LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 8.12.2015

Array In Array

leminh-quoc-trang-the-hy-1-RTừ phải: Nhà văn Trang Thế Hy, Lê Minh Quốc do nhà thơ Cao Xuân Sơn chụp tại Bến Tre ngày 10.10.2011

 

Đêm qua, lại đọc. Một thói quen. Thích đọc những truyện ngắn, bút ký có nhiều chi tiết, viết từ vốn sống. Đôi khi tưởng rằng, những chuyện ấy đã biết, đã rành rẽ nhưng thật ra vẫn mù tịt. Đọc, thấy thú quá và bật lên một tiếng “à” nho nhỏ trong cổ họng. Rồi lại đọc ngấu nghiến. Trong tập Thơ văn Xuân 1957 của NXB Văn Nghệ in tại miền Bắc, nhà văn Phạm Tường Hạnh có bút ký Trái sầu riêng. Thú thật, chưa bao giờ được thưởng thức món ăn ngon này: “Khi trái sầu riêng đơm bông, người ta lấy tấm đệm hứng những cánh hoa rụng xuống, dùng làm món rau sống ăn với mắm thái, thịt luộc. Nó là món ăn quen thuộc với người ở xứ vườn. Những bữa ăn đặc biệt, người ta dùng bông sầu riêng trộn giỏ, món ăn thanh lịch mà ngon: Cá lóc nứng trui, thịt ba rọi thái nhỏ, tôm nướng, hột vịt luộc, mỡ nước, hành củ, chanh, ớt, gừng, đậu, phụng rang trộn với bông sầu riêng. Đưa đà vài ly mai quế lộ, “nhậu” với bông gỏi sầu riêng. Nó vừa giòn, vừa ngọt, bùi bùi, béo béo, đậm đà, ý nhị một món ăn quê hương”.

Biết bao giờ mới được thưởng thức?

Đã khá lâu rồi, một anh bạn người miền Nam quả quyết ở miền Đông Nam bộ khi trui cá lóc, người dùng lá sầu riêng vì loại lá này giữ nhiệt lâu. Thật lạ, không biết ai nghĩ ra cái tên trái cây sầu riêng, sầu đâu, sầu đông nghe tình tứ “thần sầu quỷ khốc” đến thế? Tra lại tài liệu mới biết sầu riêng là gốc ở tiếng Mã Lại, gọi là durio hoặc durion. Từ điển của cụ Huình Tịnh Paulus Của (1834-1907) giải thích: “Thứ trái cây lớn mà tròn, vỏ nó có gai giống gai mít, trong ruột nó cũng có mùi như mùi mít, chữ gọi là châu liên”. Cái tên gọi “châu liên” nghe lạ hoắc, xa lạ quá.

Lại nữa, hôm trước con rể cụ Ca Văn Thỉnh (1902-1987) là ông Nguyễn Long Trảo tặng quyển hồi ký. Thú thật, chỉ thích những chi tiết thời thơ ấu mà ông đã trải qua. Nó gắn với sinh hoạt của miền Nam thời trước. Trong lúc tát đìa có chi tiết này, lần đầu mới biết: “Có quy ước rất hay là mỗi con cá khi vọt ra phía sau là đã thuộc về quyền sở hữu của những “con hôi” lúc nhúc bám theo sau, chủ nhà không được tiếc của mà quay lại bắt. Vì toàn là sình lầy nên cá thoát ra phía sau là chuyện bình thường, nên chủ nhà bắt được mười thì “con hôi” cũng được hai ba, có thể mang về làm mắm chứ không bao giờ hết”. Chỉ một chi tiết nhỏ, có thể biết thêm tính cách của người Nam bộ. “Con hôi” trong ngữ cảnh trên là từ “hôi” mà có. “Hôi” có nghĩa mót, nhặt những thứ còn sót lại; dần dần “hôi” mang nghĩa xấu như hôi của, hôi cá, đánh hôi…

Sáng nay, dậy sớm. Nhận được tin nhà văn Trang Thế Hy vừa qua đời. Ông mất lúc 0g50 ngày 8.12.2015 tại nhà riêng (Khu phố 1, phường Phú Tân, Bến Tre), sẽ an táng tại đất nhà vào ngày 10.12.2015. “Hơn hai mươi năm ông "đi chỗ khác chơi" / đêm đêm, tôi ngồi vào bàn viết / không nghe tiếng gõ cửa / vẫn ông ngồi đó / đôi mắt nheo cười / tẩu thuốc khóe môi / trên tay, ly rượu nhỏ: / "Ê nhóc! / may lắm thì tụi mình chỉ là người truyền giảng hy vọng / người bào chế thuốc giảm đau / thế thôi nghe, đừng tưởng bở, nhà thơ!". Những câu thơ khắc họa đúng tính cách nhà văn Trang Thế Hy của bạn thơ Cao Xuân Sơn, sáng nay, đột ngột ùa về trong trí nhớ.

Nếu nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến có câu nói trứ danh “Cái nước mình, nó thế”, thì câu “Đi chỗ khác chơi” của nhà văn Trang Thế Hy cũng nổi tiếng không kém. Và bản thân ông đã sống như thế. Chừng hai mươi năm trước, thỉnh thoảng còn gặp ông ở Hội Nhà văn TP.HCM, nhưng sau đó mới hay, ông bỏ tất cả để trở về “ẩn dật” tại Bến Tre. Ở nhà văn ấy, từ văn chương đến phong cách sống gần như một “ẩn sĩ”. Nói như thế không ngoa ngôn, đố ai có thể tìm thấy những tuyên bố, tuyên ngôn loạn xị của ông trên các diễn đàn ồn ào tiếp thị nhằm “đánh bóng” tên tuổi.

Anh em đồng nghiệp Báo Sài Gòn Giải phóng, Phụ Nữ réo điện thoại phải có bài ngay. Thế là viết. Lật lại nhật ký, mới nhớ lại chính xác về đến thăm tư gia nhà văn Trang Thế Hy là ngày 10.10.2011. Lúc đó, tập sách Sơn Nam - Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê do y biên soạn vừa in xong. Đơn vị xuất bản là NXB Kim Đồng đã thực hiện nghĩa cử tặng một số sách tại Nhà Lưu niệm của nhà văn Hương rừng Cà Mau ở Tiền Giang. Trên đường về, mọi người rủ nhau tạt qua đến thăm nhà văn Trang Thế Hy.

Ngồi trước vòm cây xanh, gió thoàng mát, anh em báo chí, xuất bản đã có cuộc trò chuyện thân mật. Còn nhớ rằng, qua sự quan sát ông, y mới thấy nhận xét của nhà thơ Cao Xuân Sơn là chính xác. Rằng, trong cuộc hàn huyên thân mật ấy, thỉnh thoảng, tác giả Vết thương thứ 13 lại tỏ ra quan tâm đến các chị em nhiều hơn một chút. “Đó tính cách của người am hiểu văn hóa, văn chương Pháp, thường hay galant phụ nữ”. Sơn nói đúng. Ở gương mặt chân thành, đôn hậu ấy, lời nói nhỏ nhẹ nhưng hai con mắt sáng đã toát lên sự điềm đạm, lịch lãm của một người từng trải, thanh lịch.

Nhà văn Trang Thế Hy tên thật Võ Trọng Cảnh, sinh ngày 9.10.1924 tại Châu Thành, Bến Tre, tham gia kháng chiến từ năm 1945. Và sự nghiệp cầm bút của ông cũng rất sớm, từ thập niên 1950, ông đã có nhiều truyện ngắn in trên báo chí xuất bản công khai tại miền Nam, cùng thời với các cây bút yêu nước như Lê Vĩnh Hòa, Viễn Phương, Sơn Nam, Ngọc Linh, Thẩm Thệ Hà… Vì lẽ đó, năm 1962, ông chính quyền Sài Gòn bắt giam; năm 1963, được thả tự do, sau đó, ông thoát ly ra vùng giải phóng và tiếp tục cầm bút.

Dù viết sớm, nổi tiếng sớm nhưng mãi đến năm 1964, ông mới in tác phẩm đầu tay Nắng đẹp miền quê ngoại. Có lẽ cũng cần nhắc lại, một trong những truyện ngắn tạo nên dấu ấn Trang Thế Hy chính là Anh Thơm râu rồng được Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu của Hội VHNT Giải phóng (1960-1965). Thế nhưng bẵng đi một thời gian dài, năm 1981, ông mới “tái xuất giang hồ” với tập truyện ngắn Mưa ấm. Nhân vật anh Thơm trong truyện ngắn trên có biệt danh “râu rồng” vì bộ râu cằm khác người, từ nhỏ đi ở đợ, nhiều lần bị hương quản Xung nhận đầu dìm dưới nước nhưng vẫn thoát chết. Sau này, sa vào tay kẻ thù, anh cũng bị những đòn tra tấn tương tự nhưng nhờ có kinh nghiệm nên sống sót: “Tôi nghĩ đây là thứ kinh nghiệm chua xót quá, chắc không ai muốn có những kinh nghiệm như vậy trong đời mình”. Đọc lại truyện ngắn ra đời đã lâu nhưng vẫn còn thấm thía, bùi ngùi quá đỗi.

Có thể nói, tác giả Người yêu và mùa thu viết không nhiều. Chính ông tự nhận: “Tuổi đời và tuổi nghề khá cao nhưng số lượng tác phẩm lại quá mỏng: chưa đầy hai mươi bài thơ, khoảng trên dưới nửa trăm truyện ngắn, chừng bốn hay năm tiểu thuyết, truyện vừa in nhiều ký trên nhật báo, tuần báo, tạp chí”. Dù viết ít, nhưng văn chương của ông vẫn cứ lừng lững trong nền văn học Việt Nam hiện đại, bởi lẽ hơn ai hết ông tự ý thức, rất ý thức đến sứ mệnh người cầm bút. Nói gì thì nói, với Trang Thế Hy đó chính là Nợ nước mắt - tên một tác phẩm được giải thưởng của Ủy ban  toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNTVN (1991) - vì thế, ông viết kỹ, cẩn trọng với từng chữ. Không quá lời, khi  có nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận sự cẩn trọng từng con chữ ở Trang Thế Hy cũng nhọc công không kém gì “ông vua tùy bút” Nguyễn Tuân.

Những gì của ông để lại, những con chữ ấy vẫn như còn đang cựa quậy trên trang viết, nó vẫn tươi mới và còn có ý nghĩa của thời cuộc. Mà nghĩ cho cùng văn chương thời buổi nào cũng thế, nếu ngòi bút nhà văn khai thác đến tận cùng nỗi đau, số phận của người cùng khổ, qua đó, thắp lên niềm hy vọng về ngày mai tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn vẫn là cốt lõi của muôn đời. Nói như Trang Thế Hy, nhà văn “chỉ là người truyền giảng hy vọng”, "người bào chế thuốc giảm đau".  Lâu nay, y rất thích và nhiều người cũng thích truyện ngắn Con mèo hoang và nhà thơ có gia cư. Dù thế nào đi nữa, nhà văn ấy dù sống trong hoàn cảnh bi đát, nghèo túng như Điền - nhân vật nhà văn trong truyện ngắn Giăng sáng của Nam Cao, thì họ vẫn không ngừng nuôi dưỡng sự hy vọng vì: “Nó giúp ông  ùng vẫy ngoi ra khỏi nỗi cô độc bi thảm và chỉ hướng cho ông vươn tới niềm cô đơn cao quý của một người cầm bút”..

Hầu hết các truyện ngắn của ông, dù viết về đề tài gì, nhưng ẩn sâu ở đó chính là quan niệm về nghề. Thấp thoáng đâu đó, từ Một thiếu nữ không đáng kể, Chút hào quang từ mảnh vỡ, Một nghệ sĩ buồn thích đùa… đến Rác và hoa, Tiếng hát và tiếng khóc vẫn là sự đau đáu, tự vấn về sứ mệnh của nhà văn. Chẳng hạn, khi chàng nghệ sĩ nghèo khi nghe lời tâm sự của người đàn bà bán thuốc lá bên vỉa hè mà tự nhủ: “Tôi nghe đó là lời răn dạy rất nghiêm có giá trị thức tỉnh cao của một hiện thực đau buồn nhắc nhở người cầm bút đừng bao giờ đánh mất cái điểm tựa đáng tin cậy của mình là nỗi khổ đau lớn của đám đông thầm lặng”.

Suy nghĩ này, xuyên suốt trong sự nghiệp của Trang Thế Hy.

Ông còn bảo: “Chức năng của văn chương là thanh lọc tâm hồn người viết và cung cấp thuốc giảm đau cho người đọc. “Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới”. Tôi vừa si mê vừa hoài nghi lời tiên tri ấy, của Dostoievky. Nhưng tôi cả tin rằng nếu như cái Đẹp cứu rỗi được thế giới thì trong cái Đẹp vĩ đại, mênh mông cao rộng không có đường biên ấy có cái Đẹp của văn chương”.

Ngày về Bến Tre thăm ông, thú thật, lần đầu tiên y mới biết nhà văn Trang Thế Hy có làm khá nhiều thơ. Điều thú vị nhất, lúc đó, ông khiêm tốn, nhã nhặn không đọc thơ của ông như mọi người yêu cầu mà đọc thơ của Tagore lại bằng… tiếng Pháp. Thử tưởng tượng, ở một vùng quê nghèo, chiều xế bóng, rít rít tiếng chim ca, bươm bướm bay thấp thoáng trên nhành đào, cây bưởi lại nghe du dương ngôn ngữ của Victor Hugo, Lamartine… còn gì thú vị hơn? Khi làm thơ, ông thường ký bút danh Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Song Diệp, Văn Minh Phẩm… và chắc chắn bạn đọc khó quên bài thơ Đắng và ngọt.

Tháng 9.1969, khi đang là chủ bút tờ báo Vui sống, nhà văn Bình Nguyên Lộc đọc bản thảo bài thơ Đắng và ngọt, cảm thấy cái tựa “chưa tiêu biểu cho cái vị đa tố chất của cuộc đời” nên đổi lại Cuộc đời. Qua tập thơ Đắng và ngọt, ông cũng gủi gắm ở đó những quan niệm về sứ mệnh nhà văn. Bài thơ Cuộc đời là một câu hỏi, một triết lý không cũ đi bao giờ: “Nghe anh theo nghề viết/ Nghệ thuật là gì em muốn biết/ -Mùi tanh nói mùi thơm/ Cây bút cầm tay: cần câu cơm/ Đó, em ơi! Nghệ thuật:/ Nhắm mắt quay lưng chào sự thật”. Sự tự vấn này nghe ra vẫn còn chua chát, thống thiết.

Lâu nay, thường có nhận xét người Nam bộ xuề xòa, hòa đồng, vui vẽ thân thiện, thường giúp đỡ những ai yếu thế v.v… điều này đúng, nhưng với nhà văn Trang Thế Hy có lẽ phải bổ sung thêm một tính cách nữa. Rằng, khác với nhiều người, dù đã đến lúc không còn viết được nữa, cảm hứng đã tàn lụi nhưng vẫn tiếc nuối hào quang của tiếng vỗ tay, của những lời ca ngợi nên cứ “bẹo hình hài rao lên bán”, Trang Thế Hy thì không, với ông, “đi chỗ khác chơi” vẫn là sự lựa chọn đầy tính cách, hào khí của một ngươi Nam bộ, quê hương Bến Tre, nơi đã từng cưu mang thi sĩ anh hùng Đồ Chiểu. Đó là sự trực tính. Không uốn éo. Không “bẹo hình bẹo dạng”. Không cưa sừng làm nghé. Không lập lờ. “Khi biết mình không viết được nữa thì đi chỗ khác chơi. Đừng bẹo hình bẹo dạng ở chốn trường văn trận bút để bắt độc giả lỡ yêu mến mình đọc những lời lếu láo”. Theo bạn thơ Cao Xuân Sơn, người có thời ở chung căn hộ với trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa chừng hai mươi năm trước, sinh thời Trang Thế Hy thường ngâm hai câu thơ của Nguyễn Du:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kỳ oan ngã tự cư

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi/ Cái án phong lưu khách tự mang).

Âu đó cũng là tất lòng của một “người hiền Nam bộ” vậy.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

may tinh bang-dien thoai vo go-sửa nhà

máy tính bảng-vỏ gỗ-sửa chữa nhà