BÁO CHÍ Lê Minh Quốc viết LÊ MINH QUỐC: Tác phẩm Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt của nhà văn Đoàn Tuấn - CHỈ CÒN LẠI TÌNH YÊU...

LÊ MINH QUỐC: Tác phẩm Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt của nhà văn Đoàn Tuấn - CHỈ CÒN LẠI TÌNH YÊU...

 

10chi-con-lai-tinh-yeuRRR

“Tôi có thể khẳng định với bạn, dù bạn biết nhiều danh lam thắng cảnh, dù bạn thưởng thức nhiều món ăn hảo hạng, nhưng không có gì thú vị bằng việc được khám phá những điều kỳ lạ về cuộc đời và số phận của con người, nhất là những người từ chiến trận trở về. Những người mẹ, người vợ, người con… của các đồng đội tôi, dù họ ở hậu phương, nhưng những năm tháng đó, khi những người thân của họ ra trận, trái tim họ cũng hành quân theo. Và khi những người thân ngã xuống, trái tim họ cũng chết theo. Tôi có thể khẳng định điều này theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Những câu chuyện của họ, về họ như những viên thuốc nhỏ giúp đồng đội tôi, gia đình họ và bạn đọc có thể cùng nhau sống một cách vui vẻ hơn trong cuộc sống đầy biến động và lẻ loi” (tr.293).
Những dòng này, nhà văn Đoàn Tuấn đã chấm dứt tác phẩm Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt (NXB TH TP.HCM-2022), ít nhiều cho ta biết suy nghĩ mà anh muốn gửi gắm đến bạn đọc. Đây là câu chuyện của nhân vật cựu chiến binh tên Ánh, sau khi đã lo toan xong công việc của người làm cha, làm chồng, từ Hà Nội anh đã tự nguyện quay lại chiến trường xưa: Campuchia. Vùng đất này, những tháng năm tuổi trẻ, anh cùng đồng đội đã chiến đấu vì sự hồi sinh của một dân tộc đang bên bờ vực thẳm của sự diệt chủng.
Điều bất ngờ nhất, Ánh lại trở thành nhà sư cùng với các nhà sư khác trên quê hương Chùa Tháp đã hành hương nguyện cầu cho những người đã khuất. Có thể đó thường dân, quân tình nguyện Việt Nam, kể cả những ai đã gây ra sự thù hận, chết chóc… thể hiện trong bài văn tế lúc cầu siêu cho chiến binh Việt Nam đã chết khát trong một trận giao chiến khốc liệt tại cao điểm 547 Preah Vihear: “Nước cam lồ đồng đội mình cùng uống/ Nước ngọt nước thơm nước mát nước lành/ Đồng đội gọi thêm tất cả chúng sinh/ Lính Lon Nol, S’rayaka, Pol Pot/ Tất cả cùng về đây cùng uống/ Dòng nước từ bi trong sạch tâm hồn/ Hòa bình đã về trên khắp quê hương…” (tr. 183).
Có thể nói, ý nghĩa cao đẹp của tác phẩm này vẫn là cảm xúc chan chứa tình người. Người sống sót sau cuộc chiến và thế hệ trẻ lớn lên sau ngày đất nước Campuchia hồi sinh đã có cái nhìn nhân văn về quá khứ: khép lại những năm tháng u uất, đen tối, chết chóc, hận thù đó bằng tình yêu thương vĩnh cửu của con người. Và ngay cả đất đã từng chứng kiến biết bao bi đát, oan ức, khủng khiếp của thời Pol Pot “Để làm sao, đất cũng bớt nặng nề. Để đất sẽ trở lại như xưa. Là đất của hương thơm. Đất của nguồn sống. Để cho hồn đất và hồn người cùng thanh thản” (tr.209).
Theo Đoàn Tuấn, nhằm hướng tới sự hòa giải, hòa hợp thời hậu chiến, còn là tiếng kinh cầu của các nhà sư, mà trong số đó còn có nhà sư Phteah Saniphap, chính là cựu chiến binh Ánh. Âm hưởng bi tráng đã khiến người đọc có lúc day dứt, đau đớn có khi bừng tỉnh còn là những trang văn thấm đẫm tình yêu thương, mà ở đó, những bài văn tế do Đoàn Tuấn viết, cũng có lúc họ vận dụng cả Văn tế nghĩa sĩ Cần Guộc của cụ Đồ Chiều. Tất cả chỉ từ lòng thành dành cho người còn nằm lại đâu đó trong vùng đất một trời giao tranh khốc liệt.
Tôi cho rằng, Đoàn Tuấn chọn lấy “giải pháp” này hoàn toàn hợp lý và phù hợp với triết lý sống của người Á Đông nói chung. Suy nghĩ này đã khiến tôi sực nhớ đến Văn tế thập loại chúng sinh của thi hào Nguyễn Du, cuối cùng đạt đến sự giải thoát đó vẫn là: “Phật hữu tình từ bi phổ độ/ Chớ ngại rằng có có không không/ Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng/ Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài”.
Tuy nhiên, không dừng lại đó, thông qua câu chuyện của Ánh, nhà văn Đoàn Tuấn còn mở ra một mạch chuyện khác, đó là số phận người lính từng thực hiện nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, thời hậu chiến như thế nào? Hai tuyến nhân vật, hai không gian khác nhau là thủ pháp độc đáo mà Đoàn Tuấn đã sử dụng trong tác phẩm này: quá khứ và hiện thực đan xen vào nhau, qua đó cũng không ngoài mục đích khắc họa nên vẻ đẹp của người lính Cụ Hồ.
Chẳng hạn, đọc đoạn văn này, là người trong cuộc, tôi đã ứa nước mắt khi biết đồng đội mình: Một thương binh bị vết thương vào đầu, trở về hậu phương “anh hay bị đau đầu. Nhiều lúc đập đầu vào cột nhà, máu chảy đầm đìa. Vẫn đập tiếp” nhưng sau nhiều năm nhì nhằng về chính sách trợ cấp. Một ngày kia anh bỗng “ngộ” ra: “- Chuyện tôi bị thương là vì mình đánh giặc không giỏi. Đúng không? Bị thương, đó là lỗi của mình. Không chết là may. Giờ, về nhà, lại bắt đền Chính phủ. Tôi nghĩ, mình phải đòi tiền thằng Pol Pot mới đúng”. “-Pol Pot chết lâu rồi” - Sơn bác sĩ cười. “-Chết thì thôi. Không bắt đền nó nữa.... Từ hôm nay, không được lên xã hay huyện đòi chính sách gì nữa” (tr. 88).
Có thể bạn không tin? Thế nhưng đó là chi tiết có thật của đồng đội chúng tôi - anh Hà Văn Rích ở Mai Châu. Những câu chuyện tương tự này, do Đoàn Tuấn từ nhiều năm nay đã thực hiện những chuyến đi tìm gặp đồng đội cũ và ghi chép lại, nhờ thế, tác phẩm này thêm nhiều chi tiết rất đời thường. Giúp bạn đọc càng thấu cảm về tâm thế người lính. Cảm động lắm.
Được biết tác phẩm Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt do NXB TH TP.HCM tổ chức giao lưu, ra mắt sách vào lúc 9g sáng ngày 9.4.2022 tại Đường Sách. Là đồng đội cũ, tôi là người dẫn chuyện cho nhà văn Đoàn Tuấn lúc anh trò chuyện cùng bạn đọc, bên cạnh đó còn khách mời là nhà thơ Phạm Sỹ Sáu, nhạc sĩ Thế Hiển và thế hệ cựu chiến binh đã chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, từ năm 1979.
L.M.Q

(nguồn: Báo Phụ Nữ TP.HCM ngày 6.4.2022).

 

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com