấm vóc này.

Có như vậy thì chúng ta mới tiến kịp cùng văn minh thế giới.

Xin toàn thể quốc dân đồng bào cùng VNQD Đảng đồng tâm cứu nước.

Lời hiệu triệu được viết bằng máu của những người ái quốc.

Việt Nam Quốc Dân Đảng

Nguyễn Thái Học

Có người đã rớm nước mắt khi đọc xong bản Hiệu Triệu này. Họ đã nghe bên tai mình tiếng gươm khua, đầu rơi, máu đổ như đã mơ hồ thấy cờ Tổ quốc rạng ngời trong ngày mai… được sự phân công của Đảng trưởng, Nguyễn Khắc Nhu thông qua kế hoạch Tổng khởi nghĩa.

- Hội nghị lần này vẫn không có gì khác với hội nghị bí mật hồi tháng 5/1929 tại làng Hiệp Đức, Phủ Thuận Thành (Bắc Ninh). Cơ quan tối cao của Đảng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa này được gọi là “Tổng Bộ Chiến Tranh”, các chi bộ Đảng sẽ biến thành “Nhóm Chiến Đấu”. Thưa các đồng chí, kế hoạch Tổng khởi nghĩa như sau: Đảng chỉ huy một cuộc Tổng khởi nghĩa cùng một lúc đánh vào những đô thị lớn và những yếu điểm quân sự của thực dân Pháp. Vũ khí giết giặc là những vũ khí cướp được của địch và những bom, lựu đạn, đao kiếm do Đảng tự chế tạo ra. Lực lượng chính của cuộc Tổng khởi nghĩa là những đảng viên quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, là những binh sĩ của Đảng trong hàng ngũ địch, còn lực lượng phụ là quốc dân đồng bào yêu nước. Quân kỳ dùng trong cuộc Tổng khởi nghĩa có hai màu: Màu vàng tượng trưng cho dân tộc Việt, màu đỏ tượng trưng cho dòng máu quyết tử giành độc lập dân tộc. Các đồng chí có ý kiến gì không?

Không có ý kiến nào khác. Nguyễn Thái Học đưa mắt nhìn qua các đồng chí của mình, anh hướng về từng người rồi hạ lệnh phản công: Khu vực Yên Bái do đồng chí Thanh Giang và Nguyễn Nhất Thân hiệp lực cùng các đảng viên tại địa phương, các Binh đoàn khố đỏ của Quản Cầm. Ngoài ra, còn có đồng chí Nguyễn Thế Nghiệp đem quân từ Vân Nam về tiếp viện – Khu vực Sơn Tây do Phó Đức Chính đảm trách có phối hợp với Binh đoàn Đồn Thông – Khu vực Hải Dương, Phả Lại do Nguyễn Thái Học và Trần Quang Riệu phụ trách – khu vực Hưng Hóa Lâm Thao giao cho Nguyễn Khắc Nhu điều khiển. Khu vực Hải Phòng, Kiến An giao cho Vũ Văn Giản, Nguyễn Văn Chấn và Phạm Văn Tình lãnh nhiệm vụ. Còn về khu vực Hà Nội thì sao? Cơ quan tối cao của Đảng xét thấy nơi này lực lượng còn đang yếu nên giao cho Ký Con chỉ huy Đoàn ám sát của Đảng đi ném bom vào một số cơ quan chính quyền địch để thực hiện công tác nghi binh cầm chân địch. Theo kế hoạch đã định thì ngày 10/2/1930 sẽ là ngày Tổng khởi nghĩa toàn quốc.

Nguyễn Thái Học vừa dứt lời thì mọi người đều nắm chặt tay lại. Mắt họ ngước về bàn thờ Tổ quốc. Họ đang thấy dòng máu nóng sôi sục. Mỗi người đều nghĩ đến kế hoạch mà Đảng trưởng vừa giao phó. Nguyễn Thái Học ra lệnh giải tán hội nghị và yêu cầu không ai được chép trên giấy bất cứ dòng chữ nào cả.

Lúc này, trong nhà chỉ còn lại Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu. Họ ngậm ngùi nhớ lại những ngày hai người còn bôn ba khắp chốn, vừa trốn tránh lệnh truy nã, vừa gầy dựng lại cơ sở Đảng. Nguyễn Khắc Nhu nhai trầu bỏm bẻm, anh nhổ toẹt bãi trầu đỏ lòm xuống đất rồi hỏi đồng chí mình:

- Anh Học à? Anh còn nhớ cái đêm mà tôi đóng vai lý trưởng, anh đóng vai theo hầu tôi không?

Nguyễn Thái Học cười ngặt nghẽo:

- Sao lại không nhớ? Ngay bài thơ của anh tôi cũng còn nhớ nữa là… Khi Cách mạng thành công chúng ta phải trở lại chốn cũ nhé!

Đó là đêm hai người đánh lạc hướng theo dõi của bọn mật thám bằng cách chui vào nhà cô đầu ở phố Khâm Thiên, vì phố này ngõ ngách nhiều dễ trốn thoát khi bị độn. Nhà cô đầu này chỉ có một cái phản để quan viên ngồi đánh trống nhe hát và vài cô đầu trông hiền lành, niềm nở. Mặc dù đóng vai lý trưởng đào hoa, tiêu xài tiền vạn bạc ức nhưng chưa bao giờ hai anh lui tới chốn này cả nên Nguyễn Khắc Nhu mới thật thà hỏi giá một chầu hát bao nhiêu tiền? Lại trả tiền trước để… độc quyền cái phản ấy rồi lăn ra ngủ. Đã thế còn dặn cô đầu đến lúc canh năm gà gáy sáng thì dậy thổi cơm cho thầy trò ăn! Còn lúc đó, Nguyễn Thái Học thì lấy chiếc chiếu xuống bếp nằm ngủ, đánh chẳng  một giấc và ngáy khò khò…  Các cô đào ngạc nhiên đến sửng sốt, họ lần đầu tiên mới tiếp khách lạ lùng như thế. Họ đâu biết rằng mình đang tiếp hai ông cách mạng đầy nhiệt huyết, hai ông đại tội với chính phủ Bảo hộ. Lúc gà gáy hai dạo thì Nguyễn Khắc Nhu thức dậy và lên tiếng gọi cô đầu lấy nước, thắp đèn lên cho anh rửa mặt. Trong khi rửa mặt, anh suy nghĩ hàm râu của mình dễ bị bọn chó săn phát hiện bèn lấy dao cạo trong tay nải ra nhờ cô đào cạo hộ. Một người từng hạ lệnh ám sát bao nhiêu tên phản Đảng, thế mà cầm dao cạo râu mình thì lại nhát tay, tự mình không cạo được! Khi Nguyễn Thái Học thức dậy thì ngạc nhiên thấy đồng chí mình đã mất sạch chòm râu và nói đùa:

-Anh ám sát hết râu à? Tôi đang cần mọc râu thì anh lại cạo hết râu uổng quá!

Nguyễn Khắc Nhu cười:

-Vậy à? Tôi mới có bài thơ Tiễn râu vui đọc cho anh nghe nhé:

Mấy chục năm trường bạc sắt son

Đến nay tống biệt dạ bồn chồn

Trăm đường cũng tại thằng Tây cả

Râu hết, đường đi dễ lọt hơn

Đọc xong, hai người cùng phá lên cười thích thú. Cô đầu đứng nghe cũng phì cười, cô ta lờ mờ hiểu rằng đây không phải là khách phàm phu tục tử mà mình thường gặp. Thái độ ôn hòa của họ đêm qua và nhất là bài thơ có câu “Trăm đường cũng tại tằhng Tây cả” đã làm cho cô cảm động. Cô vào nhà lấy lại tiền chầu hát, tiền ngủ trọ đêm qua để trả lại cho khách, nhưng hai ông khách kỳ quặc này không nhận. Họ bước ra khỏi nhà vào lúc trời còn mờ mờ sương đêm. Cô ta chú ý thì thấy mỗi người đi một ngả…

Nhớ lại chuyện cũ ấy vào hồi tháng chạp năm 1929, Nguyễn Thái Học bất giác cười lớn. Anh cầm lấy khay trầu, lựa một miếng trầu ngon và ăn ngon lành. Nguyễn Khắc Nhu đưa tay xoa cằm, bây giờ râu của anh đã mọc lại, anh nói:

- Buổi họp hôm nay rất quan trọng. Có thể chúng ta sẽ đền nợ nước. Điều đó không quan hệ gì cả. Còn gì sung sướng hơn là được chết cho Nước cho Dân. Anh Học này! Tôi bàn với anh thế này nhé!

Biết đồng chí tâm huyết của mình sắp sửa nói điều nghiêm túc, Nguyễn Thái Học ngồi ngay ngắn, lắng tai:

- Vâng, anh cứ nói!

- Với tư cách là Đảng trưởng, tôi đề nghị anh phải có biện pháp giữ gìn bí mật tuyệt đối ngày giờ khởi nghĩa của Đảng ta. Do đó…

- Anh cứ nói.

Nguyễn Khắc Nhu nói nhỏ:

- Tôi bàn với anh là phải ra lệnh cho Ký Con thủ tiêu những người không đồng ý với lệnh Tổng khởi nghĩa. Nếu không, kế hoạch của chúng ta lọt ra ngoài thì hỏng hết đại sự.

Nguyễn Thái Học bừng tỉnh, anh vỗ đùi:

- Khá khen anh. Đó là điều mà tôi lại quên lửng đi. Phải thủ tiêu những người bất đồng vì mưu đồ của đại cuộc.

Chính vì lẽ đó, mặc dầu những người này không đồng ý với quan điểm của Đảng, nhưng họ vẫn là người một lòng phụng sự Đảng. Nguyễn Thái Học biết thế, nhưng không còn cách nào khác. Trách nhiệm vinh quang của cả Dân Tộc đang đặt trên vai anh, anh nghiến răng hạ lệnh theo ý kiến cùng thảo luận với Nguyễn Khắc Nhu.

Ngay su khi giải tán hội nghị, vào chiều ngày hôm sau, mệnh lệnh đã được giao cho Ký Con. Trưởng ban ám sát của Đảng đã từng hạ thủ những tên Việt gian, nhưng lần này anh không bắn Lê Hữu Cảnh. Còn Nguyễn Đôn Lâm bị Cai Hồng bắn gãy bả vai. Lâm im lặng tìm thầy thuốc chữa khỏi.

Kế hoạch Tổng khởi nghĩa của VNQD Đảng vẫn được giữ bí mật.

Điều mà các lãnh tụ VNQD Đảng không ngờ đến là khi kết thúc hội nghị này, toàn bộ kế hoạch chuẩn bị Tổng khởi nghĩa đã được đảng viên cộng sản mật báo ra Hải ngoại cho Nguyễn Ái Quốc. Lúc này, người cộng sản thiên tài ấy đang báo cáo với Quốc tế cộng sản về việc Đông Dương Cộng Sản Đảng và An Nam Cộng Sản Đảng đã hợp nhất thành Đảng Cộng Sản Việt Nam, một Ban chấp hành lâm thời được bầu ra đã thông báo tình hình về hoạt động của VNQD Đảng. Nghe tin này, Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét: “Cuộc bạo động nổ ra lúc này là quá sớm và khó thành công”. Trong thâm tâm của Nguyễn Ái Quốc muốn gặp các lãnh tụ VNQD Đảng để “bàn lại kế hoạch”, nhưng không thực hiện được. Trong lúc Nguyễn Ái Quốc vượt biên giới Thái Lan đến Trung Quốc thì kế hoạch khởi nghĩa này đã diễn ra.


6

Vung súng gươm chọc trời Yên Bái

Sắp đến ngày Tổng khởi nghĩa, Nguyễn Thái Học ra lệnh hoãn lại vì đạo quân của Đoàn Trần Nghiệp ở Vân Nam chưa về kịp, hơn nữa chị Nguyễn Thị Giang xin Tổng bộ chiến tranh đưa lên chi bộ Lao Kay bốn  chục trái bom cũng không kịp. Trong chiến lược của Tổng khởi nghĩa, Nguyễn Thái Học cho rằng, phải kết hợp được lực lượng của Nguyễn Thế Nghiệp cùng với việc đánh chiếm đồn bót ở Yên Bái - vốn là một đồn binh quan trọng có từ lâu, nối liền miền châu thổ sông Hồng với vùng biên giới Hoa Việt thì VNQD Đảng dễ dàng chiếm các khu khác ở hạ lưu sông Hồng. Lệnh hoãn lại được Nguyễn Thái Học ấn định vào ngày 15/2/1930 - chậm năm ngày so với lệnh cũ.

Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên. Sau khi Đội Dương làm phản thì thực dân Pháp đã tỏ ra tích cực hơn trong việc đàn áp, khủng bố lực lượng VNQD Đảng, những vụ bắt bớ, khám xét liên tục xảy ra. Bọn chúng đã bắt được mấy nghìn tờ Hịch khởi nghĩa ở Lục Nam (Bắc Giang). Vì l ẽ đó, việc liên lạc giữa các lãnh tụ VNQD Đảng lại gặp nhiều khó khăn. Liên lạc viên của Nguyễn Thái Học bị bắt dọc đường nên nhiều nơi không nhận được mệnh lệnh tối cao này. Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng như thế này, Quản Cầm là người trực tiếp chỉ huy việc đánh đồn Yên Bái lại mắc chứng đau tim phải về Hà Nội điều trị. Nguyễn Thái Học lập tức điều Thanh Giang lên thay Quản Cầm, dù anh không phải là quân nhân. Do các nơi không kịp thời nhận mệnh lệnh của Nguyễn Thái Học nên việc Tổng khởi nghĩa ở mạn ngược và miền xuôi không diễn ra cùng một lúc.

Vào tờ mờ sáng ngày 9/2/1930, ngày chủ nhật một ngày đầu xuân có mưa phùn lạnh, trong lúc thanh niên nam nữ rộn rịp du xuân, trẩy hội đến chùa thì các đảng viên VNQD Đảng trá hình làm khách buôn gạo, bán rau bí mật đem vũ khí đổ xô về Yên Bái. Chi bộ phụ nữ do Nguyễn Thị Bắc - chị ruột của Nguyễn Thị Giang phụ trách tổ chức vẫn chuyển vũ khí từ Phú Thọ lên Yên Bái bằng đường hỏa xa trong chuyến thật sớm. Còn các đảng viên nam khắp các làng quê ở Phú Thọ phân tán thành từng nhóm, họ mặc áo dài khăn đóng như những công tử du xuân nhưng trong người giấu súng lục, dao găm, lựu đạn… Họ giả là làm khách lễ chùa, nhân ngày hội đến Nga quán, cách Yên Bái độ ba cây số. Nhóm thì xuống ga xe lửa Yên Bái, nhóm thì xuống ga Văn Phú. Tất cả đều bình yên vô sự, không bị khám xét gì cả. Từng nhóm được hướng dẫn di tản vào rừng.

Tại sân ga Yên Bái, chị Nguyễn Thị Giang đã đứng đợi sẵn để đón những đồng chí từ Phú Thọ lên. Trong buổi sớm mai xuân này, chị mặc áo tứ thân nhiễu điều, yếm đào xẻ con nhạn, thắt lưng hoa đào, đeo khuyên bạc, môi ăn trầu cắn chỉ - trông xinh đẹp như cô gái Kinh Bắc du xuân. Có ai ngờ rằng, cô gái xinh đẹp ấy đang giấu trong người khẩu súng sáu và những mệnh lệnh rất quan trọng của Đảng. Chị rỉ tai nói với Thanh Giang:

- Hình như đại sự của chúng ta đã bị tiết lộ chăng? Thiếu tá Le Tacon đã ra lệnh bố trí canh phòng rất nghiêm ngặt!

Thanh Giang nóng lòng hỏi gặng:

- Thế anh Hà Văn Cấp làm bồi cho tên Le Tacon, được lệnh hạ sát tên này khi nghe tiếng súng báo hiệu của Đảng thì sao?s

Chị đáp:

- Anh Cấp bị tình nghi nên tên Le Tacon đã ra lệnh giam lỏng. Chúng ta mất liên lạc với anh đã hai ngày nay rồi.

Thanh Giang nén tiếng thở dài. Sau đó, chị đưa anh vào trong rừng Sơn gặp Bộ tham mưu khởi nghĩa của Yên Bái. Quản Cầm bị đau tim đã về bệnh viện Lanessasn (Hà Nội) để chữa trị thì nay còn Cai Thịnh, Cai Nguyên, Cai Thuyết và Cao Hoàng – là những quân nhân được VNQD Đảng giác ngộ. Cai Nguyên vào đề:

- Tôi muốn nói anh em có muốn hoãn lại lệnh tấn công Yên Bái không? Vì anh Quản Cầm đã vắng mặt.

Cai Hoàng đứng phắt dậy, rút thanh kiếm dài ra và chém phắt vào cây sơn trước mặt, cây sơn đứt làm đôi và anh quát lớn:

- Mệnh lệnh của Đảng đã ban ra, ai muốn cản trở thì hãy xem cây sơn đó!

Không khí trở nên ngột ngạt. Mọi người đều im lặn. Cai Hoàng nói tiếp:

- Hiện tình lúc này, chúng ta chỉ có tiến, chứ không có thoái. Các anh em đồng chí nghĩ như thế phải không?

Mọi người đều đồng thanh đáp:

- Phải!

Bây giờ, Thanh Giang mới lên tiếng. Anh nói:

- Súng đạn của chúng ta hiện trong cơ binh không có dự trữ. Vậy việc đầu tiên để anh em dân sự có súng đầy đủ và để địch không kháng cự lâu dài, tôi đề nghị các đồng chí là ta phải đánh chiếm kho vũ khí để phân phối cho quân dân cách mạng.

Cai Hoàng hăng hái lên tiếng:

- Tôi tình nguyện sẽ giết cho bằng được tên quan ba Jourdai. Nếu không lấy được đầu nó thì tôi sẽ cắt đầu tôi mà giao cho Đảng. Còn anh Cai Thuyết phải lấy được đầu tên quan hai. Theo mệnh lệnh của Đảng thì anh em quân nhân chúng ta, cứ mỗi người có bổn phận dẫn hai anh em dân sự vào phá kho súng. Sau đó, kéo quân đến ngay khu hạ sĩ quan Pháp và bọn da đen để trợ lực cho các đồng chí ở đấy mà giết cho bằng hết bọn chúng. Đánh chiếm xong Trại Dưới thì đồng loạt kéo quân đánh chiếm đồn cao. Rõ chưa?

Tất cả đồng loạt đáp:

- Rõ!

Thanh Giang được chị Nguyễn Thị Giang lật cho xem tấm bản đồ quân sự. Trại Dưới nằm về phía dưới ngọn đồi trong thành phố và nằm trên ngọn đồi xa thành phố là Đồn Cao do thiếu tá Le Tacon chỉ huy. Xem xong địa hình của hai đồn này, Thanh Giang trịnh trọng rút trong túi áo mình tờ giấy lớn:

- Đây là 7 điều Quân luật của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học soạn thảo và tôi là người chịu sự phân công của Đảng để tuyên bố Quân Luật này.

Thanh Giang đứng dậy, trang nghiêm như một quân nhân đứng trước ba quân, anh trịnh trọng đọc:

- Quân Lệnh gồm có 7 điều như sau. Nếu một quân nhân, dân sự và đảng viên nào vi phạm như: - Gặp giặc mà lùi - Cướp của dân - Hãm hiếp phụ nữ - Ngầm ý giúp giặc – Liên lạc với giặc - Tiết lộ bí mật của Đảng - Bất tuân lệnh chỉ huy thì đều bị xử tội chém đầu! Các anh em đồng chí nào có ý kiến gì nữa không?

Mọi người im lặng. Anh nói tiếp:

- Vậy giải tán. Tất cả chuẩn bị chờ giờ khởi sự sắp đến.

Những bước chân rào rào trên lá cây rồi biến dần vào bóng chiều nhập nhoạng. Chiều tối xuống dần. Gió thổi u  u như ma quái gọi hồn. Sương chiều rừng xuống lạnh trên vai những người yêu nước.

Trong khi đó, quang cảnh của Yên Bái vẫn yên tĩnh lạ thường. Đường phố vẫn đông người qua lại trong không khí ngày xuân. Xa xa vọng lại những tiếng pháo đì đùng. Đêm đó, tại trại dưới, vào lúc hai mươi giờ đêm, đại úy Gainza vừa đi phố về thì gặp ngay Đội Vinh. Vinh ton hót với cấp chỉ huy:

- Xin đại úy đừng ăn cơm!

Hắn quắt mắt hỏi lại:

- Tại sao?

- Thưa ngài, có thuốc độc.

Gainza rùng mình:

- Mày vui xuân của mày nên mày say mèm rồi nói bậy phải không?

- Tôi không say.

Quả thật, trong cơm của binh lính Pháp đã bị đầu độc. Tuy thế, bọn thực dân vẫn không nghĩ là VNQD Đảng đã thực hiện âm mưu này. Đại úy Gainza liền dẫn Đội Vinh lên Đồn Cao gặp thiếu tá Le Tacon. Đội Vinh khai:

- Thưa ngài, chính tôi trông thấy nhiều người đã tụ họp ở rừng Sơn, mỗi người lính chúng ta đều nhận được chỉ thị của bọn phản loạn.

Le Tacon mặc dù đã giam lỏng anh Hà Văn Cấp – nhưng vì anh làm trái ý tên này, chứ không phải vì hắn nghi ngờ anh có chân trong VNQD Đảng như chị Giang đã báo cáo với Thanh Giang, hắn không tin sẽ có một cuộc nổi loạn nào ở Yên Bái.

- Mày nói láo. Có chính mắt mày trông thấy bọn chúng tụ tập ở rừng Sơn không?

- Thưa đúng.

Nhìn thái độ khúm núm của thuộc hạ, Le Tacon cười lớn:

- Tao biết ý của mày rồi. Mày muốn tâng công phải không? Sự việc Đội Tài đã báo cáo với tao rồi. Chẳng qua chúng mày muốn quan trọng hóa vấn đề đấy thôi.

Dù nói vậy, nhưng thiếu tá Le Tacon cùng đại úy Gainza và Đội Vinh cũng xuống chân đồi tới rừng Sơn để xem xét tình hình. Chẳng thấy gì hết. Le Tacon tức giận vung tay tát mạnh vào mặt đội Vinh:

- Mày chỉ giỏi nói liều. Cút ngay!

Lấy tay ôm mặt, đội Vinh cảm thấy hoảng sợ cho một cuộc nổi loạn sắp đến. Đêm đó, hắn đã bỏ đồn để đi theo quân cách mạng. Hắn đã hình dung thấy đêm nay, những thằng thực dân độc ác trong đồn sẽ bị quân cách mạng giết hết, cờ cách mạng sẽ được kéo lên nóc thành thay cho lá cờ Tam Tài.

Một giờ sáng, rạng ngày 10-2-1930, cả Yên Bái đang chìm trong giấc ngủ. Từ trong đêm tối có một đội quân âm thầm tiến về đồn lính. Một tiếng bom nổ vang dậy cả khu vực quân sự phá tan bầu không khí yên tĩnh đầy sương mù dầy đặc.

Tiếng súng lệnh của cuộc khởi nghĩa đã nổ.

Tiếng hô như sấm sét của các chiến sĩ cách mạng đồng loạt vang lên.

- Giết! Giết hết bọn giặc Pháp!

Cai Hoằng – đeo số quân 3.351 của quân đội Pháp cấp cho ông – đã dẫn binh đội thứ 5, thứ 6 tràn vào chiếm trại. Họ ùa vào phá tung kho vũ khí để phân phát cho quân dân cách mạng. Một số sĩ quan, hạ sĩ quan da trắng, lính Pháp, lính Lê Dương bị giết mà không trở tay kịp. Một ánh đèn pin lóe sáng, tên quan Tây đang tung chăn ngồi dậy, hoảng hốt. Lập tức, chiến sĩ cách mạng lao tới đâm dao vào ngực hắn. Hắn rú lên như con thú bị thương.

Tiếng reo hò vẫn vang dội lẫn trong tiếng súng. Tên quan hai Robert nằm chết bên xác vợ mà mắt chưa kịp nhắm. Người vợ hắn còn lõa lồ sau một đêm ái ân. Những chiến sĩ cách mạng đã lấy chăn đắp cho vợ hắn. Tên quan ba Jourdan vùng dậy vội vàng chạy ra cột cờ tìm cách tập họp binh lính dưới quyền để phản công, hắn đã bị bắn bể sọ. Tên đại úy Gainza, quan hai Reul, trung úy Robert, thượng sĩ Cunéo, trung sĩ Chevalier, Damour, Bouhier… đều bị giết chết bằng súng hoặc bị cắt cổ. Riêng tên Bouhier bị chết bởi mười bốn nhát mã tấu.

Trong lúc lộn xộn, viên thiếu tá Le Tacon lại may mắn thoát khỏi. Hắn tìm cách tập hợp số binh sĩ ở đồ Cao để lo cầm cự chống trả lại bão táp của quân cách mạng. Tại đây, sĩ quan và binh lính đội binh thứ 8 chưa được giác ngộ nên vẫn còn trung thành với chính phủ thuộc địa. Binh lính này đang ở những vị trí quan trọng để bảo vệ cơ dinh, nhà ở của thiếu tá Le Tacon đã bắn trả lại quyết liệt.

Sau khi chiếm xong trại dưới, lực lượng quân cách mạng bắt đầu tấn công lên đồi Cao. Trong thời gian này, Thanh Giang và Nguyễn Thị Giang đã cho báo cáo về Tổng bộ chiến tranh: Quân cách mạng đã hoàn toàn làm chủ Trại Dưới vào lúc bốn giờ sáng. Nhận được tin, Nguyễn Thái Học và các lãnh tụ VNQD Đảng đã mừng chảy nước mắt. Để chặn lại những đợt chi viện quân từ Hà Nội của thực dân sẽ kéo lên, các chiến sĩ cách mạng đã cho cắt đường dây thép, dây điện thoại. Chỉ giữ lại đường Yên Bái – Lao Cao. Lá cờ hai màu vàng, đỏ của VNQD Đảng được kéo lên phất phới bay trong trại lính và ngoài thành phố Yên Bái.

Một cuộc họp khẩn cấp đã được Cai Hoằng, Thanh Giang, Nguyễn Thị Giang triệu tập ngay tại văn phòng của viên chỉ huy Jourdain để bàn kế hoạch tấn công đồi Cao. Chị Nguyễn Thị Giang phát biểu:

- Theo ý kiến của tôi, đề nghị anh Cai Hoằng ra lệnh tấn công ngay đồi Cao. Cho dù, hiện nay đồi Cao đã được tên Le Tacon chuẩn bị đề phòng rồi. Nhưng không còn cách nào khác, phải tấn công trước lúc trời sáng, nếu không thì sẽ bất lợi cho chúng ta.

Cai Hoằng cau mặt suy nghĩ một hồi, ông đáp:

- Chí phải. Phải tấn công trước lúc chúng phản công lại. Tôi thay mặt Đảng hạ lệnh phải tấn công vào lúc trước trời sáng!

Quân đội cách mạng theo lệnh đó, bắt đầu tiến lên đánh đồi Cao. Những chiếc phi cơ của thực dân đã kịp thời đến tiếp viện, nó lượn bay từng vòng trên bầu trời Yên Bái rồi xả súng bắn xuống đầu quân cách mạng như lửa bão.

Thiếu tá Le Tacon hoảng sợ lắm, lúc này hắn ra lệnh cho binh đội thứ 8 xuống chiếm lại trại Dưới, nhưng đều bị quân khởi nghĩa chống trả mãnh liệt nên phải rút về đồi Cao. Còn đội binh thứ 7 trong lúc biến động còn lúng túng, nhưng sau đó, các quan chỉ huy đã tập họp lại được những binh sĩ dưới quyền và trang bị lại vũ khí như đội binh thứ 9. Như vậy, vào lúc trời sáng hẳn thì toàn binh đội thứ 7 và thứ 8 đều được thực dân tập họp được. Thiếu tá Tacon tổ chức lại đội ngũ, chia làm ba nhóm: Một nhóm do quan Ba Roccas chỉ huy, nhóm thứ hai do quan Một Varenne điều khiển, còn nhóm thứ ba do viên đội Olivier phụ trách và tất cả đều đồng loạt mở các cuộc phản công tái chiếm tại Dưới.

Trên đầu thì phi cơ của thực dân  xả đạn như vãi thóc đã làm đội ngũ quân cách mạng hỗn loạn. Bên cạnh đó, những đợt phản công từ đồi Cao tràn xuống…

Quân cách mạng không giữ được vị trí của mình. Họ bỏ chạy tán loạn. Những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa này đã xảy ra sự tranh luận gay gắt, có người đề nghị vẫn cố thủ để chờ viện binh của Nguyễn Thế Nghiệp từ Vân Nam kéo về, có người lại đề nghị tạm thời rút vào rừng để giữ an toàn cho lực lượng. Trước cảnh rối loạn đó, Cai Hoằng đành thúc thủ, không còn cách nào khôi phục lại trật tự nên hạ lệnh tạm thời rút vào rừng.

Đến 9 giờ sáng ngày hôm đó thì Công sứ tỉnh Yên Bái đã điện về Hà Nội cho biết là đã dẹp xong cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Những toán tính tuần tiễu kiểm soát các đường phố và ngoại thành phố. Trưa hôm đó, lo sợ quân cách mạng sẽ tổ chức phản công, một chuyến xe lửa đặc biệt đã chở nhiều lính Pháp lên tăng cường cho Yên Bái. Đồng thời thực dân cũng cho thiết lập một đồn ở Gia Lâm để kiểm soát việc đi lại qua cầu Doumer (còn gọi là cầu Long Biên). Phi cơ được lệnh khẩn cấp liên tục bay quần trên vòm trời Hà Nội – Yên Bái.

Tính ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã kéo qua một đêm, sau này các sử gia Pháp đã nhận định trong quyển Le nuit rouge de Yen Bay như sau: “Cuộc khởi loạn ở Yên Bái là sụ kiện độc nhất trong nhà binh sứ An Nam”. Một số chiến sĩ cách mạng bị địch bắt thì ngay chiều hôm đó, chúng đã trả thù bằng cách xử bắn ngay tại chỗ mà không đưa ra tòa xét xử. Ngoài việc tháo cờ VNQD Đảng xuống, thực dân Pháp đã kinh ngạc khi tìm thấy tờ Hịch khởi nghĩa ký tên Nguyễn Thái Học và những câu khẩu hiệu viết bằng máu:

Đuổi giặc Pháp về nước Pháp

Đem nước Nam trả người Nam

Cho trăm họ khỏi lầm than

Được thêm phần hạnh phúc


7

Vào sinh ra tử biết bao phen

Đêm máu lửa tấn công đồn Yên Bái đã châm ngòi cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Hàng loạt cuộc tấn công khác đồng loạt nổ ra ở nhiều cứ điểm quân sự khác nhau. Vào một giờ đêm 10/2/1930 lãnh tụ Nguyễn Khắc Nhu cũng bắt đầu ra lệnh khởi nghĩa. Anh chia các chiến sĩ ra làm hai toán: Một toán đặt dưới sự chỉ huy của Phạm Nhuận (tức đồ Điếc) có nhiệm vụ đánh phủ lỵ Lâm Thao và một toán dưới sự chỉ huy của anh sẽ đi hạ đồn Hưng Hóa.

Vì do một sự nhầm lẫn nào đó, nên một nửa số quân kéo về Hưng Hóa không đến điểm tập trung. Số lượng đánh đồn chỉ khoảng một trăm người. Họ mặc quần áo kaki vàng, người thì quần áo kaki trắng, người thì quần áo nâu và trên tay đều đeo băng tay màu vàng có viết: “Việt Nam cách mạng quân”. Đồn lính khố xanh Hưng Hóa trước đây vốn có một số binh lính được giác ngộ và họ sẽ là người làm nội ứng cho quân khởi nghĩa. Nhưng do sự đề phòng của thực dân nên số quân này đã bị đổi đi nơi khác. Khi kéo quân đến, Nguyễn Khắc Nhu ra mật hiệu nhưng không thấy động tĩnh nào cả. Lúc bấy giờ vào ba giờ sáng, thấy đã có hiệu lửa nổi dậy của quân Phạm Nhuận ở Lâm Thao, Nguyễn Khắc Nhu liền ra lệnh tấn công vào đồn, mặc dù số quân còn thiếu nhiều. Một số bom do VNQD Đảng sản xuất được làm bằng vỏ xi măng, chỉ có một số ít bằng vỏ gang, thuốc nổ lại không tốt nên không đủ sức phá hoại cũng như gây thiệt hại cho quân giặc. Tiếp theo đó, đồ Thúy là chỉ huy phó của đội quân này đã đọc bài Hịch kêu gọi binh lính ủng hộ cách mạng. Nguyễn Khắc Nhu cũng nhảy lên bờ tường kêu gọi sang sảng binh lính hãy quay súng bắn vào giặc và trở về hàng ngũ cách mạng để phụng sự Tổ quốc.

Trả lại cho lời kêu gọi ấy là hàng loạt đạn bắn ra từ trong đồn.

Nguyễn Khắc Nhu hạ lệnh xung phong nhưng vẫn không vào đồn được. Cuộc tấn công diễn ra trong vòng bốn mươi phút. Thương vong của nghĩa quân mỗi lúc một tăng lên, Nguyễn Khắc Nhu đành hô rút quân để sang sông nhập với cánh quân của Phạm Nhuận đã làm chủ được Lâm Thao.

Tại đây, tên tri phủ Đỗ Kim Ngọc đã chạy thoát được, còn lính lệ thì rút lên lô cốt phòng thủ. Quần chúng địa phương nổi lên như sấm động: “Hoan hô VNQD Đảng” và nhập vào dòng thác của nghĩa quân đi đánh phá khắp nơi. Nguyễn Khắc Nhu ra lệnh tịch thu toàn bộ súng đạn, thiêu hủy toàn bộ công văn và cho treo cờ VNQD Đảng lên nóc phủ đường.

Phủ lỵ Lâm Thao hoàn toàn thuộc về quân khởi nghĩa. Nguyễn Khắc Nhu kêu gọi dân chúng lại để nghe anh diễn thuyết, hô hoàn toàn dân đoàn kết chống thực dân để hoàn thành sứ mạng cứu quốc.

Tuy mới có được thắng lợi này và được dân chúng nhiệt liệt hưởng ứng, ủng hộ, nhưng Nguyễn Khắc Nhu đã nhìn thấy địa thế của Lâm Thao trống trải, không có lợi cho quân cách mạng khi có cuộc phản công của địch. Anh có ý định cho rút quân ra ngoài, nhưng Phạm Nhuận cứ muốn ở lại rồi tính sau. Ý kiến chưa thống nhất thì khoảng mười giờ sáng, phó công sứ Chauvet đã đem quân đến Lâm Thao.

Hai bên nổ súng quyết chiến dữ dội. Tên Chauvet bị một nghĩa quân trước đây từng đi lính khố đỏ bắn trúng vành tai, suýt chết. Cuộc chiến đấu đã diễn ra không cân sức, chẳng bao lâu uy vũ của quân địch càng lúc càng áp đảo nghĩa quân. Nguyễn Khắc Nhu bị thương ở đùi, không chạy được. Các đồng chí dìu anh đi, nhưng anh không đồng ý vì sợ làm chậm trễ cuộc rút quân. Anh đặt hai quả bom xuống đất, rút chốt an toàn, và nằm yên trên bom để tự sát. Uy lực của bom quá yếu nên anh không chết, chỉ bị thủng ngực và bụng. Bọn giặc đã ùa đến bắt trói anh và giải về nhà lao Hưng Hóa.

Trên đường đi anh đã lợi dụng đi sát bờ sông để nhảy xuống sông Hồng tự tử lần hai, nhưng chúng nó lại với anh lên. Tại nhà giam mặc dù bị tra tấn tàn nhẫn nhưng anh vẫn liên tục chửi mắng quân cướp nước. Tên cẩm chính trị Riner gọi anh là quân cướp của giết người. Anh trợn mắt thét:

- Đồ khốn nạn! Giữa chúng ta và chúng mày thì chúng mày mới là quân giết người.

Tên phó công sứ Chauvet khôn khéo hơn, hắn mở giọng mật ngọt nhằm mua chuộc anh và hỏi khéo:

- Tại sao anh làm loạn?

Anh khẳng khái đáp:

- Tại sao gọi là làm loạn. Tôi là người Việt Nam, tôi có bổn phận phải bảo vệ đất nước để giành độc lập. Vậy hợp với lẽ phải và nhân đạo.

Câu trả lời không chút do dự và đanh thép của anh khiến hắn không nói được câu nào nữa. Hắn tống anh vào ngục. Nửa đêm về sáng ngày 11-2-1930, nghĩ mình trước sau rồi cũng bị giặc Pháp chém đầu, nên tuy chân tay bị trói nhưng anh vẫn dồn tàn lực đập đầu vào sàn xà lim tìm cái chết mà bảo toàn danh tiết.

Theo kế hoạch chung, sau khi đánh Hưng Hóa, Lâm Thao, quân cách mạng tiếp tục đánh chiếm Phú Thọ, nhưng trong ngày đó một toán lính lê dương lên chiếm đóng Hưng Hóa, tái lập lại trật tự, nên quân cách mạng không làm gì được. Trong lúc này, Phó Đức Chính tổ chức đánh Sơn Tây. Sáng ngày 13-10-1930 anh cùng với Thanh Giang đang hội họp tại nhà Quản Trang thì bị mật báo, thực dân Pháp tại Sơn Tây đã bắt anh giải về Hà Nội.

Còn tình hình tại Hà Nội thì vào đêm khởi nghĩa Yên Bái, Lương Ngọc Tốn trong ban ám sát Đảng vội vàng từ Bắc Ninh sang Hà Nội tìm Ký Con để hỏi thăm tin tức. Sau đó, anh về lại Bắc Ninh để cấp báo với Nguyễn Thái Học. Từ Hà Nội, Lương Ngọc Tốn thuê chiếc xe hơi du lịch để kịp thời về Bắc Ninh. Xe chạy rất nhanh đến cầu Long Biên, lúc ấy là 12 giờ 15 phút, viên cảnh sát đứng trên cầu ra hiệu chận xe lại để khám xét. Không một phút chần chừ, Lương Ngọc Tốn rút ngay súng lục bắn trúng cánh tay và đùi tên cảnh sát. Tiếng còi báo động vang lên, cảnh sát trên cầu rượt đuổi theo anh, anh bỏ xe cắm đầu chạy theo mé sông Hồng. Được lệnh báo khẩn cấp, tên giám đốc chính trị là Lacombe đích thân đem một đội lính khố xanh đi truy nã. Lương Ngọc Tốn chạy đến bến đò Thanh Trì và khi qua được sông Nhĩ thì bị bắt. Ngay vào đêm Lương Ngọc bị bắt thì Ký Con phân công đoàn cảm tử ám sát đem bom ném vào Sở mật thám, ngục thất Hỏa Lò, Sen Đầm, hai đồn cảnh sát ở Hàng Trống. Hành động quả cảm này không gây cho thực dân thiệt hại gì đáng kể.

Trong tình hình sôi sục này, Nguyễn Thái Học chỉ huy đánh các tỉnh miền xuôi. Trọng tâm của nó là Hải Phòng - một cảng lớn của xứ Bắc, nhưng để đánh chiếm nơi này, quân cách mạng phải dồn lực lượng các nơi khác đến. Trên bản đồ của cuộc Tổng khởi nghĩa, ngoài Hải Phòng còn có Phụ Dực, Vĩnh Bảo, Ninh Giang, Hải Dương, Phả Lại, Kiến An. Quân cách mạng đánh chiếm xong Phụ Dực, Vĩnh Bảo rồi kéo xuống chiếm đồn Ninh Giang. Quân ở vùng Hải Dương đánh xong tỉnh lỵ thì tràn qua Phả Lại. Sau khi thành công ở các điểm này, nghĩa quân tập trung lại với nghĩa quân Kiến An đánh Kiến An rồi xuống Hải Phòng. Nhưng rất tiếc cuộc khởi nghĩa ở các tỉnh miền xuôi đã lùi lại một tuần do không bắt được liên lạc.

Ngày 11-2-1930, đích thân công sứ Hải Dương đến khám xét làng Mỹ Xá, phủ Nam Sách vì nghe mật báo có Nguyễn Thái Học tại đó. Không bắt được anh, nhưng thực dân cũng khám phá được kho vũ khí và bắt những đồng chí tin cậy của anh. Qua ngày 12-2-1930, Nguyễn Thái Học lại lên kế hoạch tấn công Phả Lại, anh chưa kịp thực hiện mưu đồ thì công sứ và giám binh Hải Dương đem lính khố xanh đến vây làng Hưng Thăng. Anh được dân làng bảo vệ, đưa lội qua ao bèo dày đặc, ẩn trong bụi rậm, sau cùng mới lên thuyền trốn thoát được ra ngoài. Chỉ một chút xíu nữa là Nguyễn Thái Học đã bị bắt sống. Cũng trong ngày này, công sứ và giám binh kéo lính về đốt cháy cả làng Trụ Thôn cùng vùng chợ Kênh Vàng, vì nghe tin quân cách mạng các nơi kéo về tập họp để chờ lệnh của Nguyễn Thái Học.

Sự bủa vây khốc liệt của thực dân đã làm cho mọi kế hoạch bị đảo lộn. Căn cứ Kiến An, Phả Lại là hai vị trí quân sự được xem là quan trọng vào bậc nhất ở miền xuôi không thực hiện nổi nội công ngoại kích vì quân Pháp đề phòng quá cẩn mật. Lúc này, Tổng bộ chiến tranh của VNQD Đảng chọn hai huyện Phủ Dực và Vĩnh Bảo để tấn công. Ngày 15-2-1930, quân cách mạng đánh úp huyện lỵ Phủ Dực (Thái Bình). Tri huyện Trương Trọng Hiền trốn thoát, con gái của y đã đem hết vàng bạc châu báu ra dâng cho quân cách mạng, nhưng tất cả đều được trả lại và cô ta cũng không bị giết vì xét ra vô tội. Quân cách mạng bắc loa kêu gọi dân chúng tập họp tại huyện đường để nghe kể tội thực dân, phong kiến và kêu gọi họ ủng hộ quân cách mạng. Đến năm giờ sáng hôm sau, nghĩa quân tiêu hủy hết hồ sơ công văn, tịch thu toàn bộ súng ống của địch để lại sau khi rút chạy. Cũng ngay trong ngày này, tại làng Cổ Am, đảng viên Trần Quang Riệu bàn luận với quân khởi nghĩa:

- Nếu lúc này chúng ta kéo quân đến đánh chiếm huyện Vĩnh Bảo thì tên tri huyện Hoàng Gia Mô sẽ thừa cơ lộn xộn mà trốn mất. Vậy thiết tưởng nên dùng kế điệu hổ ly sơn. Nhân tôi có quen với y, vậy tôi xin lãnh trách nhiệm đến báo cho y biết là có tin quân cách mạng sẽ nổi lên đánh chiếm huyện lỵ. Nghe tin động trời như thế tất y sẽ đi báo với đồn Ninh Giang. Thừa khi ấy ta đánh chiếm huyện lỵ và phái một số đồng chí ra đón đường giết y. Các đồng chí nghĩ sao?

Ý kiến đó nêu ra được mọi người đồng thanh đáp:

- Chí phải! Thực hiện ngay thôi!

Đúng như dự kiến của Trần Quang Riệu, tên tri huyện Hoàng Gia Mô hốt hoảng sai tài xế đánh xe hơi lên đồn binh khố xanh Ninh Giang báo cáo xin quân tiếp viện. Y vừa đi khỏi thì nghĩa quân đến chiếm huyện lỵ mà không gặp một kháng cự nào.

Lúc tri huyện quay về, xe chạy qua cầu thì nghĩa quân đã cho giật mìn sụp cầu. Ô tô hỏng máy nằm quỵ bên đường. Biết có biến động, y liền trốn chạy. Các nghĩa quân lùng sục khắp nơi thì phát hiện y đang núp trong ổ rơm và đã bắn một phát súng trúng vào đùi y. Y liền bị trói lại giải về huyện đường để xét xử. Trần Quang Riệu tuyên bố:

- Kính thưa quốc dân đồng bào, chúng tôi là những đảng viên VNQD Đảng đến đây với mục đích đánh đuổi thực dân Pháp và những ai cam tâm cúi đầu theo giặc làm hại đồng bào.

Quần chúng reo hò ầm ĩ. Từ lâu nay, họ vốn căm hờn vì ruộng đất đã bị tên tri huyện đến chiếm đoạt. Trần Quang Riệu đề nghị đồng bào giữ yên trật tự, anh nói tiếp:

- Tên tri huyện Hoàng Gia Mô đã hà hiếp bóc lột tàn nhẫn người dân vô tội, chắc đồng bào còn nhớ y đã mưu mô với thực dân chiếm sáu ngày mẫu ruộng của đồng bào ở bãi Dương Am để làm sở hữu. Bản thân y đã có tội với quốc dân đồng bào.

Tất cả mọi người có mặt đều yêu cầu xử tử Hoàng Gia Mô. Lúc đó, vợ của y đã đem hết vàng bạc ra dâng cho quân cách mạng để xin tội chết cho chồng. Thị tưởng nghĩa quân tham tiền nên mới làm thế, nhưng đã bị khước từ. Tòa án cách mạng đã tuyên bố. Một phát súng bắn ngay vào sọ Hoàng Gia Mô và ném xác xuống dòng sông Cầu Mục.

Tối hôm đó, dân làng đã làm cỗ, thổi cơm đến đãi quân cách mạng. Trong lúc đang ăn và tập trung lực lượng đi đánh đồn Ninh Giang thì máy bay của giặc bay đến. Máy bay thấp quá! Mọi người đều hoảng sợ. Quân cách mạng chĩa súng bắn lên trời nhưng không trúng.

Một lúc sau chúng kéo đến cả chục chiếc máy bay, cũng bay thật thấp và bắt đầu dội bom. Ngoài ra viên thanh tra Rigal cũng chỉ huy một đội quân bản xứ đến giải thoát Vĩnh Bảo. Trần Quang Riệu cùng một số đồng chí của mình trốn thoát được. Thực dân Pháp ra lệnh truy nã anh đồng thời qu cho khai quật phần mộ của bố anh vừa mới tạ thế hơn một năm, đem phơi nắng mưa trước đồn lính khố xanh Ninh Giang. Hành động tàn bạo của giặc Pháp và Việt gian chỉ gây thêm lòng căm thù trong quần chúng.

Mãi đến 9 giờ sáng ngày 10-2-1930 khi quân khởi nghĩa rút lui vào rừng thì công sứ Yên Bái mới đánh điện báo cáo tình hình về Hà Nội. Lập tức nguyên soái Aubert hội kính với Toàn quyền Pasquier tìm cách đối phó. Ngày 12-10-1930 Pasquier đáp chuyến xe lửa đặc biệt từ Hà Nội lên Yên Bái để trấn an binh sĩ và dự lễ tống táng những sĩ quan bị giết chết trong đêm VNQD Đảng khởi nghĩa. Trước khi chuyến xe lửa này đến ga Yên Bái thì Nguyễn Thái Học hạ lệnh cho đồng chí của mình ném hai trái bom tiêu hủy nhà ga. Sức công phá của bom không mạnh nên không gây thiệt hại nào đáng kể. Dù vậy, Pasquier cũng một phen khiếp đảm. Trước linh cữu của các nạn nhân, hắn tuyên bố:

- Những đứa khốn nạn muốn sanh sự làm loạn để ngăn trở việc khai hóa của nước Pháp, nhưng chúng đã vấp phải thế lực vững vàng, cứng rắn, hùng mạnh không gì lay chuyển nổi của nước đại Pháp. Đứng trước linh cữu của các quân nhân hy sinh vì việc nước (?), tôi tuyên bố rằng nhà nước sẽ trừng trị đích đáng bọn bạo loạn để trả thù cho binh sĩ, sĩ quan chúng ta đã bị sát hại một cách dã man. Mai này Hội đồng đề hình sẽ tuyên bố án xứng đáng với tội ác tày trời này!

Những tiếng vỗ tay lẹt đẹt đã đáp lại lời tuyên bố hùng hồn của Pasquier. Ngay sau đó, hắn vội vàng chuồn về Hà Nội và đến ngày 14-2-1930, hắn đã ký nghị định thành lập Hội đồng đề hình, đề cử Poulet Osier – thanh tra chính trị hành chính Bắc Kỳ làm chánh Hội đồng. Bên cạnh có Tổng đốc tỉnh Thái Bình là Vi Văn Định cũng được lệnh đem binh mã đi tiễu trừ quân khởi nghĩa cùng với giám binh Monguez.

Cảnh đàn áp bắt bớ các đảng viên VNQD Đảng lan tràn khắp nơi rất dữ dội. Binh lính ngày đêm tuần tiễu vùng Ninh Giang, Vĩnh Bảo, Phụ Dực… Làng Thổ Tang, quê hương của Nguyễn Thái Học, vùng Bắc Giang – quê hương của Nguyễn Khắc Nhu, Nguyễn Thị Giang cũng bị canh giữ nghiêm ngặt. Máy bay thường xuyên bay lượn tuần tra các vùng Yên Bái, Phú Thọ, Hải Dương, Kiến An, Thái Bình…

Lúc này VNQD Đảng chủ trương rút quân về ẩn náu tại làng Cổ Am (Hải Dương).

Chính quyền thực dân truy quét tận gốc bằng cách cho ném bom hủy diệt sự sống của cả làng này. Trưa ngày 16-2-1930, một phi đội gồm năm máy bay điên cuồng ném xuống Cổ Am 700kg bom. Cả làng bị dìm trong biển máu.

Vài giờ sau, thống sứ Robin chính thức gửi công điện cho công sứ các tỉnh Bắc Kỳ với nội dung như sau: “Làng Cổ Am, tỉnh Hải Dương là nơi trú ẩn của quân phiến loạn đã đánh phá, giết hại nhiều binh sĩ, sĩ quan mẫu quốc và đã xử án tử hình tri huyện Vĩnh Bảo nên nhà nước đã phái phi cơ liệng bom xuống làng Cổ Am. Các ngài phải thông báo việc ấy cho sâu rộng để dân xã đều hay. Nếu làng nào còn chứa chấp quân phiến loạn này thì cũng bị ném bom, chứ nhà nước không tha thứ”. Với tinh thần của bức công điện này, ngoài làng Cổ Am thì nhiều làng khác như Võng La, Xuân Lủng, Sơn Dương, Kha Lâm… cũng bị thực dân triệt hạ. Nhà cửa hầu hết bị cháy rụi. Nhiều người bị thương và chết vì “họ phạm tội đã ủng hộ, dung túng và che chở” cho quân khởi nghĩa. Đây là cuộc tàn sát đầu tiên và tàn khốc bằng máy bay của quân đội thực dân Pháp ở Đông Dương.

Tàn quân VNQD Đảng đã chạy trốn vào rừng. Họ tìm đường sang Tàu theo ngã đường Lào Cai, Lạng Sơn. Báo chí Hà Nội không dám phê phán những vụ ném bom khủng khiếp này, chỉ đưa tin, không bình luận. Trong nhân dân đã truyền tụng bài thơ mà họ cho rằng đây là Sấm của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Kìa kìa gió thổi lá rung cây

Rung Bắc rung Nam rung tới Tây

Tan tác kiến kiều an đất nước

Xác xơ cổ thụ sạch am cây

Lâm giang nổi gió mù thao cát

Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy

Một ngựa một yên ai sùng bái

Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay.

Theo các cụ đồ nho giảng giải thì trong bài Sấm này, cụ Trạng Trình đã chỉ rõ cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng tại Kiến An, Lâm Thao, Hưng Hóa, Yên Bái và cuộc dội bom xuống làng Cổ Am. Hai chữ Vĩnh Bảo là nói về Hoàng Gia Mô –cháu nội Hoàng Cao Khải – làm tri huyện ở Vĩnh Bảo (Hải Dương) đã bị VNQD Đảng giết chết. Ở Sài Gòn, tờ báo đầu tiên dám đăng bài báo này là tờ Phụ Nữ Tân Văn của bà Nguyễn Đức Nhuận, mà chủ bút là Phan Khôi.


8

Nguyễn Thái Học bị bắt

Những ngày gian khó đang rình rập bủa vây Nguyễn Thái Học. Hàng loạt yếu nhân của Đảng đã bị bắt hoặc bị giết chết, nhưng chưa bắt được anh thì nhà cầm quyền vẫn ăn không ngon, ngủ không yên. Chúng biết rằng, Nguyễn Thái Học là linh hồn của Đảng, anh có thể gây dựng lại hoạt động của Đảng, biết đâu sẽ xảy ra một vụ bạo loạn như Yên Bái nữa thì sao? Lệnh truy nã anh được dán khắp phố phường Hà Nội và các tỉnh Bắc Kỳ.

Chiều nay, đóng vai một người đàn bà quê mùa lam lũ, chị Nguyễn Thị Giang đã đi liên lạc với các cơ sở Đảng để truyền lệnh của Nguyễn Thái Học. Gió thổi lạnh buốt. Nnhững vòm cây xào xạc trong gió chiều. Lá rụng vàng hè phố. Chị vẫn lầm lũi bước đi. Qua đường Paul Bert chị đã giật nảy người khi thấy có những tờ giấy dán ảnh của Nguyễn Thái Học với những lời lẽ thô lỗ, gọi anh là tướng cướp và ai bắt được anh đem giao cho nhà chức trách thì được thưởng 5.000 đồng! Bất giác chị thở dài. Một hài nhi mang dòng máu của anh đang cựa quậy. Một bào thai bé nhỏ mà chị đang cưu mang. Chắc chắn rằng nó sẽ giống gương mặt nghiêm nghị của anh. Và nụ cười giống như chị. Sẽ đặt nó tên gì? Điều đau đớn không nguôi của chị là khi đứa bé chào đời mà nước nhà vẫn chưa giành được độc lập và biết đâu bố nó lại rơi vào cảnh tù đày. Chị không dám nghĩ đến nữa. Hai dòng nước mắt lặng lẽ rơi trên má nóng hổi. Chị nôn nóng muốn tìm gặp được anh.

Sau khi đi vòng vèo qua nhiều ngã đường và cảnh giác xem chừng có bước chân theo dõi của bọn chó săn hay không, chị đã vào nhà của Lê Hữu Cảnh. Anh Học đang trú ẩn nơi đó. Trước đây, khi Cảnh không đồng ý với lệnh Tổng khởi nghĩa thì anh đã ra lệnh cho ban ám sát khai tử để giữ bí mật. Lệnh này đã không được thi hành. Bây giờ mối bất hòa trước đã được thu xếp ổn thỏa. Khi vừa đặt chân vào nhà, chị đã bước đến ngồi cạnh anh và âu yếm nói:

- Anh Học à? Lệnh truy nã anh dán khắp phố, em lo sợ cho tính mệnh của anh quá!

Nghe người vợ sắp cưới của mình lo âu như thế, anh bật cười:

- Đó là phận sự mà chúng nó phải làm. Còn chúng ta thì cứ sống và hoạt động cho lý tưởng của chúng ta.

- Vâng, em đồng ý với anh như thế. Nhưng trong lúc này em có ý kiến như thế này…

- Em cứ nói!

Chị Giang nói nhỏ nhẹ với anh:

- Theo ý riêng của em thì anh nên tạm thời xuất ngoại một thời gian, tạm lánh sự không may có thể xảy ra cho anh. Khi ra nước ngoài, anh sẽ làm những việc ngoại giao có lợi ích cho Đảng, hơn là ở trong nước, biết đâu có lúc sa cơ vào tay của bọn mật thám? Phải đợi một thời gian để củng cố lại Đảng thì mới có thể mưu đại sự. Anh nghĩ sao?

- Đãi hà chi thanh, nhân thọ kỷ hà?

Đây là một câu thành ngữ mà đã có lần anh tâm sự với các đồng chí của mình khi phát động tổng khởi nghĩa: Đợi cho sông Hoàng Hà trong trở lại (thì đợi làm sao được), đời người thọ được bao? Theo truyền thuyết của người Trung Hoa thì sông Hoàng Hà ba trăm năm mới trong một lần. Nghe anh nói vậy, chị chỉ thở dài… Nhìn nét mặt âu sầu của chị, anh an ủi:

- Việc làm của chúng ta có trời đất chứng giám, chúng ta sẽ thành công, em hãy tin vào lời anh. Anh chỉ tiếc rằng, không được gần em và em cũng không gần gũi với anh trong lúc nguy khốn này. Đừng buồn em ạ! Biết làm sao được khi mà:

Anh hùng tự cổ nan vi phụ

Hào kiệt hà nhân cánh cổ gia?

Nguyễn Thái Học vừa dứt lời thì Nguyễn Hữu Cảnh nói chen vào:

- Thưa anh, thưa chị. Lâu nay tôi vẫn nghĩ như hai câu thơ mà anh vừa đọc: Từ xưa, làm vợ anh hùng vẫn khó khăn vì bậc hào kiệt có ai nghĩ đến gia đình đâu? Chính vì vậy, tôi rất kính trọng tình cảm mà chị đã dành cho anh. Yêu anh nên chị mới có ý nghĩ tha thiết như thế, tôi cũng đề nghị anh đồng ý, anh Học ạ!

Anh cứng cỏi trả lời:

- Không thể được. Việc thành bại vừa rồi là trách nhiệm của tôi. Tôi cần ởl ại trong nước để cải tổ lại Đảng, làm tròn sứ mệnh phục quốc và kiến quốc, cho dù phải đối đầu với sự nguy hiểm đến tính mệnh.

Nguyễn Hữu Cảnh và chị Giang cùng im lặng. Họ rất hiểu tính khí của anh. Những việc mà anh đã quyết định thực hiện thì khó thay đổi. Có thể dời núi chớ không thể buộc anh phải làm điều mà anh không muốn. Thôi đành vậy. Nguyễn Hữu Cảnh lẳng lặng rời khỏi nhà để dành cho anh và chị có giây phút tâm tình bên nhau.

Nửa đêm về sáng, Cảnh và anh tìm đường lên Bắc Ninh. Họ đã đến nơi an toàn. Để xúc tiến việc cải tổ và xây dựng Đảng nên một hội nghị Đảng được tổ chức chu đáo tại làng Thôn Trụ, huyện Lương Tài từ ngày 14 đến ngày 19-2-1930. Sau khi bế mạc hội nghị, các đồng chí đề nghị anh đi về bằng đường thủy, có sự hộ tống để an toàn hơn. Anh không đồng ý vì cho rằng công việc đang cấp bách nếu đi đường thủy thì mất quá nhiều thời giờ.

Vào tám giờ sáng ngày 20-2-1930, Nguyễn Thái Học cùng một cận vệ của mình là Sư Trạch lên đường. Sư Trạch vốn là một thầy cúng ở chùa Đáp Khê (Hải Dương) được anh giác ngộ nên đi theo cách mạng. Nhờ giỏi võ nghệ và tuyệt đối trung thành với Đảng nên Nguyễn Thái Học đã chọn làm cận vệ cho mình. Hai thầy trò giả làm nông dân, đeo thẻ thuế thân của người làng Lương Tài. Theo kế hoạch đã định thì hai người sẽ đi qua Chí Linh rồi sang Đông Triều.

Xế chiều hai thầy trò đi ngan qua Chí Linh, họ đi qua lĩnh vực đồn điền Cổ Vịt của tên thực dân Klieber. Không may cho họ là một người làm trong đồn điền đó, có cảm tình với VNQD Đảng vừa mới về quê. Lại thêm chuyện là tên chủ đồn điền Klieber có dặn những tuần phu của mình khi có người làng Lương Tài qua đây thì đưa vào để ông ta nhờ chút việc.

Do đó, khi họ đến nơi thì những tuần phu xét giấy và biết người làng Lương Tài nên đã dẫn anh lên gặp Klieber. Nguyễn Thái Học gật đầu đồng ý. Trong thâm tâm anh nghĩ rằng, nếu xảy ra trường hợp xấu mà bị bắt thì anh sẽ thuyết phục người chủ đồn điền thả anh và biết đâu như những lần trước, anh còn được giúp cả tiền nữa không chừng. Anh nheo mắt hỏi ý Sư Trạch:

- Thế nào? chúng ta có nên vào gặp tên chủ đồn điền không?

- Thưa anh, hay là chúng ta dùng võ lực để thoát thân trong lúc này? Tẩu mã vi thượng sách.

Anh cười:

- Chúng nó đã biết ta là ai đâu mà phải làm như thế? Mọi hành động thiếu chín chắn trong lúc này đều bất lợi. Chú nghĩ sao?

Sư Trạch gật gù:

- Tôi chỉ sợ rằng, lệnh truy nã anh được phân phát khắp nơi thì tên Tây này sẽ phát hiện được anh thôi.

- Chú khéo lo. Chúng ta cứ bình tĩnh đi theo bọn tuần phu nhé. Nếu bất lợi thì chú cứ hành động để chúng ta cùng thoát thân.

Nguyễn Thái Học nói như thế vì đã có nhiều lần anh bị bọn tống lý bắt, nhưng lúc nói tên thật của anh thì họ thả ngay. Có lần, trong làng nọ, bị lộ, giám binh Pháp đem lính về bắt anh, nhưng anh đã được quần chúng báo tin. Anh bèn giả làm người đàn bà đẻ khó mà người nhà phải cõng ra nhà thương tỉnh. Khi tên giám binh đến, nó thấy hai người khiêng cái cáng tùm hum có chiếc chiếu che kín, nó chẳng nói gì.

Hai thầy trò lững thững đi theo mấy tên tuần phu vào nhà. Khi nước vào trong nhà, không hiểu sao lần này anh cảm thấy chột dạ. Lấy cớ bận việc phải đi ngay, chứ không thể đứng chờ ông chủ Tây được. Anh nháy mắt ra hiệu cho Sư Trạch cùng rút lui. Mấy tên tuần phu không đồng ý. Buộc lòng Sư Trạch phải dùng đến võ lực. những tên tuần phu bị anh đánh ngã đã la hét ầm ĩ. Những người khác nghe vậy liền chạy vào tiếp sức. Họ đã bao vây hai thầy trò với lời quát tháo náo động. Nguyễn Thái Học liền lấy bom trong túi ra để ném. Một tiếng nổ kinh khiếp. Mọi người chạy tán loạn.

Lúc ấy, tên chủ Tây Klieber nghe tiếng động liền mở cửa nhìn xuống. Hắn thấy mọi người đang đánh nhau. Hắn ngờ là kẻ cướp đột nhập vào đồn điền liền rút súng ra nhắm vào anh và Sư Trạch mà bắn. Cả hai trúng đạn nên ngã quỵ, không chạy được. Bọn tuần phu ùa lại, kẻ dùng dáo, người dùng báng súng đánh đập túi bụi rồi hè nhau trói lại.

Thế là tên chủ đồn điền yên trí là đã bắn què giò bọn cướp. Hắn ra lệnh cho bọn tuần phu khiêng người bị thương ra nhà thương tỉnh.

Đi qua hạt Nam Sách, sang đò Hàn và phải ngang qua trường tiểu học thì đến nhà thương tỉnh. Khi tuần phu khiêng họ đi ngang qua trường thì cũng là lúc trường vừa tan học. Vậy là đã hết giờ làm việc, nhà thương sẽ không nhận thêm người nữa. Cáng khiêng người tạm nghỉ ở gốc cây nhãn trước trường để chờ giờ làm việc vào buổi chiều vậy.

Lũ học trò lúc tan trường nhìn thấy có cái cáng thì tò mò xúm lại xem. Một ông giáo cũng tò mò đứng ngó vào. Nguyễn Thái Học với ông giáo là bạn học, đã từng ở trọ chung khi học trường Sư phạm năm 1921 nên vừa trông thấy ông ta, Nguyễn Thái Học gọi và nói bằng tiếng Pháp:

- Je suis arrêté! (tôi bị bắt rồi!)

Không may cho anh là lúc đó ông Parreau - hiệu trưởng đứng trong nhà, thấy có đám đông nên cũng tò mò muốn biết là chuyện gì bèn hỏi ông giáo:

- Ồ có phải là bọn cướp không? Ông giáo cũng quen với bọn nó à?

Nghe hỏi bâng quơ như thế nhưng ông giáo lại thật thà buột miệng thanh minh:

- Thưa ngài, không phải kẻ cướp đâu. Người này là Nguyễn Thái Học!

Chao ôi! Câu trả lời này tai hại biết chừng nào – vì ông giáo nghĩ rằng anh đã sa lưới nên mới đáp thế. Vừa nhắc đến tên Nguyễn Thái Học, ông hiệu trưởng bèn hỏi gặng lại hai lần. Đúng không! Ông ta rú lên sung sướng và vội vàng gọi điện báo cho tòa sứ. Con người đã làm cho nhà cầm quyền Đông Dương mất ăn mất ngủ là đây. Hùm thiêng đã sa lưới. Nhận được tin này, tòa sứ báo cho sở giám binh. Kèn báo động nổi lên khắp phố. Lúc bấy giờ, bọn tuần phu mới trố mắt kinh ngạc:

- Rõ khổ quá! Sao ông không nói ngay ông là Nguyễn Thái Học? Biết vậy thì chúng tôi đã thả ông dù có chịu tội với quan Tây. Bây giờ sự việc đã lỡ mất rồi. Làm sao hở trời?

Nguyễn Thái Học cười chua chát:

- Thôi mạng sống của tôi cũng đem lại cho các ông được món tiền lớn. Các ông cứ lãnh thưởng.

Người anh hùng đã từng khuấy nước chọc trời đã nói như thế, những người tuần phu rơm rớm nước mắt.

Nguyễn Thái Học và Sư Trạch ngay trưa đó bị tống vào nhà giam Yên Bái.

Ngày 28-3-1930, Hội đồng đề hình họp ở Yên Bái lần thứ nhất. chúng đã khép mươi người khổ sai có thời hạn, ba mươi bốn người khổ sai chung thân, năm mươi người bị đi đày và 40 người chịu án tử hình. Người đầu tiên là Nguyễn Thái Học. Tên giám binh Cases đã hỏi:

- Mày làm nghề gì?

Anh dõng dạc đáp:

- Ta làm nghề cách mạng!

- Vậy đồng bọn của mày là những ai?

Anh nhìn thẳng vào mặt hắn:

- Chỉ có một mình ta, ta chịu hoàn toàn trách nhiệm về cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái. Lý do chính trị của …

Không để cho anh biện hộ, hắn vội ra lệnh ngăn lại. Anh cười nhạt:

- Vậy cái tòa án này đã đem cường quyền mà đè nén công lý! Đã thế ta nói làm gì nữa! Không cho ta nói lại thì ta cũng không cần trạng sư vào biện hộ cho ta đâu!

Chúng gọi tên chị Nguyễn Thị Bắc, chúng chưa kịp hỏi thì chị đã vung tay thét:

- Chúng mày về nước Pháp mà kéo đổ tượng Jeanne d’Arc đi thôi!

Cả Hội đồng đề hình giận tím mặt, Jeanne d’Arc là người đã được nhà nước Pháp phong nữ thánh, đã từng cầm quân đi đánh giặc Anh lúc xâm lược Pháp – Sau bị thiêu sống ở quảng trường Rouen vào năm 1431 lúc 19 tuổi – bằng tuổi với chị Bắc lúc bấy giờ.

Chúng lại gọi tên anh Cai Hoằng:

- Tại sao mày cầm đầu binh lính đánh Yên Bái?

Anh đáp:

- Không phải tôi đánh mà Trung ương Đảng bộ hạ lệnh tôi đánh. Các ông còn lạ gì kỷ luật của Đảng tôi, không phục tùng mệnh lệnh, Đảng xử tử. Đó là cái chết nhục. Còn đánh với các ông, nếu thua đi nữa, cũng đến xử tử là cùng, nhưng đó là cái chết vinh quang.

Tên chánh án cười gằn:

- Mày là thằng vô ơn. Quan ba Jourdain đối xử với mày rất nhân đạo, tử tế. Vậy mà mày lại cầm súng bắn ông ta đầu tiên!

Anh trả lời không do dự:

- Vâng, cám ơn ông. Đại úy Jourdain tử tế đối với tôi, nhưng đó là tình riêng. Còn tôi ghét ông ta là bổn phận đối với dân tộc tôi, với đảng tôi. Người Việt Nam chúng tôi bao giờ cũng đặt nghĩa công lên trên tình riêng.

- Mày là thằng độc ác.

Anh đáp:

- Thưa ông, ông nghĩ như thế nào về sự độc ác? Nếu nước Pháp bị nước khác xâm lược thì ông có đứng lên cầm súng để bảo vệ Tổ quốc của ông không? Tôi chỉ là người tự nguyện làm nghĩa vụ của một con dân khi đất nước chúng tôi bị xâm lược.

Chúng lại gọi anh Phó Đức Chính:

- Nhà nước Đông Dương đã biết rõ mày là tên phiến loạn được phân công đánh đồn Thông ở Sơn Tây, là một cộng sự đắc lực của tên Đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Phiên tòa này ghép mày vào tội tử hình. Mày có xin chống án không?

Phó Đức Chính gầy yếu trong bộ áo người tù giọng nói sang sảng của người thanh niên 29 tuổi này đã làm cho cả Hội đồng đề hình kinh ngạc:

- Cần gì phải xin chống án! Tôi là người được Đảng phân công làm ủy viên tuyên truyền cổ động ở các tỉnh, thảo truyền đơn kêu gọi họ làm cách mạng và thảo chương trình của kế hoạch Tổng khởi nghĩa cùng với ông Nhu, ông Học. Đời tôi chỉ có làm việc lớn đó mà thôi. Việc lớn đã hỏng. Sống làm gì nữa?

Phiên tòa tiếp tục làm việc, nhiều người không thèm cãi, không thèm trả lời. Họ cười giỡn, ồn ào và phá tan không khí trang nghiêm của Hội đồng đề án.

Sau phiên tòa này khi bị đưa vào trong xà lim - mặc dù bị cùm cân, suốt ngày cửa đóng kín mít, tối như bưng, đã thế Nguyễn Thái Học còn phải cung cấp máu mình cho lũ rệp, muỗi, chấy, rận thi đua nhau cắn nát thân thể - anh bắt đầu viết hai lá thư bằng tiếng Pháp để gửi cho Toàn quyền Đông Dương và Hạ nghị viện Pháp.

Trong thư gửi cho Toàn quyền Đông Dương, anh đã viết:

Ông Toàn quyền,

Tôi, Nguyễn Thái Học ký tên dưới đây là chủ tịch Đảng VNQD Đảng, hiện đang bị giam tại ngục Yên Bái, trân trọng nói cho ông rõ rằng:

Hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, tôi thật có trách nhiệm về mọi việc chính biến phát sinh trong nước do Đảng tôi chỉ huy từ năm 1927 đến nay, vì tôi l2 chủ tịch của Đảng và là người sáng lập nữa. Vậy xin ông giết một mình tôi, chứ đừng giết các người đảng viên hay gọi là đảng viên hiện giam ở các ngục, bởi người ta vô tội. Người ta vô tội vì trong số đó thì một phần là các đảng viên, nhưng họ vào Đảng là vì tôi khuyến khích họ, cho họ biết thế nào là nghĩa vụ một người dân đối với quốc gia, thế nào là những nỗi khổ nhục của một tên dân mất nước. Còn ngoài ra là những người bị vu cáo bởi bọn thù hằn, bởi lũ mật thám, bởi những bạn bè bán mình cho chính phủ Đông Dương. Tôi nhắc lại một lần nữa để ông biết cho rằng chỉ cần giết một mình tôi, vì tôi mới chính là thủ phạm. Nếu các ông thấy chưa đủ thì cứ tru di cả gia đình tôi, nhưng tôi đem nước mắt mà xin ông tha cho những người khác! Sau nữa, tôi mong ông nghĩ đến danh dự của nước Pháp, đến công ký, đến nhân đạo mà thôi hạ lệnh ném bom hay đốt phá những làng vô tội như ông đã làm. Đó là một lệnh giết người! những đồng bào của tôi sẽ vì thế mà chết đói, chết rét mấy vạn mà kể!

Sau cùng, kết luận bức thư này, tôi nói cho ông biết rằng nếu người Pháp muốn ở yên Đông Dương mà không phải khốn đốn vì phong trào cách mạng thì:

1. Phải thay đổi chương trình chính trị hung tàn và vô nhân đạo hiện hành ở Đông Dương.

2. Phải cư xử cho đúng là người bạn dân Việt Nam, chứ đừng có bằng thái độ của ông chủ bạo ngược và áp chế.

3. Phải để lòng giúp đỡ những nỗi đau khổ của người Việt Nam, bằng cách trả lại những nhân quyền như quyền tự do ngôn luận… Đừng có dung túng bọn quan lại tham ô và những phong tục hủ bại ở các hương thôn. Mở mang nền công, thương bản xứ và cho nhân dân được học những môn cần thiết.

Kẻ thù của ông

Nguyễn Thái Học

Trong lá thư gửi cho Hạ nghị viện Pháp, Nguyễn Thái Học cũng nêu rõ những quan điểm như thế:

“Người Pháp không hề có thực lòng với người Việt, và tôi chẳng giúp ích được gì cho Tổ quốc tôi, đồng bào, dân tộc tôi cả, trừ khi là đuổi người Pháp ra khỏi nước tôi. Bởi vậy năm 1927, tôi bắt đầu tổ chức một Đảng cách mạng, lấy tên là VNQD Đảng, mục đích là đánh đổ chế độ cường quyền áp bức ra khỏi nước tôi và lập nên chính phủ Cộng hòa Việt Nam, gồm những người thật lòng tha thiết đến hạnh phúc của quần chúng”.

Hai lá thư này sau khi viết xong đã được tổ chức bí mật của Đảng từ trong tù chuyển ra ngoài. Một ký giả Pháp là ông Louis Roubaud đã chép lại được hai lá thư này trong tư liệu tối mật của nhà cầm quyền. Do có cảm tình với phong trào cách mạng Việt Nam đang sôi sục trong nước và cả hải ngoại, nên ông đã công bố trên mọi cơ quan ngôn luận. Nó đã gây được tiếng vang lớn trong công chúng và nhà nước Đông Dương. Do đó, chính phủ Pháp ra lệnh chuyển anh và một số đồng chí khác về Hỏa Lò.

Tin Nguyễn Thái Học chuyển về Hà Nội đã gây xôn xao trong các cơ sở Đảng. Chị Nguyễn Thị Giang lúc này được bầu làm cố vấn cho Đảng và Nguyễn Hữu Cảnh tạm thời lên cầm quyền Đảng. Một đường dây từ bên ngoài liên lạc với trong Hỏa Lò để nhận chỉ thị của Nguyễn Thái Học đã được xác lập.

Để lập lại uy tín của Đảng trong quần chúng đã bị tác động vì những thất bại mới đây và nhiều vụ bắt bớ xảy ra, Nguyễn Thái Học chỉ thị mở chiến dịch khủng bố - chẳng những với những kẻ phản Đảng mà còn đối với những viên chức cao cấp người Pháp và bọn quan lại Việt gian tận tụy với nhà nước.

Một nghị quyết được đưa ra với nội dung như sau:

“Nước mất nhà tan, giống nòi bị tàn sát đã gần một thế kỷ nay, dân tộc Việt Nam bị dày xéo tàn nhẫn dưới gót sắt của đế quốc và tư bản Pháp không khác gì giống vật. trước tình cảnh đó, chúng ta, con cùng một nước ngăn sao được nỗi đau thương.

Với một dân tộc vốn có sẵn truyền thống văn minh, một đạo đức cao thượng, một lịch sử vẻ vang vĩ đại, chúng ta không cam chịu để một giống nòi khác đô hộ, cũng vì vậy ngay sau khi bọn tư bản đế quốc Pháp vào cướp nước ta, một phong trào cách mạng dân tộc đã nổi lên mà đến nay truyền thống đó vẫn còn ngấm ngầm tiếp nối. Ông cha ta đã lần lượt đổ máu, hy sinh đời sống để đòi tự do cho dân tộc.

Mấy năm cuối cùng đó, nhất là sau chiến tranh đế quốc 1914-1918, toàn thế giới bước vào một thời đại bạo động. Tất cả các dân tộc bị áp bức nổi dậy làm cách mạng. Mặt khác, cách mạng vô sản Nga, cách mạng dân tộc Trung Quốc đã gây một ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới. Vậy mà nước ta tất cả tài sản, kinh tế bị bọn tư bản đế quốc chiếm đoạt, dân ta phải vô cùng cực khổ và số phận dân tộc ta có thể ngày càng đi tới khốn đốn. Bị áp bức vô cùng về vật chất lẫn tinh thần, đồng bào ta cuối cùng đã thức tỉnh và đứng lên làm cách mạng.

Hiện nay nước ta có hai luồng cách mạng: Cách mạng dân tộc và cách mạng dân chủ.

Việt Nam Quốc Dân Đảng là đội tiên phong của cách mạng dân tộc. Đó cũng là một sự việc của luật tự nhiên mà cũng đồng thời là một sự thử thách… Điều đó chứng tỏ rằng tương lai của cách mạng Việt Nam sẽ sáng sủa và quân đội của bọn tư bản đế quốc ở Đông Dương sẽ phải thất bại, dân tộc ta sẽ qua cuộc đời khổ cực, tiến lên đời sống vinh quang vĩ đại.

Hiện nay Đảng ta đề ra hai sách lược: Sách lược tích cực và tiêu cực.

Sách lược tích cực là tuyên truyền quần chúng. Sách lược tiêu cực là khủng bố và ám sát. Theo sách lược thứ hai, Đảng ta sẽ ám sát liên tiếp: - Những yếu nhân trong chính phủ tư bản đế quốc. Những tên mật thám đắc lực. Những tên quan lại cản trở công việc cách mạng. Những Đảng viên phản bội. Để làm yếu dần lực lượng của tư bản đế quốc.

Pasquier là một trong những tên tay sai của tư bản đế quốc, là lãnh tụ tối cao của chính phủ Đông Dương. Vì vậy nó là đối tượng đáng nhắm của Đảng ta, cho nên trước tòa án cách mạng, Pasquier đã bị kết án tử hình.

Một người anh em trong Đảng ta đã nhận lệnh thi hành việc ám sát, theo sau sách được khủng bố và ám sát của Đảng ta, những kẻ tay sai của đế quốc Pháp sẽ cùng phải chịu số phận như vậy.

Cùng toàn thể đồng bào! Cùng các anh các chị! Chúng ta đem máu ra để đòi tự do, hạnh phúc! Chúng ta hãy gia nhập đông đảo quân đội cách mạng chiến đấu để thực hiện cho được mục đích của chúng ta”.

VNQD Đảng

Ngoài ra, còn có một bản án khác cũng được công bố: kết án tử hình Vi Văn Định - Tổng đốc Thái Bình đã góp phần đắc lực vào việc đàn áp những người tham gia khởi nghĩa Yên Bái.

Người được chỉ định thi hành việc ám sát Pasquier là Tô Chấn – anh ruột của Tô Hiệu, một đảng viên kiên cường của Đảng cộng sản Việt Nam – anh đã mang bom ra Hà Nội tìm cách hạ sát Pasquier trong một buổi duyệt binh, nhưng cuối cùng không thực hiện được vì gặp tình hình trở ngại. Anh bị thực dân bắt.

Những bản án này, Nguyễn Thị Giang đã đọc lại cho Lê Hữu Cảnh ghi lại bằng mực tím hóa chất. Bị mật báo nên anh bị Pháp bắt tại Hải Phòng trong căn nhà anh đang ẩn nấp với Nguyễn Hữu Huân. Cả hai đều có mang súng và một lô đạn dược nhưng cuộc lùng bắt quá mau lẹ nên hai người trở tay không kịp. Chúng đã tìm thấy tại nhà này những bản án tử hình Pasquier, còn lại là những dụng cụ chế bom cũng như công thức làm chất nổ.

Có sự phản bội trong hàng ngũ của Đảng chăng? Trong nhà tù Hỏa Lò, một người bị tình nghi đã điềm chỉ cho bọn mật thám là Nguyễn Văn Ngọc, đã bán đứng mạng sống của anh em để mưu cầu sự sống. Những người tù cùng phòng với Ngọc đã bí mật nhận được chỉ thị của Đảng. Tối đó, lợi dụng lúc Ngọc đang ngủ, họ đã dùng dây siết cổ. Ngọc tắt thở với bản án ghi bốn chữ “không giữ lời thề” được đặt trên mặt…

Do sự phản bội của những người như thế, mật thám Pháp tiếp tục đánh phá những cơ sở Đảng còn lại. Chúng đã ập vào cơ quan Ám sát Đoàn Hàng Bột. Thấy bị động, chị Đỗ Thị Tâm rút súng bắn chết tên chỉ điểm. Chúng bắn trả lại, hai đảng viên trúng đạn chết, chỉ còn lại chị Tâm, chị Nguyễn Thị Vân và anh Trịnh Văn Yên, ba người này bị chúng bắt. Khi giải về nhà giam, chúng lột truồng chị Tâm ra, rồi nắm tóc mà quật vào tường. Máu tung tóe. Chị vẫn im lặng. Không hé răng. Đêm đó, chúng giam chị trong xà lim, chị đã nuốt giải yếm vào trong cuống họng mà tìm cái chết. Lúc chúng phát hiện và rút giải yếm ra thì chị đã tắt thở và họng đầy máu. Năm đó chị Nguyễn Thị Tâm mới tròn mười tám tuổi. Còn chị Nuyễn Thị Vân thì mới mười sáu tuổi, thấy chị còn nhỏ có thể mua chuộc nên chúng vừa dọa nạt vừa vỗ về:

- Mày còn nhỏ, chưa đến tuổi vị thành niên, nhà nước sẽ khoan hồng cho mày. Chúng tao biết mày chỉ bị bọn cướp lôi kéo, chứ mày vẫn trung thành với chính quyền. Mày có biết mày vào Đảng để làm gì? Có phải mày bị bọn cướp này dụ dỗ không?

Chị nhìn thẳng vào mặt tên mật thám:

- Ông nói sai rồi. Tôi tự nguyện vào Đảng là mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc.

Hắn cười:

- Tao không tin. Trẻ con như mày vào Đảng thì làm nên trò trống gì?

- Khi mới vào Đảng thì tôi may cờ, in truyền đơn, may binh phục cho các đồng chí của tôi. Bây giờ theo lệnh của Nguyễn Thái Học thì tôi tập bắn súng, học chế bom để giết hết quân cướp nước.

Biết không thể mua chuộc được, nén giận sôi gan, hắn hỏi tiếp:

- Chi bộ của mày có những ai?

- Tôi không biết!

- Mày có biết thằng Ký Con không?

- Tôi không biết!

Một cú đấm thẳng vào mặt chị. chúng quay sang thẩm vấn anh Trịnh Văn Yên bằng cách treo ngược lên xà nhà, thi nhau đánh tới tấp vào mặt anh. Lạ thay, anh vẫn im lặng. Chúng gầm lên như loài thú dữ:

- Ký Con bây giờ ở đâu?

Sau mỗi câu hỏi là những cú hiểm hóc đánh thẳng vào thân thể anh đang treo lủng lẳng…

Những cơ sở bị đánh phá tan ra gần hết, Ký Con lập tức rời Hà Nội xuống trú ẩn tại nhà một đồng chí ở ngoại ô Hải Phòng. Ở đó ít lâu, bọn mật thám lại đánh hơi lùng sục, anh liền về Nam Định. Chỉ ở đó một đêm, sáng hôm sau trong khi chuẩn bị tẩu thoát thì tên phản Đảng là Đội Tảo đã dẫn bọn mật thám ập vào bắt anh. Anh bị đưa về Hỏa Lò. Tại đây, ký giả Louis Roubaud đã tìm mọi cách để gặp anh. Ông ta hỏi:

- Thưa ông, tại sao biết cuộc khởi nghĩa khó thành công, nhưng các ông vẫn tiến hành?

Anh đáp:

- Chúng tôi phải khởi sự như thế để người sau tiếp tục. Sự thất bại của chúng tôi là để thế hệ sau gặt lấy kết quả.

- Có phải ông cho rằng, ám sát những quan chức cao cấp Pháp thì có thể đi đến mục đích của các ông?

- Đó là chỉ thị của Đảng tôi. Xin hỏi ông, có thể tiến hành một cuộc cách mạng mà không giết người?

Ký giả Louis Roubaud không trả lời.

Ông lại hỏi:

- Thưa ông, tại sao Đảng của ông lại tổ chức những vụ tống tiền, cướp bóc hành khách?

Anh đáp không do dự:

- Cách mạng cần tiền thật nhiều để mưu đại sự. Việc cướp hành khách trên xe đò Mỹ Lâm ngày 21-1-1930 hoặc những lần khác là vì chúng tôi biết có những lái buôn đem tiền đi mua gạo để đầu cơ tích trữ. Tôi nói với họ rằng: “Đảng chúng tôi có nhiệm vụ lấy của cải của người giàu để phân phát lại cho dân nghèo, đó là công  bằng xã hội”.

- Vậy các ông là cộng sản.

- Vâng, hoạt động ráo riết của Đảng cộng sản Việt Nam cũng không ngoài mục đích lật đổ chế độ cai trị của thực dân Pháp mà đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho tổ quốc tôi.

Cuộc phỏng vấn này được diễn ra dưới sự chứng kiến của Arnoux, hắn kinh ngạc vì những câu trả lời của Ký Con - một thanh niên mới ngoài hai mươi tuổi đã có chính kiến rõ rệt. Hắn nghĩ rằng: “Sau khi dập tắt VNQD Đảng, những thanh niên như thế này nếu gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam thì chắc chắn chúng ta sẽ mất Đông Dương”. Điều mà hắn tiên đoán sẽ xảy ra vào một thời điểm thích hợp nhất - dưới sự lãnh đạo của một đảng tiên phong đang ám ảnh khủng khiếp trong tâm tưởng hắn.


9

Hồn thiên thu thác cũng như còn

Khi Nguyễn Thái Học bị bắt, trong nhân dân vẫn chưa tin là anh bị sa lưới một cách dễ dàng như thế, họ cho rằng: “Đấy là Nguyễn Thái Học giả” hoặc cho rằng: “ông Nguyễn Thái Học có phép tàng hình, khi đưa đến Hỏa Lò thì ông đã bay lên trời rồi”. Thậm chí tờ báo có uy tín lúc bấy giờ là Volonté Indochinoise xuất bản tại Hà Nội cũng tin như thế.

Quả thật, Nguyễn Thái Học đang bị cùm trong xà lim Hỏa Lò.

Giới phụ nữ Pháp đã yêu cầu giám đốc Sở mật thám cho họ được vào xem tận mắt lãnh tụ VNQD Đảng. Đó là một người như thế nào mà đã gây kinh động cả Đông Dương này? Vào một sáng đẹp trời, phái đoàn phụ nữ này cùng với Hoàng Trọng Phu - Tổng đốc Hà Đông được  phép vào Hỏa Lò. Một ả đầm hỏi Arnoux – giám đốc Sở mật thám:

- Où? Où est le general Nguyễn Thái Học? (Đâu? Ông tướng Nguyễn Thái Học?)

Arnoux nghiêm mặt:

- Nó chỉ là một tên hướng cướp!

Nguyễn Thái Học nghe vậy liền đáp:

- Ông Arnoux! Ông nên ăn nói lễ độ một chút!

Hắn điên tiết vì bị trả đũa hỗn xược trước mặt phụ nữ nên vung ba-toong định quất vào mặt anh, anh cười khinh bỉ:

- Một người đang bị cùm trong xà lim lại được ông đối xử như thế à? Có phải đó là văn minh của nước Pháp?

Lời nói rành rọt bằng tiếng Pháp đã khiến hắn chùn tay lại. Giữa lúc ấy, ả đầm sửng sốt về câu trả lời của anh đã buông tay làm con chó xù nhảy vọt xuống đất. Con chó chạy tung tăng dọc theo hành lang. Tên Arnoux vội vàng đuổi theo bắt lại con chó và kính cẩn trao cho bà chủ của nó. Ả đầm hững hờ bồng con chó trên tay và hướng về Nguyễn Thái Học:

- Ông Nguyễn Thái Học, ông có gương mặt đẹp như một thiên thần, ông rất khí phách. Phái đoàn phụ nữ chúng tôi sẽ làm đơn xin ân xá cho ông!

- Vâng cám ơn lòng tốt của bà, một phụ nữ Pháp hết sức lãng mạn và xinh đẹp.

Ả đầm buồn rầu đáp:

- Tôi là một người lãng mạn à?

Nguyễn Thái Học nhìn vào mắt người phụ nữ này:

- Vâng, tất cả những người tốt, những kẻ có lòng đều là những người lãng mạn.

Sau đó, anh khẽ ngâm:

Tôi đứng về phía những người bại

Tôi là bạn của những đau thương

Đồng hành cùng tâm hồn đau khổ

Đi qua trần gian lắm nỗi tai ương

- Ông vừa đọc thơ của Victo Huygo đó à?

- Đúng thế, thi sĩ Victo Huygo của nước Pháp là nhà thơ lớn mà tôi kính phục. Đó là nhà thơ của Tự Do, Công Lý và Tương Lai. Bài thơ này ông đã viết để tưởng niệm những chiến sĩ của công xã Paris hy sinh năm 1871. Họ là những người bất tử đã làm vẻ vang cho nước Pháp và chúng ta…

Không để cho Nguyễn Thái Học nói hết câu, tên Arnoux vội vàng nói với người phụ nữ:

- Thưa bà, hết giờ rồi, mời bà ra ngoài.

Hắn đẩy ả đầm ra ngoài. Cửa xà lim nặng nề sụp xuống. Hắn sợ giây phút gặp gỡ như thế này, Nguyễn Thái Học sẽ tuyên truyền không có lợi cho nhà cầm quyền. Phái đoàn phụ nữ không được tiếp xúc với anh nữa. Mãi nửa tiếng đồng hồ sau, theo lời yêu cầu khẩn thiết của Hoàng Trọng Phu, Arnoux mới cho phép tên Tổng đốc này được diện kiến anh.

Chạm mặt Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Thái Học nhổ bãi nước bọt xuống nền nhà tù. Anh có lạ gì dòng họ nhà này. Bố của Phu là Hoàng Cao Khải, đã từng viết thư chiêu dụ nhà ái quốc Phan Đình Phùng và bị cụ Phan sỉ vả thậm tệ. Nhờ những lần đem quân đi đàn áp nghĩa quân khởi nghĩa nên Khải được phong làm Tổng đốc Hải Dương. Khi con trai của mình là Hoàng Trọng Phu đi học ở Pháp về, Khải có mời một số nhà nho đến dự tiệc ăn mừng. Trong bữa tiệc này, y ra đầu đề là “Thiên hà ngôn tai” để mọi người cùng thù tạc ngâm vịnh. Với đầu đề này có nhĩa là “Trời có nói gì đâu”, ngầm kiêu căng muốn nói với mọi người rằng: Trời không nói, nhưng mọi việc cứ tuần hoàn xuôi chảy vì trời đã định rồi. Trời định cho họ Hoàng tước lộc khoa danh đầy đủ cả, vinh dự trong ngoài nước. Đầu đề vừa đắc ý tự cao lại vừa thâm sâu rất khó. Chưa kịp để cho Phu mở miệng, Nguyễn Thái Học hỏi ngay:

- Không ngờ lại gặp ông. Ông còn nhớ lúc ông ở Pháp về, cụ Tam Nguyên Yên Đổ có làm bài thơ theo đề “Thiên hà ngôn tai” của bố ông không?

Không đợi cho hắn trả lời, anh đọc luôn:

Chót vót trên này có một tao

Mày xem tao có nói đâu nào

Da tao xanh ngắt pha đen trắng

Bởi tại dì Oa vá váy vào

Hoàng Trọng Phu tím mặt. Hắn gào lên:

- C’est un fou! (Đây là một thằng điên!)

Anh cãi lại bằng tiếng Pháp pha lẫn tiếng Việt ngụ ý trêu chọc và chơi chữ đích đáng:

- Moa pas fou, Phu lui phe Tổng đốc (tôi không phu (điên), Phu nó làm Tổng đốc kia chứ!)

Phu cứng họng không trả lời được. Hắn không ngờ ngay trước mặt quan Arnoux, Nguyễn Thái Học dám bốp chát như thế. Một lúc sau, hắn mới mở miệng:

- Mày chơi chữ khá lắm. Nhưng tiếc quá, vừa thông minh vừa có tướng lưng hổ, mình gấu thì sẽ làm lớn đấy! Thế mà cũng làm giặc à?

Anh đáp:

-Xin lỗi ông Phu ạ! Tôi rất lịch sự đối với ông. Mời ông đứng lui ra. Không kiềm chế được thì tôi sẽ phun nước bọt vào mặt ông đấy.

Phu sững người. Vốn là người tráo trở, biết lúc nào phải cứng, lúc nào phải mềm mỏng thì mới được việc. Hắn không đứng xê ra mà ngồi bệt xuống đất, bên cạnh Nguyễn Thái Học và vỗ về:

- Đừng giận. Tao sẽ xin quan lớn ân xá cho mày. Mày khai thật đi! Tại sao mày ra lệnh giết chết Hoàng Gia Mô – cháu ruột của tao?

- Tôi không đợi ông vào đây để xin ân xá. Không riêng gì Hoàng Gia Mô mà bất cứ tên quan lại nào tham ô, xách nhiễu nông dân thì chúng tôi cũng đều đối xử như thế.

Lại hỏi:

- Tại sao lúc mày bị bắt, trong người mày có súng, lựu đạn mày không giết bọn tuần phu để thoát thân?

Anh cười gằn:

- Họ là những người thừa lệnh quan Tây mà thôi. Họ vô tội. Nếu họ được Đảng chúng tôi giác ngộ thì họ cũng đứng lên mà cầm súng đuổi giặc Pháp. Hừ! May cho ông lắm. Không phải những tuần phu bắt tôi, chứ lúc đó gặp ông thì khẩu súng sáu không nằm yên trong người tôi đâu!

Nghe trả lời như thế, Phu rùng mình. Hắn há mồm nhổ toẹt bãi trầu đỏ lòm như máu xuống nền tù, rồi đứng lên te te bước ra ngoài. Cánh cửa xà lim đóng sập lại. Hai con mắt Nguyễn Thái Học vẫn sáng quắc trong bóng tối.

Ngày tháng trong Hỏa Lò chầm chậm trôi qua. Đầu tháng 6-1930, công điện từ Paris đánh sang Hà Nội, Tổng thống Pháp là Gaston Doumergue đổi 27 án tử hình ra khổ sai chung thân, còn lại 13 người vẫn y án. Đó là những yếu nhân của VNQD Đảng: Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Bùi Tư Toàn, Đào Văn Nhật, Nguyễn Văn Tiềm, Hà Văn Lạo, Bùi Văn Chuẩn, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Văn An, Bùi Văn Cửu, Nguyễn Như Liên (tức Ngọc Tỉnh), Ngô Văn Du và Đỗ Văn Tứ. Chính quyền thực dân giữ bí mật nội dung bức công điện này.

Đột ngột đến ngày 16-6-1930, một đội lính lê dương dưới sự chỉ huy của Arnoux lặng lẽ tiến vào dãy xà lim án tử hình. Chúng gọi tên 13 người bị án tử ra ngoài và xích hai người vào một rồi đưa đi. Vừa bước ra khỏi xà lim, Nguyễn Thái Học hô to:

- Chúng tôi đi trả nợ nước đây, các đồng chí ơi!

Tên lính lê dương dùng báng súng dộng được vào bụng anh, anh oằn người lại nhưng cũng nói sang sảng:

- Các anh em đồng chí còn sống cứ tiếp tục công việc nhé. Cờ Độc lập phải nhuộm bằng máu. Hoa Tự do phải tưới bằng máu! Tổ quốc còn cần đến sự hy sinh của con dân nhiều nữa. Nhưng rồi thế nào cách mạng cũng đến ngày thành công. Thôi càho các đồng chí anh em còn ở lại…

Những lời cuối cùng của anh đã gây phản ứng dữ dội trong nhà tù, họ la ó, gào thét náo động cả khu Hỏa Lò. Đứng trong song sắt nhà lao, Ký Con đã bắt giọng hát bài Đảng ca. Bài này do Nguyễn Khắc Nhu đã soạn lời Việt, phỏng theo điệu bài quốc ca Marseillaise của Pháp. Đồng loạt các tù nhân đã cất lên tiếng hát để tiễn đưa những đồng chí của mình.

Đầy đường hùm beo, đồng tâm cùng bước. Dưới ách cường quyền, mấy ai ngồiyên? Phất cờ Tự Do đuổi quân đế quốc, quyết sống mái… Gan cho vững… Chí cho bền. Trên đường vinh quang, kìa trông người đua chen. Anh em ơi mau cùng đứng lên! Chị em đâu mau cùng tiến lên! Thề cùng đem xương máu đắp xây nhân quyền… Lắp súng anh em tiến quân. Tuốt gươm chị em xung phong. Tuốt gươm lắp súng. Tiến lên! Đồng tiến… Ta phấn đấu tới cùng!

Tiếng hát người tù vang lên như tiếng kèm xung trận. Bọn cai ngục đã ùa vào đàn áp, quất gậy gộc đánh đập tù nhân tàn nhẫn. Nhưng chúng vẫn không khóa được tiếng hát. Tiếng hát vẫn lọt qua song cửa nhà tù. Bay lên trời xanh. Như thiên sứ của Tự Do.

Một đoàn xe hơi đen bọc lưới sắt từ trong của ngục Hỏa Lò tiến ra. Trên xe là 13 chiến sĩ VNQD Đảng. Lính ngồi trên xe canh chừng rất nghiêm ngặt. Họ được trang bị đầy đủ súng ống. Xe chạy về phía ga Hàng Cỏ. Hai bên đường đều có lính đứng canh gác cẩn thận.

Lúc thời bấy giờ, xe lửa Hà Nội lên Yên Bái một ngày có hai chuyến. Chuyến sáng khởi hành lúc 6 giờ rưỡi, chuyến trưa khởi hành lúc 13 giờ 40. Chuyến lên Lào Cao (qua Yên Bái) chạy lúc 9 giờ sáng. Vậy sau chuyến trưa, không có chuyến nào khác lên Yên Bái. Vì lẽ đó, khi đưa ra khỏi nhà lao Hỏa Lò vào lúc sụp tối như thế này, Nguyễn Thái Học vẫn chưa biết mình và các đồng chí bị đưa đi đâu.

Khi xe đang chạy thì những người tù đang bị còng trên xe bỗng hô to “Việt Nam muôn năm” và “VNQD Đảng muôn năm”. Tiếng hô náo động cả đường phố. Bọn lính đã dùng vũ lực đánh đập người tù để trấn áp tiếng la hét kia. Nhưng dù sao, nhờ vậy chị Nguyễn Thị Giang và các đồng chí đang hoạt động tại Hà Nội mới biết được âm mưu đê tiện này của bọn thực dân. Chị Nguyễn Thị Giang bí mật đuổi theo đoàn xe. Đến ga Hàng Cỏ, chị biết thực dân đã đưa các đồng chí của mình lên Yên Bái. không còn nghi ngờ gì nữa. Pháp trường Yên Bái đang chờ các đồng chí của mình đây. Và chị quyết định táo bạo là ngay đêm đó cũng lên Yên Bái.

Chuyến xe lửa đặc biệt này đã lao trong bóng đêm. Ngoài những tên mật thám, binh lính và 13 tù nhân thì còn có hai viên cố đạo Méchet và Dornet. trên tàu những người tù vẫn nói chuyện phiếm với nhau vui vẻ. Chính cố đạo Méchet đã tiết lộ là họ bị đưa lên Yên Bái. Nghe vậy, anh Phó Đức Chính nói đùa với Nguyễn Thái Học:

- Đến Yên Bái, chúng ta sẽ được đón tiếp long trọng lắm đây. Thế nào bốn anh Thịnh, Hoằng, Thuần, Thuyết cũng đợi chúng ta ở sân ga.

Đó là bốn người bị Pháp đưa lên máy chém ở Yên Bái. Ngồi hóng chuyện, cố đạo Dornet nói:

- Đến lúc này mà các ông còn đùa được à?

Phó Đức Chính đáp:

- Được chết cho Tổ quốc là chết vinh dự. Vậy tại sao lại buồn?

- Vẫn biết thế nhưng trước khi lìa bỏ trần gian này, các ông có cần chúng tôi rửa tội không?

Nguyễn Thái Học trả lời:

- Chúng tôi là những người chiến bại, chứ đâu phải là những người có tội?

Phó Đức Chính nói thêm:

- Chúng tôi có phạm tội gì đâu mà phải ăn năn thú tội?

Viên cố đạo đuối lý ngồi câm như hến. Chuyến tàu vẫn vun vút xé màn đêm lao về phía trước.

Họ đã đến nhà ga Yên Bái vào lúc nửa đêm. Những ngọn đèn điện thưa thớt, không rọi đủ ánh sáng. Thành phố chìm trong sương mờ với những vũng sáng loe lét hoang vu. Vắng ngắt. Không một bóng người qua lại. Chỉ thấp thoáng bóng người lính bồng súng. Mờ nhạt. Như những xác chết đang di động. Những người tù bị tống vào nhà giam.

Trong lúc này, chị Nguyễn Thị Giang cũng lên Yên Bái. Chị đem theo một khẩu súng, một quả bom với ý định phá pháp trường Yên Bái. Đêm đó, bọn lính canh gác quá cẩn mật nên chị không thực hiện được mục đích của mình. Bốn giờ sáng hôm sau, ngày 17-6-1930, khi cả thành phố Yên Bái còn ngái ngủ trong sương mù, rét lạnh tê người, chị đã có mặt gần chỗ pháp trường.

Đúng vào lúc 5 giờ kém 5 phút, 13 chiến sĩ được đưa ra khỏi nhà giam. Bọn lính đã áp tải họ đến pháp trường. Đây là một khu đất trống, giống như bãi đá banh. Xung quanh có mấy dãy nhà gạch làm trại lính khố xanh và nhà tiếp đón khách vãng lai của chính quyền. Có trên bốn trăm binh lính được phái đến vây kín pháp trường. Công chúng hiếu kỳ kéo đến xem độ một trăm người. Họ bị đuổi ra xa. Trong số này có chị Nguyễn Thị Giang, chị cải trang thành người đàn ông, trùm chiếc pardessus màu đen, chị đứng nép bên gốc cây. Nước mắt chảy dài trên khuôn mặt xinh đẹp của chị. Môi chị tái mét vì lạnh. Chị nhắm mắt đứng yên như pho tượng.

Đúng 6 giờ sáng, những nhà cách mạng bắt đầu bị hành quyết. Người giật lưỡi dao của máy chém lần này là Cai Công, cũng là một giám thị trong nhà tù Hỏa Lò. Cứ chém xong một phạm nhân thì y xách thủ cấp giơ lên cao như để trình bày là đã xong việc. Người đầu tiên bước lên đọan đầu đài là Đào Văn Nhật. Anh vừa hô “Việt Nam…” thì bịt miệng. Cai Công liền giật lưỡi dao xuống. Máu phun lên thành vòng. Bầu trời trở nên đen ngòm như rũ tang cho những người con trung kiên đã chết vì Tổ quốc. Lần lượt những chiếc thủ cấp của người cách mạng rụng dần dưới lưỡi dao đầy tội ác. Người thứ mười hai là anh Phó Đức Chính. Anh gan dạ đòi nằm ngửa để nhìn tận mắt lưỡi dao chém và anh đã hô to được: “Việt Nam vạn tuế”.

Nguyễn Thái Học là người bị xử cuối cùng. Anh gầy yếu hơn trước. Hai con mắt anh sâu thẳm. Má hóp lại. Đầu anh bị cạo trọc. Hai tay bị trói quặc ra phía sau lưng. Anh thản nhiên bước đi đến máy chém. Anh nhìn thẳng. Không ngó ai cả. Tất cả đám đông như nín thở. Im lặng đến rùng mình. Vừa đi, anh vừa đọc những câu thơ bằng tiếng Pháp:

Mourir pour sa patrie

C’est le sort le plus beau

Le plus digne d’envie…

Anh đứng trên bục sắt đen ngòm. Anh nghiêng người xuống chào đồng bào lần cuối cùng rồi hô to “Việt Nam Vạn tuế”. Lưỡi dao lạnh ngắt, sắc bén đột ngột rơi mạnh xuống cổ anh kêu một tiếng “phập”. Dòn máu nóng tỏa lên bầu trời đang xám xịt. Đầu anh rơi xuống một chiếc thùng đựng mạt cưa kê dưới bàn máy chém. Ngay sau khi anh đọc xong những câu thơ thì chị Nguyễn Thị Giang đã rời khỏi chỗ đang đứn. Trong tâm trưởng chị vọng lên hào hùng những lời nhắn nhủ cuối cùng của anh:

Chết vì Tổ quốc

Cái chết vinh quang

Lòng ta sung sướng

Trí ta nhẹ nhàng…

Chị trở về nhà trọ nằm vật vã và khóc. Hài nhi nhỏ bé đang cựa quậy trong bụng chị. Chị nhớ đến những lời thệ hải minh sơn với anh, lòng chị quặn thắt lại. Nagy sau khi hành quyết xong, xác chết của 13 người anh hùng này được thực dân chôn chung dưới chân đồi Cao, bên cạnh đền thờ Tuần Quán – Cách ga xe lửa Yên Bái độ một cây số. Chị lại khóc nức nở. Than ôi! Tìm lại người xưa nơi đâu? Sau khi suy nghĩ chín chắn, chị ngồi dậy viết hai lá thư tuyệt mệnh trên trang giấy khổ hẹp bằng nét bút chì xanh. Nước mắt ướt đẫm trang giấy.

Ngày 17 tháng 6 năm 1930

Thưa thầy mẹ,

Con chết vì hoàn cảnh bó buộc: không báo thù được cho nhà, không rửa nhục được cho nước. Sau khi đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con ở Đền Hùng, giờ con tìm về chốn quê cha đất Tổ mượn phát súng này kết liễu đời con.

Đứa con dâu thất hiếu kính lạy.

Bức thư thứ hai cô Giang viết cho người chồng của mình để gửi về nơi chín suối:

Anh đã là người yêu nước

Không làm tròn được nghĩa vụ cứu nước. Anh giữ lấy tấm linh hồn cao cả để về chiêu binh, rèn kiếm dưới suối vàng.

Phải chịu đựng nhục nhã, mới mong có ngày vẻ vang. Các đồng chí phải sống lại sau Anh để đánh đổ cường quyền mà cứu lấy đồng bào đau khổ.

Sống nhục sao bằng sự thoát vinh

Nước non cho vẹn kiếp chung tình

Lưỡi dao xử tử chàng không ngại

Tiếng súng quyên sinh thiếp cũng đành

Một tấm can tràng trời đất thảm

Ngàn thu vẹn tiết quỷ thần kinh

Cuộc đời xá kể chi thành bại

Trai trung thì gái phải trinh.

Nguyễn Thái Học phu nhân

Viết xong hai lá thư, cô Giang giấu kín trong người, rồi chị ra chợ mua mấy vuông vải trắng để làm khăn tang chồng. Ngay chiều hôm đó, chị đón xe lửa sang Vĩnh Yên.

Tờ mờ sáng hôm sau, chị trở về làng Thổ Tang,vào tận nhà Nguyễn Thái Học để báo tin chồng mình đã bị hành hình. Chị cúi xuống lạy tạ thân sinh của chồng và nói lại mấy lời trối trăng. Bà Nguyễn Thị Quỳnh - mẹ của anh Nguyễn Thái Học ngậm ngùi nói với con dâu:

- Học đã đền nợ nước. Thằng Nho thì đang ngồi tù Hỏa Lò. Âu đó cũng là dũng khí của con dân trong nước nô lệ. Đừng buồn nữa con à! Con ở đây với u, dưa muối đắp đổi qua ngày mà mưu việc lớn con ạ!

Chị Giang òa lên khóc nức nở. Bà cụ cứ khuyên nhủ. Một lát sau, chị đứng dậy, lau nước mắt rút trong người hai lá thư đưa cho bà cụ. Quay về phía Nguyễn Văn Lâm – em ruột của Nguyễn Thái Học – đang ngồi cạnh đó, chị tháo chiếc đồng hồ đang đeo tay, mặt sau có khắc chữ “G” trao cho Lâm:

- Chú giữ lấy di vật cuối cùng của chị. Những lúc tâm hồn dao động, mất niềm tin vào phong trào cách mạng thì hãy nhìn vào chiếc đồng hồ này mà tự nhủ hãy sống sao cho xứng đáng với cái chết oanh liệt của anh Học.

Nguyễn Văn Lâm run run nhận từ tay chị Giang chiếc đồng hồ đó. Anh rưng rưng nước mắt. Chị Giang lại cúi lạy mẹ chồng của mình, rồi đứng dậy tất tả bước ra ngoài. Chị đi đến cái quán giữa đồng cạnh làng Thổ Tang, nơi đó đã có lần chị cùng Nguyễn Thái Học cùng ngồi trò chuyện. Lòng chị đau thắt. Cầm bát nước chè xanh trên tay, chị nghĩ đến Đảng, đến nước, đến sự sống và cái chết đang giao tranh mãnh liệt. Chị nhớ đến lời đã thề nuyền với chồng: “Nếu anh có vì Tổ quốc mà hy sinh thì em cũng quyết dùng khẩu súng này để chết theo”. Chị đưa tay chạm vào khẩu súng. Chị trào lên nỗi xúc động mãnh liệt. Khẩu súng này chính Nguyễn Thái Học đã trao cho chị. Biết bao giờ mới gặp lại cố nhân? Chị đứng lên từ biệt bà chủ quán. Bước ra khỏi quán, chị đến ngã ba Bồ Đề - chỗ rẽ vào làng Phù Tang - chị rút súng ra bắn vào thái dương rồi ngã vật xuống đất, súng văng ra một bên. Đó là lúc chiều ngày 18-6-1930.

Cái chết của chị đã gây chấn động trong dư luận. Viên hương lý xã vội vàng báo lên cho tri phủ Vĩnh Tường. Phủ báo lên tỉnh, công sứ tỉnh Vĩnh Yên liền đánh điện về Sở mật thám Hà Nội.

Thân thể của chị Giang nằm phơi sương nắng cho mãi đến 4 giờ chiều ngày hôm sau bọn thực dân mới kéo đến. Tên Arnoux còn bắt dẫn thêm hai đản viên VNQD Đảng lên nhận mặt. Họ xác nhận đúng là Nguyễn Thị Giang. Viện cớ khám nghiệm, chúng lột hết quần áo của chị, biết lúc này chị đang có thai được mấy tháng, thế nhưng khi khám nghiệm xong, chúng không cho mặc lại. Rồi hạ lệnh cho tri phủ Vĩnh Tường mai táng, chứ không cho phép gia đình Nguyễn Thái Học làm phận sự ấy. Công sứ Vĩnh Yên ra lệnh đào huyệt sâu ba mét, trên đáp thành nấm tròn, không cho dựng bia ghi tên người đã khuất. Mặc cho gần mộ có điếm canh của bọn tuần phu, nhưng trên mồ chị bao giờ cũng được phủ đầy những bó hoa đỏ thắm mà nhang khói nghi ngút…

Cái chết oanh liệt của chị gây xúc động cho bậc ái quốc Phan Bội Châu. Thời gian này cụ đang bị giam lỏng ở Huế, cụ có làm bài văn tế cô Giang. Trong bài văn tế này, cụ viết hết sức cảm động và tự xưng mình là “Em Châu” với lòng ngưỡng mộ “Vóc quần thoa nhưng chí khí tu mi”:

Em Châu nay: tình nghĩa cảm sâu, duyên xưa tất thiệt

Tầng mấy lúc hồng đi cá lại, ước ao chung gánh ruổi trường đồ

Giận bao phen én Bắc nhạn Nam, đau đớn chia tay thành vĩnh biệt!

Nợ hồ thỉ em chưa trắng sổ, mài nanh giũa vuốt,

ước ba sinh chắc có ngày đền

Thù nước nhà chị hãy tím gan, nuốt muối ngậm gừng,

hồn chín suối chờ xem trời xét

Than ôi! Khóc chẳng gì hay. Nói không kể xiết.

Một nén tâm hương. Mấy lời thống thiết!

Sau khi xử chém Nguyễn Thái Học thì thời gian sau, thực dân Pháp tiếp tục đưa những đảng viên VNQD Đảng lên đoạn đầu đài, trong số đó có Nguyễn Văn Nho – em ruột của Nguyễn Thái Học và Ký Con…

Có thể nói, nếu tính từ ngày thành lập VNQD Đảng mà Nguyễn Thái Học phụ trách với cương vị chủ tịch Đảng (15/12/1927) đến lúc anh bước lên  máy chém thì câu khẩu hiệu anh đề ra “Đuổi giặc Pháp về nước Pháp, đem nước Nam trả người Nam” đã không thành công – nhưng mục đích “thành nhân” thì đã đạt. Cuộc cách mạng “máu và sắt” của VNQD Đảng khởi đầu bằng khởi nghĩa Yên Bái đã đi vào lịch sử đấu tranh của dân tộc.

Giữa lúc cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị giặc Pháp dìm trong biển máu, những người lãnh đạo chủ chốt của VNQD Đảng đều bị bắt hoặc bị giết thì ngày 3/2/1930 tại Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc) dưới sự chủ tọa của Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự xuất hiện của Đảng Cộng sản Việt Nam trên vũ đài chính trị là một bước ngoặc lớn của lịch sử cách mạng nước ta.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã hành độn và thực hiện được nhiều vấn đề  trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà trước đó VNQD Đảng đã không thực hiện được.

Sau sự kiện 13 yếu nhân VNQD Đảng lên đoạn đầu đài thì gần như toàn bộ đảng viên và cán bộ của đảng bị đày ra Côn Đào và một số nhà tù khắc nghiệt khác. Trong những tháng ngày ấy, sau những lần tranh luận nảy lửa, một số đảng viên VNQD Đảng đã gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam – vì họ ý thức được rằng, chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể lãnh đạo và tiến hành thành công cuộc cách mạng này. Có thể kể đến những đảng viên như Trần Huy Liệu, Tô Chấn, v.v… và quan trọng hơn cả là Phạm Tuấn Tài - một yếu nhân của Nam Đồng Thư Xã, người có mặt đầu tiên đóng vai trò rất quan trọng trong việc sáng lập VNQD Đảng – anh đã đọc cho đồng chí tin cậy của mình là Trần Huy Liệu chép lại bản Tuyên Cáo Đồng Chí nói lên xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam là phải do giai cấp vô sản lãnh đạo mới thành công được. Đây cũng là sự chuyển biến tư trưởng từ chủ nghĩa yêu nước tư sản sang chủ nghĩa Mác-lênin của một số đảng viên VNQD Đảng – những người thực sự đổ máu thanh xuân của mình vì độc lập tự do cho tổ quốc. Bản Tuyên Cáo Đồng Chí này có đoạn viết: “Do những điều kinh nghiệm về cách mệnh, tôi nhận thấy rằng: Muốn phá họai một xã hội cũ và kiến thiết một xã hội mới, lực lượng cách mệnh chỉ có thể trông vào cái giai cấp nào trong xã hội bị bóc lột hơn hết. Và muốn đánh đổ chế độ hiện thời, những phần tử cách mệnh ở các dân tộc bị áp bức phải liên kết với công nông và quần chúng lao khổ ở các nước tư bản mà thành lập một trận tuyến chung. Chủ nghĩa quốc gia đã trái mùa, cả đến chủ nghĩa xã hội dân chủ hay Tam dân chủ nghĩa cũng chỉ là những cải lương dở dang không công hiệu. Nói rõ hơn, chỉ có chủ nghĩa Mác-lênin mới có thể phá tan được xã hội giai cấp mà dẫn nhân loại tới thế giới đại đồng”.

Về phía Đảng Cộng sản Việt Nam mặc dù không tán thành chủ trương khởi nghĩa của VNQD Đảng, nhưng những người cộng sản vẫn tích cực phát động phong trào quần chúng chống khủng bố và đòi trả tự do cho các chiến sĩ kiên cường đã tham gia khởi nghĩa Yên Bái và cũng trong thời điểm này trên tờ Front Rouge (Mặt trận đỏ) phát hành tại Pháp, nhà thơ cộng sản Louis Aragon đã viết bài thơ:

Yen Bay,

Quel est vocable qui rappelle qu’on ne baillone pas un peuple qu’on ne le mate pas avec le sabre du bourreau.

Yen Bay

A vous frere jaunes ce serment: pour chaque goutte de votre vie coulera le sang d’un Varenne.

Tạm dịch như sau:

Yên Bái,

Đây là cái từ nhắc nhở chúng ta rằng không thể bịt miệng một dân tộc mà người ta khuất phục bằng lưỡi kiếm cong của đao phủ.

Yên Bái,

Gửi đến các bạn da vàng lời nguyền này. Để mỗi giọt của cuộc sống các bạn sẽ tràn máu của một tên Varenne.

Ngày 8/2/1931, người cộng sản trẻ tuổi Lý Tự Trọng đã làm một việc rất ý nghĩa: Tại thành phố Sài Gòn, nơi sân bóng Mayer, sáng chủ nhật đó có diễn ra trận bóng đá, khi kết thúc trận đấu bóng, một cuộc mít tinh chớp nhoáng đã được những người cộng sản tổ chức. Cờ đỏ búa liềm được giương cao. Ông Phan Bôi (tức Hoàng Hữu Nam) đã đứng lên diễn thuyết bằng bài diễn văn nẩy lửa. Trong khi đó một số người khác đi phân phát những tờ truyền đơn kỷ niệm khởi nghĩa Yên Bái của VNQD Đảng và kêu gọi người Việt Nam đứng lên chống Pháp. Chính lúc ấy một thảm kịch đã xảy ra, để bảo vệ cho đồng chí của mình, Lý Tự TrCuộc mít tinh đang diễn ra thì tên mật thám Legrand cùng đồng bọn xông vào đuổi bắt người diễn thuyết. ọng đã rút súng ra bắn hai phát vào tên mật thám Legrand và theo tường thuật của báo Courrir Saigonnaise ra đúng một năm sau ngày khởi nghĩa Yên Bái (29/9/1931) đã tường thuật: “Và như một cây sồi, chịu một nhát rìu dứt điểm của người tiều phu, ông cò Legrand với tất cả sức lực của tuổi thanh niên, đã ngã xuống chết liền. Sau khi tiếng súng nổ thì cò Borel đứng sau đồng nghiệp của anh ta vài mét, nhào tới cứu nguy, đồng thời đảo mắt nhìn quanh. Ông thấy một người đang bỏ chạy. Không nghi ngờ gì nữa. Ông Borel đuổi theo. Người đó quay lại bắn hai phát vào Borel. Borel cúi xuống, hai viên đạn bay qua đầu trúng cái mũ…”. Sau đó bọn thực dân đã bắt được Lý Tự Trọng và đưa anh ra tòa án Sài Gòn. Tại đây anh đã tuyên bố đầy khí phách:

- Không có gì phải ăn năn cả. Tôi hành động có suy nghĩ. Tôi hiểu việc tôi làm. Tôi làm vì mục đích cách mạng. Chưa đến tuổi trưởng thành nhưng tôi đủ trí khôn để hiểu con đường của thanh niên là con đường cách mạng.

Nửa đêm về sáng của ngày 21/11/1931, thực dân đã đưa anh rời khỏi xà lim để lên máy chém. Trước lúc lìa đầu ra khỏi cổ, anh đã cất lên tiếng hát: “Vùng lên hỡi các nô lệ ởthế gian…”. Năm đó, Lý Tự Trọng tròn 17 tuổi - bằng tuổi với rất nhiều đảng viên VNQD Đảng đã lên đoạn đầu đài trước anh.

Sau này, khi đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, và đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội – thì những người cộng sản khi biên soạn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (NXB Sự Thật 1983) đã công bằng nhận định về vai trò lịch sử của VNQD Đảng như sau: “Tuy vậy, cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã cổ vũ tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc của nhân dân ta. Những gương hy sinh dũng cảm của các chiến sĩ Yên Bái đã góp phần chứng tỏ truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam”. (Tập I, trang 116).

Những lời nhận định thỏa đáng này, hẳn nơi chín suối người anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học và những đồng chí của anh đều mỉm cười toại nguyện. Và họ càng toại nguyện hơn, sung sướng hơn khi biết rằng, chỉ mười lăm năm sau, tại Ba Đình – nơi cách nhà tù Hỏa Lò không xa – nhà cách mạng thiên tài Hồ Chí Minh - Nguyễn Ái Quốc hoạt động cùng thời với anh đã được cả dân tộc bị áp bức nay vùng dậy giao phó cho nhiệm vụ đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã được khai sinh. Một thành quả vĩ đại mà lúc sinh thời Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của anh đã nguyện phấn đấu hy sinh đến giọt máu cuối cùng cũng vì mơ ước thiêng liêng đó.

Lê Minh Quốc

(Viết và sửa chữa xong ngày 26/11/1994)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com