*Thuở bình minh của chữ Quốc ngữ từ thời Alexandre de Rhodes...
Sự ra đời của quyển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum của Alexandre de Rhodes do Bộ truyền giáo in tại Roma ngày 5.2.1651 là cột mốc quan trọng trong hành trình ghi âm tiếng Việt việc ra của chữ Quốc ngữ. Cho dù, chữ Quốc ngữ đã được sáng chế trước đó rất nhiều năm - nhưng cụ thể tháng năm nào thì ta đành... chịu!
Theo Linh mục Nguyễn Hồng: “Sách dày 645 trang, 6 trang đầu là đầu đề và đề tặng rồi đến bài tựa. Chính phần tự vị chia làm 2 cột, bắt đầu chữ A và kết bằng chữ Xư, tất cả 900 cột, đầu tiên là tiếng Việt in chữ đứng rồi đến phần giải nghĩa bằng tiếng Bồ, in chữ nghiêng và tiếng La-tinh in chữ đứng. Cuối sách có thêm bản Index Latini sermori, các chữ La ngữ được xếp theo vần a, b, c, chua thêm số cột để tìm nghĩa bẳng tiếng Việt, không đề số trang nhưng đếm được 181 trang” (Xem Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam - NXB Hiện Tại -1959, tr.286).
“Sự phát minh của chữ viết, chỉ riêng nó thôi, có thể khẳng định còn quan trọng hơn toàn bộ những trận đánh trên thế giới”. Một học giả uyên bác đã nhận định như thế. Thử đặt câu hỏi, thuở ấy chữ Quốc ngữ được viết như thế nào ?
Nhiều tài liệu khẳng định, ban đầu nó không có dấu.
GS Thanh Lãng cho biết: “Căn cứ theo tài liệu cuốn Lịch sử đạo Thiên Chúa trên đất Việt Nam, thì Christophoro Borri (1853-1632), một giáo sĩ dòng Tên người Ý giảng đạo ở nước ta từ 1618-1621, có nhắc đến trong tập ký thuật của ông cách giảng đạo ngớ ngẩn trước thời giáo sĩ Francesco Buzomi (1576-1659) bằng câu này: “Con gno muon bau plom laom Hoalaon chiam?” (Con nhỏ muốn vào trong lòng Hòa Lan chăng?). Cũng theo cuốn này thì câu nói ngớ ngẩn trên đây đã được giáo sĩ Buzomi, truyền đạo ở Việt Nam từ 1615- 1639 sửa lại như sau: “Muon bau dau Christiam chiam?” (Muốn vào đạo Christiam chăng?). Ngoài ra trong tập ký thuật đó còn có những chữ Quốc ngữ không dấu, chẳng hạn: “Da an nua, da an het” (Đã ăn nữa, đã ăn hết: chỉ nhật thực); “omgne” (ông nghè); “Tui ciam biet” (Tôi chẳng biết). Căn cứ vào mấy tài liệu trên đây, nhiều người phỏng đoán hồi đầu chữ Quốc ngữ chưa có dấu hiệu ghi dấu thanh như ngày nay” (xem Nền chương Tôn giáo ba thế kỷ đầu - Tạp chí Văn hóa Á châu số 1.1958, tr.33).
Như chúng ta đã biết, khi biên soạn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, A.de Rhodes có tham khảo quyển từ điển viết tay An Nam - Bồ của Gaspar d’Amaral (mất 1646) và Bồ - An Nam của Antonio Barbosa (mất 1647). Không ai có thể khẳng định, trong hai quyển từ điển trên, chữ Quốc ngữ đã có các ký hiệu ghi dấu thanh hay chưa? Nhưng đến thời của A. de Rhodes thì nó đã có dấu và đã được hệ thống hóa gần như hoàn chỉnh. Đây là một bước cải tiến quan trọng của chữ Quốc ngữ thời phôi thai. Điều đáng chú ý trong quyển từ điển này, A. de Rhodes đã ghi chép khá đầy đủ lời ăn tiếng nói của người Việt thời đó, mà bây giờ ta có thể thấy được sự tiến hóa của chữ Quốc ngữ.
Nhiều người đồng tình với nhà nghiên cứu Hồng Duệ Nguyễn Khắc Xuyên khi đưa ra nhận xét xác đáng: “Tra từ điển mà chúng ta có cảm tưởng như đọc một cuốn Việt Nam văn hóa sử cương thế kỷ XVII”. Chẳng hạn như tiếng “bà láo” (bà lão) là một bà đáng kính, sang trọng; còn “bà già” mới là người đàn bà đã có tuổi; “bà sang” là một vị cung phi của nhà vua đã quá cố v.v...
Cũng theo tài liệu của GS Thanh Lãng, các bảng chữ cái mà A. de Rhodes phân tích trong quyển từ điển này gồm có 23 chữ: A, B, C, D, E, F, G, H, I, K, L, M, N, O, Ơ, P, Q, R, S, T, U, Ư, X. thật ra chữ Â ghi âm “ơ ngắn” và Ă ghi âm ‘a ngắn”. Các nguyên âm này là những âm khác nhau/ khác với âm “a”.
F: “F hay đúng hơn là PH, vì khi đọc nó không cần phải tách hai môi như đọc chữ F của chúng ta. Thực ra khi đọc chữ đó môi chỉ giề ra rất ít và thở rất nhẹ; ở trong tự điển chúng tôi không dùng chữ F mà sẽ chỉ dùng PH, vì cách sách chép đều quen như vậy”.
Ư/U là 2 âm khác nhau. Còn trong chữ MƯA, không có âm “ư”. Âm chính là âm “ươ” , là một nguyên âm đôi.
Âm “T”ở vị trí âm đầu và âm cuối là 2 phụ âm khác nhau. Khi dùng ở chữ đầu nó cũng giống như chữ T tiếng Pháp chúng ta, thí dụ Tin; khi đặt ở cuối thì lúc đọc phải uốn lưỡi lên lợi, thí dụ chữ Bụt. Khi T đi với R thì cũng phải đọc uốn như vậy, thí dụ chữ Tra”.
Chữ X: “Nó cũng rất thông dụng và đọc giống cách đọc của người Bồ Đào Nha, hay như đọc chữ Se trong tiếng Ý Đại Lợi, thí dụ chữ Xe, Xa” v.v…
Sau đó, A. de Rhodes nhận xét: “Tiếng Bắc Kỳ có hầu hết các chữ như tiếng chúng ta, chỉ thiếu có chữ Z. Thực ra họ không có chữ F của chúng ta mà chỉ có chữ PH hay đúng hơn là F Hy Lạp. Tuy vậy chúng tôi vẫn dùng chữ F cho dễ dàng hơn và tiện lợi hơn cần sao tránh được sự hiểu lẫn lộn. Ngoài ra còn phải thêm bốn chữ mới để phát âm mấy tiếng riêng biệt mà trong tiếng Châu Âu không có. Bốn chữ đó là hai nguyên âm Ơ và Ư, và hai phụ âm (Alpha) và Đ”.
Về vấn đề này, theo Linh mục Nguyễn Hồng: “Lần đầu tiên tiếng Việt được đem ra học hỏi theo lối văn phạm và so sánh với nhiều ngôn ngữ Á Đông và Tây phương, 23 mẫu tự La ngữ được dùng để phiên âm tiếng Việt, trừ những chữ Z, J, F được thay thế bằng GI, D, PH. Về tử âm cha Đắc Lộ đã sáng kiến ra hai mẫu tự mới β và Đ. Chữ β đọc giữa chữ B và V. Còn chữ Đ thì hoàn toàn là một sáng kiến mới, còn giữ mãi cho đến ngày nay. Về mẫu âm, cha đã đặt ra những chữ Ă, Â, Ô, Ơ, Ư” (SĐD, tr.287).
Riêng về các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng..., với A. de Rhodes đó là linh hồn của tiếng Việt: “Cũng giống như những “gam” trong nhạc Châu Âu”! Lời nhận xét ấy thật thú vị, nhiều người ngoài cũng cảm nhận tiếng Việt phát âm líu lo giống như tiếng chim!
Để hoàn thành bộ sách giá trị này, không thể không nhắc đến sự giúp đỡ của những nhân vật mà GS Hoàng Tuệ gọi là “vô danh”. Trong lời tựa của tù điển mang tính tiên phong đặt nền móng cho chữ Quốc ngữ, A. de Rhodes có cho biết không những nhờ tham tham khảo hai quyển từ điển Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa mà còn: “Chính những người bản xứ đã giúp tôi học tiếng gần 12 năm trong suốt thời kỳ tôi ở Đàng Trong và Đàng Ngoài”.
Nay ta thử đọc lại một đoạn văn ngắn mà A. de Rhodes đã viết trong cuốn Phép giảng 8 ngày cho ke muan chịu phép rua tội mà beào đao thánh đức Chúa blời, in năm 1651: “Ta cầu cũ (cùng) đức chúa Blời (Trời) giúp suc (sức) cho ta biét tỏ tưãng (tỏ tường) là nhưãng (nhường) nào, vì βậy (vậy) ta phải hay ở thế này chẳng có ai fóũ (sống) lâu; vì chưng kẻ đến bảy tám mươi tuẩi (tuổi) chẳng cò nhềo (nhiều)”.
Có thể thấy rằng đến nay đã có một vài phụ âm đã biến mất. Chẳng hạn, bl đổi thành gi (ví dụ: blả ơn: giả ơn), thành l (thí dụ: blúc blắc: lúc lắc), thành tr (thí dụ: blái núi: trái núi); phụ âm tl nay đổi thành tr (thí dụ; ăn tlộm: ăn trộm)... Rõ ràng, thời ấy, A. de Rhodes còn lúng túng lẫn lộn giữa B và V; giữa TR, TL, BL; các vần tận cuối còn thiếu: ong viết là aõ (thí dụ: saõ = song); ông viết là oũ (thí dụ: sóũ = sống); ung viết là ũ (thí dụ: cũ = cung); uôn viết là uân (thí dụ; muấn = muốn); ương viết là ưâng (thí dụ: tưầng = tường) v.v...
Từ năm 1651 cho đến cuối thế XVIII, chữ Quốc ngữ lại được ghi nhận thêm một cột mốc lớn: Năm 1773, Pigneau de Béhaine đã biên soạn xong bộ Dictionarium Anamitico Latinum, dày 732 trang, cỡ 35,5 x 24 cm, bản thảo viết tay. Trong đó phần tra cứu chiếm 67 trang và phần chính văn chiếm 622 trang (không kể vài ba trang phụ). Nếu so với quyển từ điển của A.de Rhodes, từ điển của Pigneau de Béhaine thì hệ thống chữ quốc ngữ ở giai đoạn này đã thay đổi và đạt đến hình thức ổn định - chẳng hạn hình thức ghi các phụ âm kép bl, pl, ml, tl đã không còn tồn tại...
Thử đọc bài thơ Tới thành Macao thơ của linh mục Felippe do Rosario (tên Việt là Philiphê Bỉnh) viết “Giáp dần niên, ngày mòũ (mồng) 4 tháng chạp năm 1794” để hình dung ra đôi nét về bước đường thay đổi của chữ quốc ngữ sau A.de Rhodes gần 150 năm:
Tôi đang gưởi gấp chốn Ma cao
Hai chữ thanh nhàn xiết kể bao
Hôm sớm phần hồn dầu mặc sức
Tháng ngày việc xác chẳng tơ hào
Xoay vần tám tiết hằng lo ấm
Đáp đổi tứ mùa khỏi khát khao
Gần chợ gần soũ gần núi bể
Trăm mùi khoũ chút vẻ tanh tao.
Sau đó, năm 1832, căn cứ vào Dictionarium Anamitico Latinum, giám mục Tabert cùng với một số người Việt Nam khác hoàn thành quyển Từ điển Annam-Latinh và Latinh-Annam. Cải tiến đáng kể của hai quyển từ điển trên là loại bỏ những ngoại lệ như: a = aong; ch = chue, chuen; y = ym, yn; k= khuia, khuiếc, khuinh v.v... Về cơ bản, chữ Quốc ngữ định hình từ thời Tabert đến nay hầu như không thay đổi bao nhiêu. Tuy nhiên gần đây để tiện viết các từ mượn cả tiếng nước ngoài ta thấy có xu hướng thu nhập thêm vào hệ thống chữ viết của ta các phụ âm như F, J, W, Z...
*… đến thời Pigneau de Béhaine và Tabert
Đi theo gót chân xâm lược của thực dân Pháp đến Việt Nam, ngoài vũ khí và âm mưu muốn mở rộng thị trường kinh tế, để truyền đạo v.v... còn có ngôn ngữ để giao tiếp. Khi những người lính chiến dạn dày trận mạc đã hoàn thành nhiệm vụ, họ còn phải nghĩ đến công cuộc “khai hóa” cho người dân bản xứ! Vấn đề đặt ra đầu tiên là làm sao để tiếp xúc, giao thiệp với nhau khi mà cả hai đều bất đồng ngôn ngữ?
Có hai cách, hoặc chúng ra sức học tiếng nói, chữ viết của người Việt Nam (nhưng chữ Hán, chữ Nôm không phải là dễ học, học đến lúc thông thạo thì mất thời gian quá dài); hoặc dạy người Việt Nam học và nói tiếng Pháp (nhưng đội ngũ giáo viên hiện có không đáp ứng nổi). Vậy là, cả hai biện pháp này đều không dễ dàng thực hiện nhanh chóng trong một sớm, một chiều được.
Cuối cùng, chúng chọn giải pháp là cả đôi bên cùng “hợp tác” dùng chữ Quốc ngữ để làm phương tiện giao tiếp. Nhưng việc trước mắt là phải có những người trung gian để giúp đôi bên có thể hiểu nhau. Do đó, tại Nam Kỳ, ngày 21.9.1861, chúng lập trường thông ngôn mang tên Pigneau de Béhaine (1741- 1700) tức Bá Đa Lộc; tại Bắc Kỳ, tháng 1.1886, chúng cũng lập trường thông ngôn ở phố Jean Dupuis, tức Đồ Phổ Nghĩa, sau chuyển ra Yên Phụ. Đây là những bước đầu tiên để tiếng Pháp du nhập vào Việt Nam. Trong quá trình giao tiếp, có những sản phẩm vật chất và tinh thần của người Pháp mà chữ Quốc ngữ chưa diễn tả được nên phải vay mượn hoặc sáng tạo ra chữ mới để gọi đúng sự vật đó.
Cho biết một ví dụ mà thuở đó trong sách giáo khoa các thầy giáo Việt Nam đã vay mượn?
Chẳng hạn quyển Thiệt hành điễn học của thầy “Alexis Lân, Ingénieur Electricien” biên soạn, Imprimerie F.H Schneider xuất bản năm 1917 tại Sài Gòn: “Sách dạy những điều cần kíp cho những thợ Annam làm các máy điển khí và những học trò các trường Bá Nghệ”. Đây là bài toán số 8 (trang 77): “Hai cái đèn thắp bằng than sức nó là 10 ampères mà câu en série theo một mạch hơi là 120 volts. Mình biết cái différence de potentiel của mỗi cái đèn không có quá trên 45 volts phải độ một cái résistance mà câu en série với hai cái đèn đó đặng cầm bớt volts cho vừa theo sức nó”. Hoặc trong sách giáo khoa Trưởng học toán pháp của thầy Hồ Ngọc Cẩn, ta cũng thấy có một số từ vẫn giữ nguyên, chẳng hạn taux (tiền lời) hoặc temps (thời gian)... Vậy thầy mới đặt thơ cho học trò dễ thuộc:
Tìm taux, tìm vốn, tìm temps
Lời, trăm, niên, nguyệt thì bằng đặt trên
Tìm lời thì có luật riêng
Taux, temps và vốn đặt trên hoài hoài.
Trong sự vay mượn này, nếu ghi âm sang chữ Quốc ngữ thì cách viết có gì khác? Tất nhiên là có sự khác biệt. Trong quyển Từ điển các từ tiếng Việt gốc Pháp (Hội nghiên cứu giảng dạy văn học TP.HCM -XB 1992) đồng tác giả Nguyễn Quảng Tuân - Nguyễn Đức Dân đã phân tích vấn để này. Sau đây là một vài dẫn chứng:
“Chẳng hạn, các phụ âm /k/, /m/,/n/ khi vào tiếng Việt hầu như giữ nguyên ở mọi từ như kilo: ký-lô, canot: ca-nô...
Những âm đầu và âm cuối nào không có trong tiếng Việt sẽ được chuyển thành một âm gần gũi về phương thức và vị trí phát âm. Chẳng hạn, tiếng Việt không có các âm tắc /b/,/d/,/g/ hoặc các âm xát /s/,/z/ đứng cuối nên các âm cuối này khi vào tiếng Việt đều bị chuyển đổi. Chẳng hạn, khi là âm cuối, /b/ chuyển thành /p/ như double: đúp, nhưng khi là âm đầu thì nó giữ nguyên, như ballet: ba lê, beton: bê-tông...; khi là âm cuối /d/ được chuyển thành /t/ như acide: a-xít, mode: mốt... Nó vẫn giữ nguyên khi là âm đầu.
Trước đây, âm /p/ không thể làm âm đầu nên khi là âm đầu, /p/ chuyển thành /b/ như pardessus: ba-đờ-xuy, palabre: ba láp… Khi đứng cuối /p/ được giữ nguyên như tupe: típ” (tr.506) v.v... hoặc cũng một chữ nhưng chúng ta thấy có nhiều “biến thể” khác nhau khi viết bằng chữ Quốc ngữ như pomme: bôm, bơm, bôôm; savon: xà phòng, xà bông; crique: xiếc, xiệc; bonjour: bông dua, bông sua, sua v.v...
Dù đã nhập tịch nhưng không thể xem là “thuần Việt” mà vẫn là từ vay mượn. Chỉ có thể xem nó là từ tiếng Việt gốc Pháp. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến cho rằng: Một khi đã “nhập tịch”vào kho tàng tiếng Việt, có thể xem đó là một chữ thuần Việt Có lẽ cũng nên mạnh dạn khẳng định như thế. Chẳng hạn, khi viết một chữ dù vây mượn nhưng theo cách ghi âm của chữ Quốc ngữ với đầy đủ các dấu hỏi, ngã thì bất cứ người Việt nào cũng cảm nhận rõ ý nghĩa của nó.
Ví dụ: khi viết cà phê, người Việt nào dù không biết tiếng Pháp vẫn viết đó là... cà phê, nhưng nếu viết đúng như tiếng Pháp (café) thì có người đành...chịu! Nhà thơ Phùng Quán có kể cho một nhà ngôn ngữ học biết là khi đến một nông trường ở miền Bắc ông thấy trên tấm bảng có ghi: “Nơi đây sản xuất cà”. Như vậy cũng là café nhưng khi qua tiếng Việt chỉ còn mỗi một chữ cụt ngũn...cà! Còn phê là gì thì họ không hiểu nên bỏ luôn! Ngoài ra, ta còn có thể kể thêm những thứ thông thường như bơ, phô-mát, xúc xích... dù viết bằng chữ Quốc ngữ thì ai ai cũng biết đó là beurre, fromage, saucisse của người Pháp... Đặc biệt, có những từ chỉ địa danh các nước ngoài lại được Việt hóa hoàn toàn như Pháp, Đức, Ý, Ba Lan, Hòa Lan... Có lẽ, khi viết bằng chữ Quốc ngữ như thế không phải ai ai của người nước đó cũng biết là ta đang viết về địa danh của nước họ (tất nhiên trừ trường hợp ngoại lệ).
Vậy thì ta nên suy nghĩ như thế nào về trường hợp nêu trên?
Nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo khẳng định: “Những tên nước như Pháp, Đức, Ý, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ... đã từ lâu trở thành những từ của tiếng Việt. Cũng như cái tên nước của các thứ tiếng khác, đó là những cái tên mà bản ngữ đặt cho các nước ngoài đã trở nên quen thuộc, dù cái tên đó có thể thật không chính xác”. Và thật thú vị khi ông còn cho biết thêm, một người bạn Ba Lan phát biểu: “Tôi rất lấy làm vinh dự là nước tôi ở trong số các nước có một cái tên Việt Nam. Điều đó chứng tỏ Ba Lan đã đi vào văn hóa của các bạn từ xưa, cũng như Pháp, Anh, Đức, Ý, Nga, Mỹ, tuy còn thua các nước này ở chỗ chưa được đơn tiết hóa. Nhưng tôi biết sở dĩ như vậy chỉ là vì chữ Ba, nếu không có chữ Lan, sẽ trùng với quá nhiều từ thông dụng của tiếng Việt”.
Điều này cho thấy một khi ta du nhập thêm một từ mới của nước ngoài, ghi âm lại bằng chữ Quốc ngữ không những làm giàu cho vốn từ tiếng Việt mà còn là niềm tự hào của chính nước mà ta vây mượn. Nói như vậy không chủ quan, khi ta biết tự điển nước ngoài cũng có ghi những chữ Quốc ngữ của ta như “áo dài”, “nước mắm” v.v... cho dù chưa hẳn họ vay mượn của ta nhưng phải ghi đúng như thế để chỉ đúng một sự vật mà họ đang đề cập đến.
Vậy thì những từ chỉ tên riêng cũng nên ghi âm qua chữ Quốc ngữ như trên chăng?
Lâu nay, vẫn có người thực hiện như thế vì nghĩ là giúp cho những người không biết tiếng nước ngoài dễ đọc. Nhưng nhược điểm lớn nhất là mỗi người phiên âm một kiểu nên nhiều khi chỉ một người nhưng người ta lại tưởng là... nhiều người. Ví dụ khi ta viết bằng chữ Quốc ngữ Ri-gân, Ri- gơn, Rêi-gân tưởng là ba người khác nhau nhưng thật ra là cũng chỉ để nhằm vào...mỗi một ông Reagan mà thôi!”.
Chúng tôi tán đồng với ý kiến của nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo, đối với cách viết tên riêng nước ngoài trên văn bản tiếng Việt thì không nên phiên âm như vừa nêu trên. Và ông cũng cho rằng: “Vấn đề người bản ngữ có đọc dễ không không nên đặt ra, vì không ai đòi hỏi họ đọc đúng. Vả lại làm sao đọc đúng được tất cả các tên riêng của mấy trăm thứ tiếng?... Đã biết được điều đó, thì tốt nhất là hy sinh cách đọc để ít ra cũng được cách viết. Vả lại vấn đề đặt ra ở đây là “nên viết như thế nào”, chứ không phải là “nên đọc như thế nào”. Tên Reagan mà trước đây các báo phiên là Rigân, nếu có ai cứ đánh vần ra mà đọc “Re-a- gan” chẳng hạn, thì cũng chẳng hại gì hơn. Một đằng không biết phải đọc như thế nào, phải hỏi người khác; một đằng thì nắm chắc 80% là đọc sai - và có lẽ là vĩnh viễn đọc sai - đằng nào hơn?”
Trong khi vay mượn các từ nước ngoài mà ta thiếu, từ chỗ mượn nguyên chữ như trên đã nêu, thì đến thời điểm nào chữ Quốc ngữ mới có thể đảm đương nổi nhiệm vụ của mình?
Ở đây, chúng tôi chỉ xin đề cập đến những hạn chế của chữ Quốc ngữ trong lãnh vực khoa học kỹ thuật. Mãi đến năm 1944, giáo sư Hoàng Xuân Hãn mới ra quyển Danh từ khoa học (Toán, Lý, Hóa, Cơ, Thiên Văn) nhằm Việt hóa các từ cần thiết để tiếng Việt ngày càng phong phú, đa dạng và trong sáng hơn. Có thể ghi nhận đây là một trong những đóng góp rất quan trọng trong hệ thống giáo dục Việt Nam nói chung và cho chữ Quốc ngữ nói riêng. Tất nhiên, trước và sau GS Hoàng Xuân Hãn cũng có những học giả tâm huyết thực hiện cộng việc khó nhọc này - nhưng Danh từ khoa học vẫn là cột mốc quan trọng nhất.
Ngoài ra có lẽ cũng nên đề cập đến hai sự kiện giáo dục đáng kể nhất ở thế kỷ XX, có ảnh hưởng lớn trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ sâu rộng trong quần chúng và khiến mọi người tin tưởng ở tiền đồ của chữ Quốc ngữ là sự ra đời của trường Đông Kinh Nghĩa Thục (3.1907) do cụ Lương Văn Can làm Thục trưởng và Hội truyền bá Quốc ngữ (25.5.1938) do cụ Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng. Và chính hàng triệu con dân yêu chữ Quốc ngữ, yêu tiếng Việt đã ra sức bảo vệ, gìn giữ, sáng tạo để nó tồn tại và phát triển qua bao thăng trầm của lịch sử.
Phải chăng chữ Quốc ngữ nghèo nàn nên phải vay mượn như thế?
Với sự vay mượn (hoặc tiếp nhận) như thế này nhiều người lầm tưởng tiếng Việt, chữ Quốc ngữ không đủ để trình bày... tư tưởng của mình nên đâm ra rẻ rúng nó! Thực ra không nên nhầm lẫn từ tiếng Việt với chữ Quốc ngữ để ghi âm tiếng Việt. Hiện tượng vay mượn từ tiếng nước ngoài diễn ra ở ngôn ngữ chứ không phải ở chữ viết. Trong tâm lý của người Việt, các từ vây mượn một khi du nhập vào kho tàng tiếng Việt thì người ta sử dụng nó tự nhiên như một từ thuần Việt. Nhưng lại không chấp nhận những ai dùng tiếng nước ngoài, hoặc viết bằng chữ nước ngoài để biểu lộ một sự vật, một tình cảm nào đó mà trong vốn từ tiếng Việt đã có.
* Vấn đề cải cách chữ Quốc ngữ đã diễn ra như thế nào?
Chữ Quốc ngữ là một lối chữ viết ghi âm dùng chữ cái Latin, theo nguyên tắc cơ bản “phát âm thế nào thì viết thế ấy”. Từ đó, ta thấy một nhược điểm lớn nhất của chữ Quốc ngữ là có quá nhiều từ đồng âm, khó phân biệt. Hơn nữa lối ghi âm này còn bộc lộ nhiều bất hợp lý. Trải qua năm tháng đã có nhiều tổ chức, nhiều người tiến hành cải cách chữ Quốc ngữ với mong muốn nó ngày hoàn thiện hơn.
Căn cứ vào tập sách Vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ - Viện Văn Học, Ủy ban Khoa học Nhà nước - Hà Nội - 1961, có thể tóm tắt:
Từ năm 1868, Le Grand de la Liraye, Aymonier... là những người tiên phong đưa ra nhiều đề nghị cải tiến chữ Quốc ngữ. Sau đó, cuối năm 1902, tại Hà Nội, Hội nghị Quốc tế khảo cứu về Viễn đông lần thứ 1 cũng đề cập đến vấn đề này. Đến năm 1906, tại Hội đồng cải lương học chính Đông Dương lại tiếp tục đưa ra những cải cách khác. Nhìn chung các hội nghị trên không giải quyết được gì và cuộc tranh luận chấm dứt vào năm 1907 khi Hội đồng cải lương học chính Đông Dương lần thứ hai thông qua kiến nghị về việc nên giữ nguyên chữ Quốc ngữ, không cải cách.
Vấn đề vẫn chưa dừng lại ở đó. Về sau các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ như Tản Đà, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Bạt Tụy v.v... lại tiếp tục đưa ra những cải cách khác. Đặc biệt, sau Cách mạng tháng Tám, năm 1946: “Ban chuyên môn Bình dận học vụ Trung ương có nghiên cứu bản cải cách chữ Quốc ngữ, gồm mấy khoản:
-Dùng Z thay cho D, và D thay cho Đ;
-Dùng J thay cho GI, và F thay cho PH;
-Dùng K thay cho C và Q làm con chữ phụ âm đầu: cũ kỹ, quả quýt, quê quán viết kũ, kĩ, kuả kuýt, kuê kuán (trong trường hợp là con chữ phụ âm cuối, thì vẫn dùng C như cũ: ac, ăc vẫn viết ac, ăc);
-Bỏ H trong GH và NGH;
-Chỉ dùng “Y” về cuối hay giữa vần, như cây quýt viết kây kuýt; trong trường hợp khác, thống nhất dùng “I” v.v…
Vấn đề cải cách chữ Quốc ngữ sắp đưa ra bàn, thì cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ” (SĐD, tr. 62-63)
Hầu như ở thời điểm nào cũng có những ý kiến cải cách chữ Quốc ngữ.
Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi chỉ xin lướt qua các đề nghị cải cách chữ Quốc ngữ từ năm 1995 trở lại đây. Trên báo Hà Nội mới số ra ngày 23.9.1995, ông Nguyễn Kim Hoạt đặt vấn đề: "Có nên cải cách chữ Quốc ngữ không?".
Theo ông, “Chữ Việt, thường gọi là chữ Quốc ngữ ra đời dựa trên hai cơ sở: 1. Sử dụng hệ chữ cái Latin; 2. Do các cố đạo người nước ngoài khởi xướng. Từ đó dẫn đến hai vấn đề tồn tại: Một là hệ chữ cái Latin có 26 chữ cái mà chữ Việt mới sử dụng có 22 (không kể một chữ cái xuất thân từ chữ cái Latinh, nhưng chỉ có chữ Việt dùng, đó là chữ Đ (đờ), còn chữ D (dê - đọc theo âm tiếng Pháp) trong chữ cái Latin được chuyển thành chữ "dờ" trong tiếng Việt). Như vậy, còn có 4 chữ cái Latin mà chữ Việt chưa dùng tới: Z (dét), F (phờ), J (gi) và W (vờ kép). Hai là các cố đạo người nước ngoài, tác giả của việc mã hóa tiếng Việt bằng chữ cái Latin, cho dù đã cư trú lâu ở Việt Nam, nhưng cũng không thể đi sâu nghiên cứu đầy đủ tiếng Việt như một học giả người Việt được. Hơn nữa các giáo sĩ đó mã hóa tiếng Việt nhằm mục đích truyền giáo (in kinh thánh), mà lại truyền giáo trong điều kiện lịch sử là bị chính quyền phong kiến Việt Nam coi đạo Thiên chúa là tà giáo và bị cấm. Do đó, các tác giả làm công việc mã hóa tiếng Việt bị hạn chế cả về thời gian và không gian. Trong hoàn cảnh bất lợi về chủ quan và khách quan ấy, chắc chắn việc mã hóa tiếng Việt chưa thể hoàn chỉnh được”.
Đề nghị cải cách của ông có mấy điểm chính như: không thay chữ cái D bằng bất kỳ chữ cái nào khác; không nên thay Z cho GI và F cho PH; nên thay J cho GI (ví dụ: giặt giạ = jặc jịa) và bỏ phụ âm kép GH (ví dụ: Ghênh = gênh); do ta đánh vần a nhờ ANH, ê nhờ ÊNH, i nhờ INH vậy thì o nhờ ONH, chứ không thể là ONG được (ví dụ: ngóng = ngónh).
Đề nghị này không tạo tiếng vang đáng kể nào trên mặt báo.
Sau đó, trên báo Sài Gòn giải phóng số ra ngày 24.6.1996 có đăng ý kiến "Chừng nào mới đổi mới cách viết chữ Quốc ngữ" của ông Bùi Ngọc Sánh từ Paris gửi về. Đại khái, theo ông: "Chấp nhận chuẩn hóa để C thay K; K thay KH; Q thay QU; Z thay D; D thay Đ; F thay PH; J thay GI; G thay GH; NG thay NGH; A thay Ă ; O thay Ơ; U thay Ư" v.v... Và: "Trong đoạn kế tiếp sau đây, xin được viết bằng những “chữ mới” đại loại như: "Tiếng Việt Nam, tiếng nói, chữ viết, cũng là một, là của cải, là tài sản, là vốn qý jữ jìn, chống chọi với mọi sự đồng hóa của tiếng nước ngoài, vun trồng, cải tiến, fát triển là sự nghiệp chung của cả zân tộc. Chung sức chung tài dốc lòng DÔI MỚI, thật sớm, là trách nhiệm của mọi nguoi zân, của mỗi chúng ta, thành viên của cộng đồng Việt ngu".
Ý kiến này lập tức có ngay thông tin phản hồi, trao đổi lại.
Trên báo Sài Gòn giải phóng số ra ngày 17.8.1996 có đăng nhiều ý kiến tranh luận. Chẳn hạn, ông Phùng Đình Cung không tán thành vì thấy có chỗ chưa ổn: “Tiếng Việt mang bản sắc Việt Nam với những nét riêng rất Việt Nam, ổn định và hình thành thói quen trong cách viết, cách đọc của người Việt Nam rất nhuần nhuyễn và sâu đậm. Muốn chuyển đổi, cải cách nó phải tính đến những đặc điểm ấy, phải được nghiên cứu thật sâu, thật kỹ, tập trung trí tuệ công khai, tập thể của những nhà ngôn ngữ, sinh ngữ học, những cơ quan chức năng để kết luận thống nhất, không thể chỉ trong một nhóm, một số người và hời hợt, giản lược được"; và: “Tôi thấy còn có chỗ chưa ổn, như dùng nguyên âm o thay ơ, u thay ư trong khi ngôn ngữ Việt Nam thường gặp nhiều từ có hai nguyên âm ư và ơ đứng liền nhau, viết theo mẫu chữ mới của ông Sánh nêu ta sẽ thấy nó rậm mắt, nặng nề cho con chữ và ảnh hưởng về mặt thẩm mỹ nữa”.
Còn ông Huyền Viêm cho rằng không phải là mới, mà "còn thêm rối rắm có ích gì đâu?": "Khoảng 40 năm trước, ngành bưu điện đã tự đổi mới cách viết để dùng trong việc đánh điện tín và còn dùng đến ngày nay, vì chữ trong các bức điện không có dấu.
Theo cách đánh điện ấy thì chữ Ă thay bằng AW, Ê thay bằng EE, Ô thay bằng OO, Ơ thay bằng OW, Ư thay bằng UW, dấu sắc thay bằng chữ S, dấu huyền thay bằng F v.v… Nhưng bưu điện dùng thì cứ dùng, còn dân chẳng ai theo. Rồi cách đây khoảng 30 năm, một số nhà thơ ở Sài Gòn như Phan Trần Tử Hương, Bùi Giáng, Nguyễn Ngu Í (tức Nguyễn Hữu Ngư) cùng một số bạn hữu đã đề xuất ý kiến cải cách chữ Quốc ngữ, và tất cả những gì ông Sánh đề nghị đổi mới thì các thi sĩ trên đây cùng bạn hữu đã làm 30 năm trước rồi. Xin nêu một ví dụ, nhà thơ Phan Trần Tử Hương viết:
Mười hai bến nước biêt về đâu (biết)
Ôm trọn ngàn năm một kối sầu (khối)
Ngọc ngà năm tháng đà qên hết (quên)
Đã lỡ còn đâu nửa nhịb cầu (nhịp)
“Các nhà thơ ấy còn đi xa hơn ông Bùi Ngọc Sánh nữa, bằng cách đề nghị: Thay tất cả những Y bằng I (như yêu= iêu; Nguyễn = Nguiễn); thay chữ P bằng B ở cuối chữ (như hiệb thay cho hiệp; đáb thay cho đáp) như vậy trong chữ Quốc ngữ không còn chữ P nữa, vì PH đã được thay F rồi; bỏ tất cả các dấu sắc ở những chữ không thể đọc khác được: CAC thay cho CÁC, NHÂT thay cho NHẤT".
Qua số báo Sài Gòn Giải phóng ra ngày 19.8.1996, có in ba ý kiến của ba người khác: ông Nguyễn Hoàng cho rằng: "Về cơ bản, tôi hoàn toàn tán thành lập luận cũng như các đề nghị sửa đổi của tác giả Bùi Ngọc Sánh. Duy có điểm tôi muốn mọi người xem xét thêm: Nên sử dụng thêm chữ cái Latinh W với quy ước thay thế cho các phụ âm ghép NG và NGH hiện nay"; theo ông Huy Chính: "Tiếng Việt ta rất giàu về âm, về nghĩa, về diễn đạt tình cảm, về thói quen thẩm mỹ… qua mẫu tự. Ví dụ câu thơ của Hồ Xuân Hương "Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa" mà viết thành "Zee cỏn buoòn siình húc zaạu thiia" thì ôi thôi văn chương khó mà lý giải cho hay được". Rồi ông Nguyễn Hữu Cảm cũng không tán đồng việc cải cách như trên, chỉ “muốn nói đến âm NGH. Đúng là thay âm NGH bằng NG thì tiếng Việt sẽ đơn giản hơn và hầu như không có xáo trộn gì đáng kể”.
Tại Hội nghị Chữ Quốc ngữ và sự phát triển chức năng xã hội của tiếng Việt (tổ chức ngày 11.4.1996 tại trường Đại học Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh), trong tham luận Mấy nhận xét về chữ Quốc ngữ, GS Cao Xuân Hạo cho biết: “Có lẽ chữ Quốc ngữ chỉ nên đổi một điểm duy nhất là bỏ H sau NG (chứ không phải sau G)". Ngoài ra, từ nhiều năm nay, chúng ta vẫn thấy trên báo chí có những cuộc tranh luận, trao đổi đại loại như có nên thay Y bằng I hoặc giữa dấu hỏi và dấu ngã có nên bỏ bớt đi một dấu? hoặc nên hay không nên phiên âm tiếng nước ngoài ra tiếng Việt?... Nhìn chung, các vấn đề trên chưa ngã ngũ. Chẳng hạn, về vấn đề thay Y hay I thì có ba xu hướng đã xuất hiện. Một là thay Y bằng I trong những từ có Y đứng liền sau các phụ âm H, K, L, M, T (như hy = hi); hai là thay Y bằng I trong tất cả các từ, nếu việc thay thế không thay đổi cách phát âm (như y tế = i tế); ba là không cần phải thay thế v.v...
Ai cũng biết rằng, trải qua năm tháng tiếng Việt đã có sự thay đổi, nhưng căn bản chữ Quốc ngữ lại không thay đổi. Do đó, không phải ngẫu nhiên sự cải được nêu ra là hợp lý. Tuy nhiên, tất cả đang còn là vấn đề tranh luận và phải chờ ý kiến xác đáng của các nhà ngôn ngữ học. Nhìn chung mọi nổ lực, những tâm huyết này, ta có thể tóm gọn trong một câu nói nổi tiếng của học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936): “Nước Nam ta mai sau hay dở là ở chữ Quốc ngữ”.
Chúng ta biết ơn, ghi nhận những người đã nhiệt tâm cải cách, thay đổi chữ Quốc ngữ ngày càng hoàn thiện hơn, nhưng vấn đề này không đơn giản. Từ những năm 40 của thế kỷ XX, GS Hoàng Xuân Hãn đã khẳng định: “Tiếng hiện thời của các nước đều là đầy những sự vô lý. Nhưng đố ai cải cách nó được. Tiếng vạn quốc ngữ espéranto và ido mà người ta đã đặt ra rất hợp lẽ, nhưng vì không có tính cách một dân tộc nào. Nên chung quy, không có một dân tộc nào theo cả (Danh từ khoa học- NXB Trường Thi - 1959, tr.XVIII).
Thiết nghĩ, chữ Quốc ngữ đã trở thành máu thịt thiêng liêng trong tâm trí, đời sống tình cảm của mỗi con dân nước Việt. Từng con chữ không chỉ có xác, mà còn có hồn - hồn của một dân tộc ẩn hiện trong đó. Do đó, dù chữ Quốc ngữ còn có những khiếm khuyết chưa thật hoàn thiện, nhưng người ta không thể cải cách, thêm bớt một cách tùy tiện theo chủ quan của mình.
Nhìn nhận chung về tiến trình ra đời của chữ Quốc ngữ, nhà nghiên cứu, PGS-TS Đoàn Lê Giang kết luận xác đáng: “Chữ Quốc ngữ Latin từ chỗ công cụ truyền đạo của các giáo sĩ phương Tây đã trở thành công cụ để xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc thế kỷ XX, như chính các sĩ phu yêu nước trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục đã xác nhận “chữ Quốc ngữ là hồn của nước”. Điều này khiến chúng ta càng nhớ ơn và khâm phục tầm hiểu biết của các trí thức đã mở đường….” (Tạp chí Xưa & Nay số 473 -7.2016).
L.M.Q
(nguồn: Báo Văn Nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam số 3.9.2016)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|