LÂM BÍCH THỦY: Người cùng thời với ba tôi - nhà thơ YẾN LAN


Những dịp về thăm quê, tôi thường được các anh chị lớn tuổi kể lại những  việc ba tôi đã làm; đọc lại những bài thơ của ba tôi - nhà thơ Yến Lan đã sáng tác trong thời gian Cách mạng Tháng Tám và  Kháng chiến kiến quốc cho tôi nghe.

nhathoyen_lan_thoi_tre

Nhà thơ YẾN LAN thời trẻ

 

Anh Cao Kế có viết trên Tạp chí Văn nghệ Bình Định: “Nơi nào tôi không biết chứ ở ”Phòng thông tin” An Nhơn thời ấy, dưới sự chỉ đạo của anh Yến Lan, công tác tuyên truyền khá sinh động. Ngoài việc đọc tin, bài. Còn có ngâm thơ, hát những bài ca Cách mạng, hô bài chòi, có đưa ra những câu thơ để đố. Chính anh Yến Lan là người đảm nhiệm chuyên mục này. Anh sáng tác một số câu thơ ẩn ý để đố về tên các loại vũ khí, các huyện trong tỉnh, các cửa hiệu thị trấn…Hoặc tổ chức thi, khuyến khích khán thính giả gửi bài về “Phòng thông tin”. Đến ngày định trước, anh phân tích các câu thơ đã đố và đưa ra lời đáp án. Ai trả lời đúng được nêu tên trước thính giả, được đám đông hoan nghênh nhiệt liệt. Chỉ có thế mà tác dụng rất lớn, khích lệ người dự thi rất đông". Đúng như ba tôi đã ghi nhận:

Ôi Bình Định, đau thương gài trước ngõ,

Mẹ ru con trong bóng tối phập phồng.

Trong tay áo còn nghe dài tiếng thở,

Bỗng thấy quanh thềm hát núi, ca sông.

(Bình Định 1945)

Tinh thần đó đã chuyển hóa thành những hành động cụ thể, người dân luôn trong tư thế sẵn  sàng, thơ ba tôi đã ghi lại không khí hào hùng khi ấy:

Ta giấu kho hàng

Ta dồn lều lưới

Hầm chồng cát dội

Địch mà cập bến

Kẻng nhanh thúc hồi

Nào anh em ơi

Súng giáo không rời…

Người trí thức trong huyện, bấy giờ luôn đi đầu, đồng cam cộng khổ với quân dân trên mọi trận tuyến:

Tôi sống những ngày thân cò lặn lội

Gánh gạo, phá thành, đốt đuốc dời kho

Cùng xứ sở chung ngọn đèn le lói

Ngày như đêm tiếp mãi lửa căm thù...

Hồi ấy, tôi còn nhỏ, chưa được tham gia vào tổ chức nào, song cũng đã biết nhận diện rành rọt việc ba làm. Ông bận rộn, tất bật cả ngày nên tôi nghĩ trong bụng: “Ba là người giỏi giang và quan trọng nhất phố huyện mình”. Ba lo chỗ ăn, chỗ ở cho các chú bộ đội về làng. Ba đi sớm về khuya, có bữa không kịp ăn. Tối thì tập kịch cho các anh chị thanh thiếu niên. Kịch thường là những câu chuyện đời thường, tốt thì phát huy khen thưởng, xấu thì góp ý để sửa chữa. Những vở kịch ngắn do ba sáng tác, diễn theo lối hô lô tô hay bài chòi. Tôi đứng xem các anh chị tập, rồi cũng thuộc đến tận giờ; như bài vè về các loại xe thời đó:

Vè vẻ vè ve  

Cái vè xe cộ    

Rồ rồ máy nổ    

Là chiếc xe goòng    

Kính kính cong cong  

Là chuông xe đạp

Chạy bay như táp

Ép ép đó đây

Ép ê xe ngựa

Đường hư ta sửa

Chạy sớm chạy đêm

Giặc Pháp cố ngăn

Xe ta vẫn chạy.

Thuở ấy, tôi không biết “Thi sĩ” là chức gì nhưng thấy mọi người nể trọng ba lắm - nhất là các chú bộ đội mới về làng. Ba tôi là cán bộ được lãnh đạo huyện tin tưởng giao những trọng trách quan trọng ở huyện. Nhà có một cái kệ bằng gỗ xoan, ba tự đóng, bự lắm. Trên đó, ba chất sách Tây, Tàu và tài liệu. Ba dặn: “Không được đứa nào lấy thứ gì trên này chơi, mất nó ba bị bỏ tù!”. Tối nào cũng có một chú đến lấy một vài tờ trên kệ, ra chòi đọc vào loa cho dân thị trấn nghe.

Trong những năm cuối đời, sống tại quê nhà, các anh chị từng được ba dạy học, hay tham gia trong đội kịch Yến Lan, thấy ông kém may mắn hơn bạn cùng thời nên thường tưởng nhớ lại quá khứ mà ba đã đi qua một cách nuối tiếc. Trong Cách mạng, những ai cùng tham gia với ông, đều chứng kiến ba rất tận tâm, sẵn lòng hết mình với công việc. Ông không mảy may do dự, so đo, tính toán, một lòng theo Cách mạng, tham gia cứu quốc đến cùng.

Tôi đã ôm ngọn lửa làm người

Dù leo lét nhưng không hề để tắt

Năm lên tám tuổi, tôi đã chứng kiến được rất nhiều việc ba làm, như khi máy bay đến oanh tạc, ba bảo các anh thanh niên tìm khăn, vải xita nhúng nước phát cho dân đắp mặt để tránh bom mang khí độc.

Có một hôm, tôi đang chơi đồ hàng cùng các em thì nghe tiếng ba cảnh báo: “Bà con mau xuống hầm, một chiếc khu trục đang quần ở cửa Đông,  chiếc nữa đang lượn lờ trên khu chợ; chực thả bom xuống đầu ta đấy.” Lời ba vừa dứt thì tiếng gầm rít của động cơ máy bay, tiếng nổ của bom bùm bùm… tiếp theo gió, bụi tung khắp mặt đất… Rồi, máy bay mất dạng, thị trấn trở lại yên ắng, nhưng tôi lại thấy nhiều người chạy về hướng có tiếng kêu la inh ỏi: “Tội quá, Cả nhà ông Thái Thạnh bị trúng bom chết hết, ông ấy đứng trên miệng hầm xem máy bay oanh tạc thì  bị sức ép hất ra xa, bị thương nặng lắm, không biết có qua khỏi không?!  ôi nghe tiếng rên và nhìn thấy ông Thái Thạnh đang lê tấm thân đầy máu, áo quần cháy đen, kêu lên thảm thiết: “Anh Yến Lan ơi! cứu tôi với! nóng quá! Yến Lan ơi! tôi chết mất!”. Tiếng rên ấy như xé nát tim ba tôi. Ông cắt cử hai anh võng ông lên Nhà thương Kim Châu. Vì vết thương quá nặng, ông đã chết trên đường đi!

Chuyện ông Thái Thạnh về sau tôi còn nghe:

Trước kia, nhà ông buôn vải được trời cho lộc. Chủ hàng bên Trung Quốc, gửi cho bà con Hoa Kiều ở Bình Định một số vàng. Vàng này được dát mỏng, cuộn lẫn vào súc vải. Người nhà không biết, đem bán tất cả cho bạn hàng. Gia đình ông Thái Thạnh may mắn mua được mấy súc. Nhờ số vàng này, gia đình ông trở nên giàu nhất nhì thị trấn bấy giờ. Vì vậy, khi gặp nạn này, người ta lại nói “Lộc Trời bất tận hưởng!”; hay “Được bạc thì sang, được vàng thì lụi”. Chuyện đó thật hư thế nào tôi đã nghe kể như vậy thôi.

Năm 1951, có chủ trương giảm biên chế ở lĩnh vực Hành chính và Y tế tại các tỉnh miền trung-Trung Bộ. Bình Định, nhờ có vựa lúa của huyện Tuy Phước, không bị đói như các tỉnh bạn. Bình Định có đường quốc lộ I ngang qua thị trấn An Nhơn đã trở thành điểm hẹn văn hóa lý tưởng cho văn nghệ sĩ các tỉnh bạn. Ba tôi và chú Khánh Cao tập họp những văn nghệ sĩ đã về sống ở An Nhơn, thành lập Đoàn kịch Liên Khu Năm. Đoàn kịch do ba làm trưởng đoàn. Ông giữ chức vụ này cho đến khi ra tới Hà Nội (3/1955).

Song le, nói đi cũng nên nói lại. Bên cạnh những chiến công hào hùng của quân dân; Bình Định cũng đã để xảy ra một vài sự việc đáng tiếc. Chuyện này do ba tôi kể lại:     

Khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ trên toàn quốc; ở tại thị trấn An Nhơn, chính ba tôi và cậu Thúc Thành của tôi, tự đứng lên kêu gọi dân chúng và dẫn đầu một đoàn gồm dân, quân, trí thức đi cướp chính quyền về trao cho Ủy ban Kháng chiến huyện. Vậy mà có người cố tình không hiểu, đã tìm trăm phương nghìn kế để triệt hạ ông, lý do: “Yến Lan đã từng dạy học tại trường Mission của Pháp ở Thanh Hóa, tức là làm tay sai cho giặc, là phản động, phải loại bỏ không thương tiếc! Khổ một nổi, hồi đó, nhân dân bị ảnh hưởng từ câu khẩu hiệu của Phong Trào Xô viết Nghệ Tỉnh đề ra: “Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rể”.

Người muốn đào tận gốc, rể của trí thức ở huyện, và tích cực nhất là ông Châu và ông Dước. Trình độ ông Dước chỉ học đến đệ tam (lớp 2-3 bây giờ), là cai đồn điền cao su Phú riềng trốn về. Ông ta căm ghét Yến Lan tận xương tủy vì không thích sự nổi tiếng của nhà thơ.

Hôm đó, Ủy ban Kháng chiến thông báo cho nhà thơ Yến Lan là cần triệu tập nhân dân thị trấn để phổ biến chủ trương chính sách của Đảng mới nhận được. Nhà thơ đến Phòng Thông tin, cử người loa báo cho bà con biết để đi họp đông đủ. Sau đó, ông tới thẳng điểm họp chờ dân đến. Ở đấy, ông thấy đã có hai cán bộ lãnh đạo; một của huyện và một đại diện ở Bồng Sơn vào, đang ngồi nói chuyện ở dãy ghế đầu. Nhà thơ hớn hở tới đó. Bỗng, ở đâu, ông Dước xuất hiện, sải chân, ngán đường và hất bộ mặt bóng lộn như bôi dầu, xách mé:  

- Này Yến Lan, đi đâu đấy?

- Sao anh hỏi lạ vậy, tôi đi họp chứ đi đâu?

- Đi họp sao không về chỗ ngồi còn lên đây làm gì?

- Thì tôi đang đến chỗ ngồi đây.

- Chỗ ông ở đâu trên này mà lên?

- Thế chỗ của tôi ở đâu?

- Chỗ của ông là ở dưới kia - Ông ta nhếch mép vẻ khinh khi, đưa bàn tay sần sùi, móng tay cáu đen, cụt ngủn như những quả chuối đẹt, chỉ xuống băng ghế tận cùng, nói:

- Đó, chỗ ông ở dưới, xuống đó mà ngồi.

Nhìn theo tay chỉ dãy ghế cuối cùng dành cho người đến sau; nhà thơ thấy mình bị xúc phạm quá mức, mặt nhà thơ bừng bừng, cục tự ái ứ lên tận cổ,  song ông gìm lại được; không thèm trả lời, lách mình sang trái, đến thẳng dãy ghế dành cho Ban lãnh đạo. Hành động này như đổ thêm dầu vào lửa đối với ông Dước; khiến ông ta tức điên, mặt hầm hầm.

Thời gian này, tôi còn nghe má cằn nhằn với ba: Ông làm gì mà để họ xì xầm nhiều thế.” Và tôi nghe ba giải bày: “Tôi có làm gì bậy đâu mà má nó lo đến thế”. Nhưng vài hôm sau đó, lại thấy ba lấy túi, xếp áo quần vào và nói với má là ra Bồng Sơn. Tại Bồng Sơn, thoạt nhìn thấy ba bước vô Đồn (cảnh sát), ông Minh Vĩ - Trưởng ban Kháng chiến tỉnh Bình Định, ngạc nhiên hỏi:

- Yến Lan! Cậu đi đâu mà lạc ra tận đây?

- Nghe nói các anh sắp cho tôi đi an trí (tù), tôi tự ra đây trước để các anh đỡ vất vả.

- Bậy nào! đúng là mình có nghe nhiều tin đồn thất thiệt về cậu, biết là ý đồ bọn xấu, hòng phá vỡ tình đoàn kết giữa trí thức với dân, làm tổn hại Cách mạng. Nếu tin họ, mình đã lôi cổ cậu ra lâu rồi chứ đợi đến giờ sao?

Rồi, ông cười cười, bảo:

-Thôi về đi, kẻo gia đình lo!

Ông Châu và ông Dước còn họp kín, bí mật bàn kế hoạch thủ tiêu tên tay sai của địch: “Bắt Yến Lan bỏ bao tải dìm chết rồi thả trôi sông”. Thật may! trong nhóm họp kín có ông Nguyễn Thoại, người tham gia “Đội kịch Yến Lan” kịch liệt phản đối: “Các anh làm như thế là bậy! Yến Lan không làm gì sai sao ta cứ cố tìm cách hại anh ấy. Với ai chứ với Yến Lan tôi kịch liệt phản đối hành động này...”.

Sau giải phóng, chú đến nhà ôn lại chuyện cũ với ba. Chú Thoại cười hiền, tự hào nói: “Tôi đã cứu được cho văn học nước nhà và quê hương Bình Định một nhà thơ lớn”. Còn với vợ con, ba tôi căn dặn: “Ba còn sống được đến giờ, là nhờ có chú Thoại đấy. Công chú lớn lắm các con đừng bao giờ quên!”.

Chúng tôi nhớ mãi người đã cứu ba tôi.

Nhà bác học A.Einstein đã đúc kết từ trong trải nghiệm của mình: “Phá vỡ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ một nguyên tử”.

L.B.T

(Trích Hồi ký Về người cha thi sĩ của Lâm Bích Thủy)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com