BÁO CHÍ Lê Minh Quốc viết LÊ MINH QUỐC: Giải mã một câu ca dao

LÊ MINH QUỐC: Giải mã một câu ca dao

 

giaima1-cau-ca-dao-1R

Lập luận dưới đây mới chỉ là những lý giải ban đầu. Tòa soạn mong nhận được sự trao đổi của các nhà nghiên cứu và bạn đọc.

 

Ở Quảng Nam, ai lại không biết đến câu ca dao:

Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng

Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi

Thương cha nhớ mẹ thì về

Nhược bằng thương kiểng nhớ quê thì đừng.

Câu ca dao này, vừa đọc qua đã phát hiện ra sự vô lý. Đành rằng nhớ cha, nhớ mẹ mà về thăm quê là sự lựa chọn của nhiều người. Nếu song thân qua đời, nhớ quê - nơi chôn nhau cắt rốn - người ta về thăm thì cũng “phải đạo”, hợp lý. Vậy cớ sao câu ca dao này lại bảo “đừng”?

Nhớ quê nhà, nỗi nhớ ấy bình dị lắm, nói như Á Nam Trần Tuấn Khải, đôi khi chỉ là: “Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dãi nắng dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”. Nỗi nhớ ấy hiện hữu như một lẽ tất nhiên trong tâm khảm người sống xa quê kia mà? Rõ ràng lời khuyên trong câu ca dao này vô lý quá đi mất.

Với nhiều tranh luận xưa nay, chẳng hạn, nhà thơ Nguyễn Hàn Chung lập luận: “Đó là những mối tình giữa trai và gái diễn ra trong bối cảnh cây đa, bến nước, sân đình của quê kiểng năm xưa ngày cô gái ấy còn son rỗi, còn hẹn hò dấm dúi với tình lang. Bây giờ “em đã có chồng - như chim vào lồng như cá cắn câu” - dù có thương nhớ người xưa bao nhiêu chăng nữa thì cũng đừng về. Đặt bài ca dao trong bối cảnh xã hội phong kiến mới thấy lời nhắn nhủ ấy mang tính nhân văn sâu sắc. Người đàn ông sa chân thì còn gượng dậy được bởi họ có cái trật tự ngàn đời của xã hội phong kiến Nho giáo làm giá đỡ chứ còn đàn bà - nhất là đàn bà đã có chồng (dù là có chồng trong mối hôn nhân ép buộc) - thì cái xã hội ấy sẽ nhân danh tiết hạnh vùi dập một cách không thương tiếc. Nhưng nói trắng ra thế nào được, tác giả bài ca dao đành nói tránh như vậy. Sự tế nhị chính là ở đó. Muốn khám phá chiều sâu ẩn tàng của ngữ nghĩa phải nắm bắt đúng bản chất vấn đề, có thế mới tránh cho con chữ khỏi bị hàm oan”.

Lập luận này có thuyết phục không? Hoàn toàn không. Sở dĩ tôi không phân tích vì thật ra câu ca dao này gắn với một sự kiện lịch sử diễn ra tại Quảng Nam. Xưa nay, ca dao phản ánh lịch sử là chuyện thường tình. Trước kia, năm 1914, ông Nguyễn Văn Mại, Bố chánh Thanh Hóa, có viết quyển sách “Việt Nam phong sử” đã trình bày cả trăm câu ca dao phản ánh lịch sử từ thời Kinh Dương Vương đến thời Chúa Nguyễn.

Thương cha nhớ mẹ thì về

Nhược bằng thương kiểng nhớ quê thì đừng.

Cần phải đặt nó trong hoàn cảnh của ông Nguyễn Duy Hiệu, thủ lĩnh phong trào Nghĩa Hội (Quảng Nam). Tháng 7-1887, lực lượng nghĩa quân bị thực dân Pháp đàn áp dữ dội, Nguyễn Duy Hiệu lại đau đớn khi hay tin mẹ đã mất. Ông dẫn đứa con trai tìm về làng Thanh Hà. Giữa trảng cát nắng chói chang đến nhức mắt, ông quỳ xuống thắp nhang trước mồ mẹ. Gió thổi lồng lộng. Bão cát xoáy lên ngút trên trời... Ông tức tưởi khóc:

- Là bày tôi mà vua nạn không phò, vua chạy không theo, khó đem nổi bất bình mà kêu cùng tạo hóa.

- Là con trai mà mẹ đau không dưỡng, mẹ mất không chôn, chỉ biết lấy trường hận mà khóc sinh thành.

Sau đó, ông ngồi trong miếu Quan Công, ngước mắt nhìn khói nhang tỏa nghi ngút trước mộ mẹ giữa bão cát. Bỗng cả bó nhang ấy phừng phừng lửa đỏ như một bó đuốc. Điềm gì chăng? Nguyễn Duy Hiệu rùng mình, giữa trưa nắng mà toàn thân ông lạnh toát, khi ông vừa định thần lại thì quân giặc đã ùa tới vây bắt. Ngày 1-10-1887, Nguyễn Duy Hiệu bị giặc chém đầu tại pháp trường An Hòa (Huế).

Câu ca dao trên, ý rằng, nếu vì cha vì mẹ (như cụ Hiệu) thì về quê, bằng không thì thôi, đừng về, để bảo toàn tính mạng. Do ra đời trong hoàn cảnh trên nên câu ca dao mới có lời nhắn nhủ đó. Hiểu như thế, chẳng việc gì phải như “lâu nay trong một số bài viết về văn học dân gian đất Quảng khi có dịp nhắc đến bài ca dao này nhiều người lờ đi hai câu cuối vì thấy sự nghịch nghịch trai trái đó” - như nhà thơ Nguyễn Hàn Chung cho biết.

L.M.Q

(nguồn: Báo Người Lao Động 23.10.2016)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com