LÊ MINH TÂM - Khêu ngọn đèn xanh

Array In Array

clip_image007

Tác giả Lê Minh Tâm (ảnh chụp tại Hải Hậu - Nam Định năm 2001)

 

Lời giới thiệu
 

1.

Hồi ký, tự truyện… là một thể loại khó viết. Rất khó. Bởi thói thường do “tốt khoe, xấu che” nên ít ai có thể dám bộc bạch hết suy nghĩ của mình. Có lần tôi hỏi nhà văn Nguyễn Quang sáng, tại sao không viết hồi ký? Ông cười khà khà, đại khái, chẳng lẽ tao chỉ toàn kể tốt về tao? Tuy nhiên, cũng có những ngoại lệ. Chẳng hạn, học giả Vương Hồng Sển dám viết hồi ký Hơn nửa đời hư đó sao? Đọc rất ngậm ngùi thú vị.

Theo tôi thể loại hồi ký chỉ thật sự có giá trị khi con người ấy có một tầm vóc lớn lao, mỗi gia đoạn của cuộc đời họ đều gắn với thăng trầm của một đất nước, một dân tộc.

Chẳng hạn, Tự phán của chí sĩ Phan Bội Châu, dù tự nhận cuộc đời cụ chỉ là một chuỗi thất bại, nhưng khi đọc, thế hệ sau lại học được biết bao là kinh nghiệm của thế hệ tiên phong khai đường mở lối trong sự nghiệp cứu nước.

Những nhân vật lừng lẫy ấy, khi đọc hồi ký của họ, chúng ta sẽ thấy hết sức thú vị vì có những chi tiết trong đời họ đã góp phần bổ sung cho chính sử, giúp ta hiểu chính sử rõ hơn.

Họ là những con người đã tạo ra thời cuộc.

Hiểu thời cuộc thông qua số phận một con người cụ thể, còn gì thú vị hơn?

2.

Lịch sử một đất nước được thể hiện qua chính sử. Đúng rồi. Nhưng vẫn chưa đủ. Chính các tập gia phả của mỗi dòng tộc, ngọc phả của các đời vua… có những chi tiết cụ thể, những con người cụ thể đặng khắc họa và bổ sung cho chính sử, giúp chính sử sinh động hơn, “thật” hơn và cũng “đời” hơn. Bên cạnh đó, tôi còn muốn nhấn mạnh đến các tập hồi hý, tự truyện, tự thuật… của các cá nhân khác.

Thế nhưng.

Có ai cần đọc những tập sách thuộc thể loại đó của những kẻ “thường thường bậc trung” như chúng ta không? Chắc không, nếu tập sách đó chỉ đóng khung trong cái cuộc đời của chính họ. Mà họ không nổi tiếng, không là người của công chúng thì chẳng ai buồn ghé mắt đến. Nói như thế, vì hiện nay đã có hẵn công ty chuyên viết hồi ký cho người khác. Ai cũng được. Miễn là đóng tiền đầy đủ. Loại hồi ký này có tên chung “hồi ký bình dân”. Gần như chìm vào quên lãng.

Nói đi cũng phải nói lại.

Gần đây nhất có nhiều hồi ký, tự truyện của những con người bình thường vẫn tạo được dư luận kìa mà. Tại sao? Bởi những hồi ký đó đạt được nhiều yêu cầu, ở đây tôi chĩ muốn nhấn mạnh: 1.Số phận của họ quá khốc liệt, thăng trầm dữ dội nên dù chuyện thật nhưng ta cứ như tưởng hư cấu của văn chương; 2. Viết về một cuộc đời bình thường như bao người khác, nhưng qua đó, ta lại thấy tái hiện lại tình hình xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa… của cả một thời, thời họ đã sống.  

Thế thì, thể loại này do ai viết cũng được. Vấn đề đặt ra là viết như thế nào.

Hồi ký Khúc tiêu đồng của ông Hà Ngại là một thí dụ sinh động. Dù viết cho riêng mình, chỉ viết lại những gì mắt thấy tai nghe, không hư cấu nhưng tập sách đó rất có giá trị nếu chúng ta cần biết về khoa cử, hát bội, sinh hoạt chợ búa, đời thường dân dã… của cuối thời Nguyễn. Những thông tin đó quý báu, hấp dẫn hơn cả tài liệu “chính quy” vì chính nó đã được kể từ người trong cuộc, từ tình tiết cụ thể…   

Muốn vậy, người viết phải có biệt tài quan sát, có trí nhớ tốt, có tài liệu v.v… để đủ sức tái hiện lại một thời đại mà họ đã sống. Mà thông tin của sự tái hiện đó phải gắn với cái chung, được nhiều người cùng quan tâm.

3.

Tập sách các bạn đang đọc đây, tôi tạm gọi "tự truyện" là của ông Lê Minh Tâm - anh tôi. Có những điều quý báu của người nay, nhưng với người kia lại không là gì cả. Và ngược lại. Điều ấy là lẽ thường tình. Tập sách này,  tác giả tự bạch rằng:

“Tôi chỉ muốn viết lại những gì tôi đã trải qua suốt cuộc đời tôi. Biết đâu con cháu mai sau, sẽ đọc. Dù nhận thức không nổi tiếng nhưng tôi vẫn viết với ý nguyện kể lại cho người thân biết sơ qua những biến cố lớn, nhỏ thăng trầm đã xẩy ra trong gia đình tôi. Không phải nhà văn chuyên nghiệp, tôi cũng cố gắng ghi lại những gì mình đã sống và đã nhớ, nếu không viết lại ắt hẳn có ngày sẽ quên phéng đi mất. Những cảm nhận này chỉ cảm nhận riêng tư, những kỷ niệm về cuộc sống riêng tư, muốn chia sẻ cùng người thân. Những biến động to lớn của đất nước được tôi dẫn chứng từ những trang có thể gọi là uy tín trên net, được in nghiêng và dặt trong ngoặc kép. Tôi viết về quê cha và quê mẹ. Về gia đình nội ngoại về những kỷ niệm với bà con thân thuộc. Về cuộc chiến mà ba tôi đã tham gia đến ngày 29/3/1975. Dầu sao cũng có thể cho thế hệ đời sau biết chút ít về những gì cha ông họ. Những nhân vật có thật trong truyện này có thể viết nối dài nội dung ra thêm? Chung tay viết nối hầu câu chuyện có thực thêm phần súc tích”.

Tập sách này không có tựa. Tôi đặt tựa “Khêu ngọn đèn xanh”. Là lấy ý từ bài thơ Ngọn đèn xanh của thi sĩ Quách Tấn, viết năm 1951 (in trong tập Mùa cổ điển, tái bản lần 2 tại miền Nam năm 1960):

Quán không hò hẹn đón đưa nhau,
Khêu ngọn đèn xanh gạn bể dâu.
Thương tớ, mái gương dường ướm tuyết,
Mừng ai, khóe phụng vẫn nguyên thu.
Hoa, lòng nỡ gởi trời U cốc?
Bút, mộng không rời nợ Bích câu.
Muốn mượn chén trăng hòa viễn ý
E dòng lệ ngọc khóc minh châu…

LÊ MINH QUỐC
(VIII.2012)


Quê nội

"Dọc theo quốc lộ 1 ra Bắc, đi cuối hết tỉnh thuộc cực Bắc Trung bộ. Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cửa ngõ cực nam miền Bắc và khu vực đồng bằng Bắc Bộ, Ninh Bình giáp với Hòa Bình, Hà Nam ở phía bắc, Nam Định ở phía đông, Thanh Hóa ở phía tây, biển (vịnh Bắc Bộ) ở phía đông nam. Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách Hà Nội 93 km về phía nam. Ninh Bình bao gồm cả ba loại địa hình. Vùng đồi núi bán sơn địa ở phía Tây và  vùng đồng bằng ven biển ở phía Đông Nam. Xen giữa 2 vùng lớn là vùng chiêm trũng chuyển tiếp. Ninh Bình có bờ biển dài 18km. Bờ biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m.

clip_image001

Quê cha năm 2004


Ba tôi được sinh ra và lớn lên tại thôn Kỳ Vỹ, xã Ninh Thành, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình. Nay đã được hợp nhất vào huyện Hoa Lư. Chuyện tách và nhập của huyện Gia Khánh quê nội tôi cứ giống như chuyện cổ tích “cây tre trăm đốt”. Được biết rằng:

"Huyện Hoa Lư được thành lập ngày 27/4/1977 do hợp nhất huyện Gia Khánh (phủ Tràng An) và thị trấn Ninh Bình, khi đó thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Thị xã Ninh Bình chuyển thành thị trấn Ninh Bình, huyện lỵ huyện Hoa Lư. Ngày 9/4/1981, tái lập thị xã Ninh Bình, tách khỏi huyện Hoa Lư. Trụ sở huyện Hoa Lư chuyển về xã Ninh Khánh. Sau đó nhiều lần tách đất huyện Hoa Lư nhập vào thị xã Ninh Bình. Từ năm 1991, Hoa Lư thuộc tỉnh Ninh Bình với trung tâm là thị trấn Thiên Tôn. Trong tương lai, do sức ép phát triển đô thị của thành phố Ninh Bình, rất có thể diện tích huyện Hoa Lư tiếp tục sẽ dần được chuyển nhập về thành phố này".

clip_image002

Sông Vân núi Thúy ( Ninh Bình )

Gia khánh xưa là một vùng đồng chiêm trũng, mỗi năm chỉ làm được một mùa lúa, còn thời gian trong năm nước nổi tứ bề. Một dãy núi đá vôi trùng trùng điệp điệp kéo dài về cũng là một trong những lẽ ấy. Kinh đô nằm lọt vào giữa vùng núi đá vôi trùng điệp. Giặc ngoại xâm muốn chiếm kinh đô phải đi qua nhiều thành lũy thiên nhiên bằng đá trùng điệp. Truyền rằng sau khi Đinh Bộ Lĩnh băng hà, Người được an táng trên một ngọn núi cao nhất, muốn lên đến đó phải khổ nhọc vượt qua gần 200 bậc cấp thiên nhiên khúc khuỷu. Cho đến nay tương truyền vẫn vậy, nhưng người làng tôi thật tình mà nói chẳng có ai biết Ngài được an táng tại nơi nào. Đến năm 910, vua Lý Thái Tổ dời kinh đô về Thăng Long. Hoa Lư trở thành một trong những cố đô của Việt Nam.

Từ quê nội tôi đến cố đô Hoa Lư thời vua Đinh Bộ Lĩnh khoảng 7 cây số. Vùng này có thế đất hình con cá chép, quê nội tôi là cái đuôi, cái đuôi cá chép vẩy lên cao, như  muốn hóa thành rồng để bay về trời. Làng Kỳ Vỹ. Cái đầu cá chép ở mãi tận Hoa Lư.

clip_image003

Phần mộ cụ Tổ  (ngành hai) dòng họ Lê Trọng

Ba tôi là con một nhà Nho, dòng họ Lê Trọng, gia định cụ kị đến đây lập nghiệp từ lâu đời, theo lời kể của ông khi còn sinh tiền, gia phả có ghi chép cẩn thận. Năm 1945, Việt Minh lên nắm chính quyền, lúc ấy ông đã lớn khôn nhưng chẳng làm gì được để cứu vãn tình thế, nhà thờ tộc bị trưng dụng để làm nơi hội họp, lư hương bát nước bị bỏ phế và đau buồn nhất là toàn bộ gia phả của dòng họ bị đốt sạch. Tất cả những tài liệu, sách vở gì được ghi chép bằng chữ Nho đều bị quy là tàn dư của phong kiến, phải đốt sạch sành sanh! Anh em chúng tôi không biết chi nhiều về dòng dõi bởi sự đốt phá này. Năm 1947, theo chính sách tiêu thổ kháng chiến, nhà thờ tộc cũng không thoát khỏi cảnh đập phá thành bình địa theo chính sách chủ trương lúc ấy. Những cột đá tiền sảnh bị xô ngã khắp nơi, những người thân trong tộc xót thương, xin mang về chôn cất giấu cùng những vật dụng gì còn sót lại của ngôi từ đường .

Sau năm 1975, ba tôi ở Đà Nẵng cùng chú tôi  ở thị trấn Cồn - Nam Định về lại quê Kì Vỹ -  Ninh Bình, hợp sức với tất cả bà con trong dòng Lê Trọng, đóng góp kinh phí, xây dựng lại ngôi Từ đường. Những gì đào lên lại từ nền từ đường cũ là những cổ vật, rồi dựa theo đó phục dựng lại. Ngôi từ đường được dựng lại trên nền đất cũ và lối kiến trúc theo trí nhớ của các vị cao niên, dù sao đi nữa cũng không thể nào giống in hệt ngôi từ đường cũ. Nhưng còn đó những cột đá xanh Ninh Bình được những nghệ nhân làng đá Hoa Lư tài ba thuở nào tạo tác. Ngôi từ đường vẫn còn cái nét thuần Việt cổ xưa của nó đã từng có. Trong danh sách được khắc bảng đá ghi công, những người góp công góp của xây dựng lại ngôi từ đường có tên cha tôi. Ngôi từ đường họ Lê Trọng bây giờ toạ lạc tại thôn Kỳ Vỹ, xã Gia Khánh, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

clip_image001a


Phần mộ tổ tiên ở thôn Kì Vỹ - Ninh Bình

Ba tôi từ nhỏ theo ông nội học chữ Nho, đi phụ việc cho ông bếp Từa gọi bằng chú ruột để kiếm cơm. Năm 1944, ba tôi được sự đồng ý của gia đình đã đi hỏi cô gái tận bên Hoa Lư. Sau nạn đói năm 1945 người làng mất nhiều lắm. Gia đình tôi hồi ấy cũng mất đi 2 người trong một năm. Cô Út mất sớm khi còn trẻ. Ông nội tôi buồn rầu, rồi cũng mất sau đó mấy tháng.

Ông nội tôi  là một nhà Nho. Ông làm những công việc nhàn hạ của kẻ sĩ thời đó như dạy học, chấm số tử vi, coi ngày lành tháng tốt, dựng vợ gả chồng, xem ngày giờ tang ma và huyệt mộ cho người chết, coi mạch bốc thuốc… Nói chung là làm công việc của nhà Nho là Nho, Y, Lý, Số. Ông không giàu có chi, nhưng nhàn nhã lắm. Chẳng bù với bà nội tôi một nắng hai sương vất vã làm nông. Hằng ngày bất kể nắng mưa, cứ ở ngoài đồng, mặt cúi xuống đất, lưng phơi lên trời. Bà không bao giờ than van gì. Bà lấy những công việc nặng nhọc đó làm thú vui hằng ngày. Ba tôi kể nói bà nội tôi luôn đầu tắt mặt tối.


 

Một câu chuyện tình

Ba tôi thương bà nội lắm, muốn lấy vợ sớm để có người giúp đỡ mẹ già và ông đã hỏi vợ khi mới 16 tuổi! Ba tôi đi hỏi cô Xuyên bên Hoa Lư làm vợ. Mà con người có số thật. Ông nội tôi chấm số cha tôi là “Nhạn viễn trường xa”: Chim nhạn bay xa.

Hương lửa nồng thắm và những lục đục thường xuyên của đôi vợ chồng trẻ chưa được kéo dài bao lâu thì đất nước lại lao mình vào cuộc khói lửa đao binh. Ông đi vào cuộc chiến từ năm 1946. Hình ảnh cuối cùng của ba tôi là chia tay bà nội khi mới 18 tuổi. Lúc ấy, bà nội tôi mót trong cạp quần ra cho ông mấy hào cuối cùng để phòng thân. Chia tay bà nội tôi, ông nói: “Xong việc nước con sẽ về với U”. Và ông ra đi biền biệt.

Theo đoàn quân Nam tiến, ba tôi vào bộ đội và ông được học nghề y tá. Ông thông minh và thông hiểu chữ Nho, được phân công làm y tá trưởng của bệnh viện quân y dã chiến. Ông theo các mặt trận chống Pháp để cứu chữa thương bệnh binh. Số thương binh trong bệnh viện rất nhiều, tay nghề của ba tôi rút được nhiều kinh nghiệm trong thực hành, đôi khi ông phải thay bác sĩ làm những cas đơn giản rồi dần dần phức tạp. Và ông là người cầu tiến luôn học hỏi, ông đọc rất nhiều sách để mở mang kiến thức. Khi lớn khôn tôi cũng hay đọc ké bán nguyệt san Phổ Thông và Thời nay của ông để mở mang kiến thức. Những cuốn sách về y khoa dày cộm của ông khi đọc, tôi cũng lan man biết sơ sơ một vài bệnh. Tôi tự chữa cho mình bệnh ghẻ kinh khủng sau năm 1975. Người ta phao tin đồn bệnh này do bộ đội thiếu thốn, mang mầm bệnh trên tận dãy Trường Sơn mang về lây bệnh cho thị xã, khi nhắc lại chuyện này nhiều người còn đặt tên là là bệnh ghẻ “bộ đội”. Nghĩ lại thấy buồn cười.

Đúng như lời ba tôi hay dạy dỗ, ra đời học thức không bằng kiến thức. Muốn làm giàu kiến thức của mình không còn cách nào khác bằng thường xuyên đọc sách báo. Nhờ đọc tìm hiểu từ sách sách y khoa của ba tôi, tôi đã tự chữa lành bệnh ghẻ của mình một cách đơn giản chỉ bằng nước muối nóng. Nấu nước pha muối nóng khoảng 40 - 50 độ C ngâm chổ da bị ghẻ vào và chà xát, mấy con ghẻ bị muối diệt sạch. Cũng đơn giản.

Năm 1950 ông được kết nạp vào Đảng cộng sản. Khi về lại làng cũ, tôi có gặp một  bạn chí cốt của ba tôi. Ông bác này đi bộ đội cùng ngày với ba tôi, nhưng theo đoàn quân Bắc tiến. Nay đã ông đã nghỉ hưu, nhưng thoạt nhìn vẫn còn nét nhanh nhẹn của những chàng bộ đội trẻ thuở nào. Ông sống lại quá khứ, khi tôi ngồi tiếp chuyện. Những mảnh đời cơ cực của các chàng trai quê nội tôi sống lại trong ông. Họ không có con đường nào khác là xung phong đi bộ đội theo kháng chiến, để rời khỏi mảnh đất giàu tình người nhưng đói khổ quanh năm. Dù cho kháng chiến gian khổ, hy sinh nhưng vẫn còn được ăn no mặc ấm còn hơn ở quê luôn luôn thiếu ăn thiếu mặc. Ba tôi cũng vậy. Ông đi bộ đội để nhà bớt đi miệng ăn. Ở quê nhà, bà nội tôi mòn mỏi chờ con.

Khoảng thời gian 1950 bệnh viện quân y của ba tôi đóng ở Cây Sanh - Tam Kỳ,  cùng thời gian ấy gia đình bên ngoại tôi tản cư về đây sinh sống. Mẹ tôi gọi đây là vùng tự do, giặc Pháp ít đem quân càn quét đánh phá hơn những vùng khác. Nhưng thật đau thương thay! Trong một trận ném bom của giặc Pháp, dì Nữ tôi đã bị chết cháy vì bom napal, dì thứ Tám mẹ tôi thứ Năm, mặc dù cho dì đã kịp chạy xuống nấp dưới giao thông hào, năm đó dì mới tròn 17 tuổi bà ngoại tôi rất đau buồn vì thương nhớ dì suốt cả năm trời, có thể nói bà muốn chết theo con. Mẹ và hai dì tôi, dì Ba và dì Hiền mở quán ở vùng này, buôn bán linh tinh các thứ. Bộ đội quen miệng và đặt tên quán Ba Cô. Ba tôi cũng hay ra đây ăn uống mua vật dụng và nhân tiện làm quen và tán tỉnh bà. Thời trẻ cha tôi đẹp trai, mũi cao, cổ có trái khế, rất đàn ông, ăn nói lưu loát và tài ba hơn người. Mẹ tôi đã xiêu lòng.

Một thời gian sau hai người được sự đồng ý của ông bà ngoại, ba mẹ tôi gá nghĩa vợ chồng, anh đầu là Lương và tôi được sinh ra tại đây: Cây Sanh, Tam Kỳ.

Hồi nhỏ, tôi hay đái mế. Mẹ tôi bắt con nhện màu đen có mang ổ trứng màu trắng dưới bụng, đem nướng ăn để hết bệnh đái mế. Tôi học vở lòng ở trường của ông thầy Kính trong xóm Vạt Mả. Sau một buổi học về nhà, tôi hát: “Kẹo kéo Bắc kỳ, có tiền mà để làm gì, không mua kẹo kéo Bắc kỳ mà ăn”. Vào nhà gặp ba  tôi, ông hỏi cái thằng này mầy hát cái gì thế, rồi cú một cái đau điếng! Tôi ức lắm, tấm tức chờ chiều tối lúc mẹ đi chợ về mới hỏi. Mẹ giải thích, ba con là người Bắc kỳ mà con hát như vậy ổng nổi nóng! Bữa sau không nên hát như vậy nữa! Tôi chưa phân biệt được giọng nói của 3 miền, chỉ nghe cha nói cái giọng khác mẹ mà thôi.

Sau này lớn lần lên học ở trường Nam Tiểu Học, vào lớp nghe nhiều bạn nói nhiều giọng nói khác nhau tôi mới phân biệt được. Cô giáo lớp nhì của tôi còn bắt tôi sửa lại giọng nói cho dễ nghe, chứ tôi nói giọng Quảng chay khó nghe lắm. Ví dụ “con nai” tôi lại nói “con nưa”. Sau năm lớp nhì, tôi còn nhớ là cô Hồ, chia tay chúng tôi để nhận nhiệm sở mới ở Lâm Đồng, đối với bọn trẻ con chúng tôi hồi ấy nơi ấy xa lắm, chẳng biết đi bao giờ mới tới, buổi học cuối cùng với cô bọn tôi khóc xù xịt. Tôi nhớ ơn cô lắm, nhờ cô mà giọng nói của tôi ít “nhà quê” hơn.
*
Năm 1954, hai miền Nam Bắc ký hiệp định Genève. Bộ đội được tập kết trở ra Bắc. Năm 1952, bệnh viện quân y mà ba tôi đang là y tá đã được chuyển sang dân y. Cấp trên quyết định ông ở lại phục vụ bệnh viện, không tập kết ra Bắc. Lúc ấy, ai cũng nghĩ rằng, hai năm sau sẽ có cuộc tổng tuyển cử, thống nhất nước nhà, những người đi tập ra Bắc kết lại được trở vào Nam. Nhưng cuộc chiến tương tàn này kéo dài mãi đến năm 1975 mới kết thúc. Gia đình ông ngoại tôi có 3 người đi mãi 21 năm sau mới gặp lại. Bác Mười cụt - chồng dì Ba là công nhân quốc phòng đang công tác tại xưởng may quân phục. Sao dì Ba không theo chồng ra Bắc? Tôi sẽ kể sau. Dì Bốn Đường theo chồng là chú Lôi đang là thợ đúc vũ khí của công binh xưởng quân khu V. Vậy là ông ngoại tôi có 3 người tập kết ra Bắc.

Theo hiệp định Genève, nước Việt Nam tạm thời chia thành hai miền Nam, Bắc. Vĩ tuyến 17B, nơi con sông Hiền Lương chảy từ nguồn Trường Sơn ra biển Đông (tỉnh Quảng Trị), được coi là ranh giới tạm thời giữa hai miền. Sau 2 năm, sẽ tổ chức hiệp thương, tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Nhưng điều ấy đã không xảy ra. Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam ngày 2-12-1954. Tình trạng đất nước bị chia cắt kéo dài suốt 21 năm (1954 – 1975) mới chấm dứt. Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam ở phía Nam vĩ tuyến 17B thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa.

Giọng nói của tôi Quảng Nam chay, dù được sinh sống từ nhỏ ở phố phường Đà Nẳng, mẹ  tôi quê tận thôn Đại An, huyện Đại Lộc, có ngã ba sông gọi là sông Giao Thủy. Năm 1955, cha mẹ tôi cùng gia đình ông bà ngoại hồi cư về Đà Nẵng - hồi ấy gọi là vùng “tạm chiếm” - sinh sống. Gia đình ông bà ngoại tôi về ở xóm Tân thành - khu phố Nam Dương. Và tôi và mấy anh em tôi được sinh ra ở Quảng Nam nói giọng Quảng Nam, chứ không nói giọng Bắc như ba tôi.

Về người đàn bà mà ba tôi gá nghĩa năm 1944, mãi đến sau năm 1990 tôi mới có dịp về quê nội và nghe cô tôi kể lại tên là Xuyên. Sau năm 1975, ba tôi về quê có tìm gặp cô Xuyên. Hai mái đầu bạc gặp nhau tại nhà cô. Hai người nói với nhau những gì? Có trời mới biết. Hai người đã hóa thành thiên cổ. Viết đến đây tôi nhớ lại bài thơ Tình già của Phan Khôi:

Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai mái đầu xanh kề nhau than thở.
Ôi đôi ta tình thương thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẵn là không đặng;
Ðể đến rồi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau
Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nở? Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng, mà tính việc thủy chung?
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ nơi đất khách gặp nhau!
Ðôi mái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi! Con mắt còn có đuôi

Chuyện của ba tôi và cô Xuyên không phải là nhân tình nhân nghĩa mà là vợ chồng,  ba mươi bốn năm sau mới gặp lại. Không gặp lại nơi đất khách mà gặp lại nơi hai người đã dạm hỏi nhau. Tôi suy luận rằng chắc là khi chia tay hai người cũng liếc với nhau, con mắt không những có đuôi mà còn đứt luôn cái đuôi!

Tình cũ không rủ cũng đến. Ba tôi cứ vài năm lại mượn cớ về thăm quê một lần, mỗi lần đi cũng vài ba tháng. Mẹ tôi là người Quảng Nam tính tình bộc trực, ăn một cục nói một hòn. Mẹ tôi nghĩ rằng sau bao nhiêu năm làm vợ, đẻ một bầy con khôn lớn mà chẳng làm dâu ai cả. Cho nên mỗi lần ba tôi về quê nội là thường gởi tặng quà cáp về cho cô chú. Ngoài ấy, sau chiến tranh thiếu thốn đủ thứ, quà cáp gì trong Nam gởi ra cũng quí cả. ba tôi được đằng chân lân đằng đầu, tâm sự về cô Xuyên với mẹ tôi. Ruột dạ đàn bà, mẹ tôi thông cảm và thương cô Xuyên  lắm, bà nghĩ nôm na mình có chồng mà cô Xuyên lại làm dâu nhà chồng mình, mình phải biết ơn cô ấy. Mẹ tôi có gởi số tiền lớn ra giúp đỡ cô.

Sau nay, khi ba tôi đã mất, mẹ tôi có một lần về quê chồng. Có lẽ có là chuyến đi xa nhất của bà, kể từ ngày hồi cư về Đà Nẵng. Số phận một con người không tách khỏi số phận đất nước. Lạ kỳ thay, mấy mươi năm làm mẹ, làm vợ nhưng mãi đến khi gần đất xa trời mẹ tôi mới được về quê chồng. Em tôi, nhà thơ Lê Minh Quốc có viết bài thơ  “Mẹ về quê chồng” in trên tạp chí Văn nghệ quân đội (số tháng 10.2001) từ chuyện này:

Năm mươi năm làm dâu
Quê chồng xa lăng lắc
Lần đầu tiên đi về
Mẹ mừng rơi nước mắt

Đêm trằn trọc không yên
Ba con giờ đã mất
Sáng mai mẹ lên tàu
Anh con cầm tay dắt

Sông núi dài trước mặt
Bỗng dưng mẹ khóc òa
Lấy chồng mười bảy tuổi
Bảy mươi mới về nhà

Cỏ mọc bờ ruộng xa
Níu bước chân mẹ lại
Ba con bay về trời
Cánh diều xa tít mãi…

Thắp một nén nhang thơm
Trên bàn thờ ông nội
Chao ôi cái kiếp người
Như mây bay gió thổi

Được trở về quê chồng
Mẹ bây giờ mới thấy
Vui buồn thuở đầu tiên
Làm dâu năm mười bảy

Mẹ bần thần đứng lại
Vân vê vạt áo dài
Nhìn xuống đôi guốc mộc
Mòn vẹt gót chân chai…

Trở lại chuyện cô Xuyên. Quả là người con gái đáng phục, cô sang sống cùng cô Cớt tôi, làm tròn bổn phận dâu con, chung tay nuôi dưỡng mấy người con chị chồng nên người.

clip_image005

Ba tôi ảnh chụp năm 1955  

Mãi đến tận sau năm 1957, có người làng là lính kiều bào trở về. Ông này đăng lính Pháp đánh trận tận mãi bên Algerie - châu Phi, bị thương nặng rồi giải ngũ hồi hương. Năm ấy ông về làng cũng đứng tuổi rồi, nghe đâu ngoại tứ tuần. Ông lính kiều bào tìm đến cô Xuyên. Cô Cả tôi thay mặt bà nội tôi đứng ra se duyên chồng vợ cho họ. Cô Xuyên sinh được một cậu con trai. Cậu ấy tên Tài.

Cậu này có tìm vào thăm gia đình tôi năm 1994, ba tôi đã qua đời năm 1992, tự giới thiệu và nhận anh em tinh thần. Cậu này sau hòa bình làm ăn khá lắm, cậu theo nghề bên nội chạm khắc gỗ, hàng hóa được bán vào tận Sài Gòn và xuất cảng đi khắp nơi, sau này anh em chúng tôi gặp nhau  không thường xuyên lắm, dù không máu mủ ruột thịt nhưng qua mối tình dang dở của tôi và mẹ cậu ấy nên chúng tôi quý mến nhau như anh em ruột.

Tôi nghĩ, khi cô Xuyên đã “đi bước nữa” và có một người con an ủi tuổi già cũng làm cho lương tâm ba tôi bớt ray rứt. Chứ tình cảnh cô Xuyên sau bao năm vò vỏ đợi chờ đến hôm nay vẫn cô độc, chắc ông cũng đau buồn lắm. Chúng tôi cũng rất mừng cho cô. Ngày tôi ra đời là ngày ba tôi nhận được tin cô Xuyên có người mai mối.Vậy là ba tôi mãn nguyện.


 

Chú Vinh

Chú tôi - chú Vinh, sau khi bố mẹ mất, ở nhà không nghề ngỗng chi cả, học hành lem nhem, ở với chị Cớt lại hay bị ăn đòn. Ông bỏ nhà ra đi, đi mãi đi mãi rồi đến tuổi đi bộ đội, lăn lộn qua nhiều chiến trường Trong một trận đánh chống Pháp, ông bị thương và cụt một tay.

Cuộc đời ông lại rẽ vào một ngỏ khác, thương binh hồi ấy được ưu tiên lắm, ông được sung vào đội thuế của Thị trấn Cồn ở mãi tận bên huyện Hải Hậu - Nam Định, gần biển. Cách quê tôi cũng phải hơn 50 cây số. Chú tôi đã chọn vùng đất này để lập nghiệp vì sự trù phú của nó

"Thị trấn Cồn thuộc huyện Hải Hậu .Thị trấn Cồn là thị trần đầu tiên của tỉnh Nam Định. Nằm ở trung tâm phía Nam của huyện Hải Hậu, phía Đông giáp xã Hải Lý, Đông Bắc giáp xã Hải Tây, Đông Nam giáp xã Hải Chính, phía Bắc giáp xã Hải Tân, phía Tây giáp xã Hải Sơn, phía Tây Nam giáp xã Hải Cường, phía Nam giáp xã Hải Xuân - là trung tâm văn hóa của cả vùng. Thị trấn bao gồm 16 đơn vị hành chính . Nổi tiếng từ xưa với chợ Cồn - trung tâm thương mại của cả vùng phía Nam . Ngoài ra còn có Chùa Cồn được nhận bằng Di tích lịch sử Quốc gia năm 1995.
Là thị trấn có diện tích nhỏ nhất huyện Hải Hậu, nhưng kinh tế của thị trấn khá phát triển. Thành phần kinh tế chủ yếu là tiểu thương và tiểu thủ công nghiệp, ngoài ra còn có một vùng làm nông nghiệp là khu vực xã Hải Tiến cũ (làng An Bài). Tỉ lệ người dân theo Đạo Thiên Chúa của Thị trấn cũng khá cao".

Cách nhà Chú ra biển khoảng 6 cây số, biển Hải Hậu bị xâm thực kinh khủng, người ta phải cho đổ đá hộc dọc suốt ven biển để tránh sóng to gió lớn, nơi vùng biển này các cố Đạo Gia Tô đã vào truyền Đạo lần đầu tiên ở Việt Nam. Xa xa ngoài biển có mấy ngôi nhà thờ hằng trăm năm tuổi đã bị biển xâm thực nằm chơ vơ, chỉ còn thấy phần gác chuông và tượng chúa Jésus trên cao. Mấy bức tường bị sóng nước đập vỡ loang lỗ. Sức mạnh của thiên nhiên tàn phá ngày qua ngày khủng khiếp thật.

clip_image007
Hải Hậu nhìn ra biển

Chú tôi đã chọn vùng đất này để lập nghiệp vì sự trù phú của nó. Đồng lúa Nam Định rất màu mỡ, là vựa thóc của miền Bắc. Hải Hậu - chỗ chú tôi ở, nông dân còn cấy loại gạo thơm đặc chủng. Nồi cơm khi đã chín, mở vung ra, hương thơm bay ngào ngạt khắp nhà. Ở nhà, chú tôi được thổi riêng một nồi cơm loại gạo này mỗi bửa ăn. Ông bảo số ông có sao Tham Lang thủ mệnh nên thích ăn ngon! Ngư nghiệp cũng phát triển, ra chợ tôi thấy người ta bày bán rất nhiều loại cá quí hiếm với giá rất rẻ, nhất là cá thu. Ngoài ra những sinh vật trong đồng cũng chẳng thiếu chi như rạm đồng, ếch, lươn, cá quả (cá tràu) cũng ê hề... Tôi đã trổ tài nấu mấy món miền Nam với sinh vật tự nhiên hoang dã này cho mấy em nhậu, đứa nào đứa nấy cũng khen nức nở các món như ếch xào xả ớt, da ếch chiên dòn, cá quả nấu canh chua…

clip_image006

Cháu đích tôn của ba tôi

Nói là cư dân thị trấn cho oai chứ thói quen nấu nướng  nhà chú tôi còn mang tính nông thôn, không dùng nhiều gia vị, khó chế biến được nhiều món ngon. Nhìn vào bếp tôi thấy chỉ có một hũ mỡ và một hũ muối, với ngần này gia vị, bảo làm sao nấu ăn cho ngon được. Tôi học được mẹ tôi  câu tục ngữ “hành mỡ đỡ đứa vụng”. Khi trổ tài nấu nướng tôi đã nêm nếm nhiều gia vị hợp lý nên bọn em ăn vào thấy khoái khẩu. Lần thứ hai tôi ra lại, cung cách ăn uống nhà chú tôi đã khác xưa, lần này bọn em nấu thếch đải tôi món “tiểu hổ đồng bằng”và “nai đồng quê” ngon tuyệt.

Khi sinh thời tôi cũng có về thăm chú tôi, hoàn cảnh ông như vậy mà ông sinh đến 9 người con, quớ trời!

Thím tôi tâm sự, bà là con ông Chánh Thái, có anh trai là quan ba của Pháp, nhà cửa bị tịch thu, anh trai đi tù, mười mấy năm sau mới được tha về, cha bị đấu tố. Ấy là vào năm 1945, gia đình rất sa sút. May mà có lệnh sửa sai của Hồ Chủ tịch chứ không cha bà - ông Chánh Thái phải tội tử hình!

Lúc ấy, bà sinh nhai bằng cách trốn chui trốn nhủi đi bán thịt heo nuôi gia đình. Mà khổ quá trời ạ, mỗi lần đi mua đi bán lại bị chú tôi - nhân viên đội thuế thị trấn Cồn lùng bắt, phạt thuế, bà căm hận lắm. Khóc lóc van xin, chú tôi lại mủi lòng tha cho, từ đây mà tình cảm nẩy sinh? Chắc ông bày trò này ra để chiếm đoạt con tim của bà chăng? hay bà thương cảm vì tấm thân tàn phế của ông? Hay bà muốn dựa vào ông thương binh để được che chở? Với ngần ấy lý do, hai người đi đến yêu thương hồi nào không hay! Bà và chú tôi nên nghĩa vợ chồng.

Lấy con nhà địa chủ phong kiến, chú tôi không ngóc đầu lên nổi, được làm nhân viên phòng thuế thị trấn là may phúc rồi.

Rồi chú cũng đến ngày phải về hưu vì cao tuổi, với đồng lương hưu thương binh ít ỏi chết đói.

"Cuộc sống của người dân miền Bắc đã khó khăn lại càng căng thẳng, ngay cả bộ đội cũng bị thiếu ăn. Ở thành thị, dân chúng phải tản cư về nông thôn để tránh bom, nhu yếu phẩm cho dân thành thị được bán theo chế độ tem phiếu rất nghiêm ngặt . Ở nông thôn, ngoài số thực phẩm tối thiểu được để lại để nuôi sống gia đình, tất cả các nông phẩm phải đưa hết vào kho cho nhu cầu quốc phòng. Nông thôn vắng bóng nam thanh niên. Nữ thanh niên vừa lao động sản xuất vừa phải tham gia vào lực lượng dân quân tự vệ bảo vệ trật tự và tham gia huấn luyện quân sự, bắn máy bay. Chính phủ đã huy động hàng vạn nữ thanh niên đi Thanh niên xung phong sinh hoạt tập trung như bộ đội vào tuyến lửa tại các tỉnh bị đánh phá nặng nề nhất như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, và vào tuyến đường Trường Sơn, sang Lào để làm nhiệm vụ hậu cần, làm đường và đảm bảo giao thông. Số này bị thương vong vì bom đạn và bệnh tật rất nhiều (wikipedia.org/chiến tranh Việt Nam)".

Chú lại dấn thân một lần nữa để nuôi con. Chú làm đủ thứ chuyện. Buổi sáng, ông nấu 2 nồi thuốc nhuộm to đặt ở ngã tư thị trấn, sai mấy thằng con chụm lửa đỏ mắt, hồi đó, miền Bắc thiếu ăn, thiếu mặc dữ lắm. Tất cả dành cho cuộc chiến giải phóng miền Nam. Áo quần chỉ có màu đen và màu nâu.

Áo quần cũ, ông cho vào nồi nhuộm là sẽ biến thành áo quần mới tất tần tật. Trong lúc chờ nhận áo quần nhuộm, mấy cô mấy bà thích quấn quít bên chú tôi để xem chỉ tay.Ông có lối bắt chuyện với người đối diện rất hay, mẹ tôi hay nói “chú mầy có cái miệng rất dẻo”. Công việc nhuộm áo quần cũ cũng giúp gia đình chú tôi sống được huy hoàng. Đúng là nhất cận thị nhì cận giang. Nhà ông ở ngay chợ thị trấn Cồn.

Đó là công việc buổi sáng, chợ thị trấn Cồn chỉ đông một buổi, buổi chiều rảnh rổi quá không biết làm gì. Chú kể, hồi nhỏ hay gần ông nội, được ông thương lắm, mỗi lần đi cúng hay đi công việc gì ông nội lại dắt theo. Con ông thầy cúng giá nào cũng được hưởng xái cục xôi, cái bánh. Nhưng Chú tôi bảo: “Thèm vào những thứ ấy, chú đi theo ông chỉ cố học nghề và chữ để sau này kiếm sống”.

Và chú tôi kiếm sống bằng nghề này thật. Mấy cô sồn sồn ế chồng cũng tìm đến chú để làm cho đạo bùa đeo vào ngực, có người yêu ngay (!?). Đạo bùa chú có hiệu nghiệm không? Tôi chẳng biết nữa và cũng chẳng biết ông giúp được cho bao nhiêu người?

Nói chung những công việc linh tinh thuộc về tâm linh chú tôi làm tất. Theo phong tục miền Bắc sau khi chôn tạm ở mả đất, ít nhất ba năm sau thân nhân phải chọn ngày và tìm huyệt mộ cải táng cho người thân rồi mới được xây mồ. Làm nhà phải chọn hướng nhà cho hợp tuổi, gia đình con cái mới làm ăn phát đạt  Mở hàng cũng phải coi ngày lành tháng tốt khai trương v.v… Chú tôi bảo chú làm theo sách cổ bí truyền, hồi ra Bắc ở lại chơi nhiều tuần, chú có khoe với tôi mấy cuốn sách chữ Nho cũ, xơ hết gáy. Tôi xem mà chẳng hiểu gì.

Từ sau 1945 ở miền Bắc, chuyện coi số má, cầu cúng đều bị Nhà nước cho là mê tín dị đoan và cấm triệt để, nhưng trong thâm tâm người dân miền Bắc vẫn tin có đời sống tâm linh, họ vẫn tin vào số mệnh do trời định đoạt, chứ không thể nói bừa theo cái kiểu: thay trời làm mưa, nghiêng sông đổ nước vào đồng được.

Cho nên người  ta vẫn cầu khẩn khấn vái thánh thần, coi tướng coi số, ngày lành tháng tốt một cách lén lút mà thôi. Vì những lẽ ấy mà chú tôi có điều kiện để sinh nhai
Lúc ông lâm bệnh năm 2004, tôi ra thị trấn Cồn thăm ông, căn bệnh dạ dày đã hành hạ ông, không ăn uống được chi nhiều, chỉ chút cháo và vài chai bia hằng ngày. Ông bảo uống bia vào, ợ được hơi, cái bao tử cảm thấy dễ chịu hơn. Lúc đau nhiều, bệnh viện Hải Hậu chuyển ông lên Hà Nội siêu âm, người ta chuẩn đoán ông có thể bị ung thư bao tử. Ông tự bấm số Tử vi và bảo với tôi sẽ mạng chung vào năm ông bảy mươi ba tuổi. Thật kỳ lạ, về sau đúng như lời chú nói! Vậy khoa tử vi có ứng dụng vào trường hợp của ông không? Năm 2006 qua đời chú tôi hưởng thọ bảy mươi ba tuổi.


clip_image008


Sau khi đắp mồ được ba năm, lúc cải táng mấy người em quyết định xây mả chú ở thị trấn Cồn, chứ không mang chú về quê Hoa Lư - Ninh Bình như lời chú đã trối trăn. Con ở đâu cha theo đó. Mấy đứa em con chú đều lập nghiệp ở thị trấn Cồn.


Quê ngoại

Mẹ  tôi quê tận huyện Đại Lộc, có ngã ba sông gọi là sông Giao Thủy. Dòng họ bên ngoại tôi tạo nghiệp tại xã Đại An, huyện Đại Lộc đến nay đã được hơn 19 đời. Phần  mộ ông bà Tiền hiền họ Lương vẫn còn ở đây - vốn gốc người Nghệ Tỉnh theo lệnh vua Lê Thánh Tông vào Nam lập nghiệp từ khoảng cuối  thế kỷ thứ XV.

motie-hien-toc-luong-R

Bia mộ thờ ông Tiền hiền tộc Lương tại Quảng Hóa, huyện Đại Lộc (Quảng Nam)

 

clip_image009


Anh Lương bên mộ Tiền hiền tộc Lương


Xã Đại An - quê ngoại tôi được bao bọc bởi sông Vu Gia và sông Thu Bồn nên địa hình chỉ toàn đồng bằng, không đồi núi. Do nằm gần ngã ba sông, nơi sông Vu Gia và Thu Bồn giao nhau, nên còn gọi là Giao Thuỷ. Chợ Quảng Huế là nơi giao lưu buôn bán của thương nhân các nơi cũng như người dân bản địa trong xã và các xã kế cận. Nhà thờ tộc của bên ngoại tôi cách chợ Quảng Huế xã Đại An, huyện Đại Lộc chừng 500 mét, hàng năm vào tháng 3 âm lịch, dòng tộc bên ngoại từ khắp nơi về Chạp mả và cúng kính rất linh đình, có năm đến hằng trăm người.

clip_image0010


Cậu Thuận và anh Lương tại Đại hội tộc Lương lần IV


Ông ngoại

Khi tôi lớn khôn, ông ngoại tôi đã già lắm rồi. Từ thời trẻ, ông ngoại đã bỏ quê nhà, đi làm ăn sớm lắm. Sau bao nhiêu năm gian khổ, lúc chiến tranh lại tản cư lên Tiên Phước - một huyện trung du nên khí hậu tương đối khắc nghiệt, nhiều hạn hán, thiên tai. Phần lớn diện tích trong vùng là đất nông nghiệp nhưng kém màu mỡ và tỷ lệ đất thịt rất thấp. Đây là một vùng kinh tế nghèo của tỉnh Quảng Nam. Do đặc điểm cấu tạo địa hình nên sông Tiên - con sông chảy quanh địa bàn huyện được mệnh danh là "con sông chảy ngược", không xuôi về biển Đông mà ngược về hướng tây - nam, đổ ra sông Thu Bồn.

cancuoc

Căn cước của ông ngoại tôi

Dù vùng đất không lành để chim đậu, xa xôi cách trở, nhưng đành lòng ông phải đưa gia đình lên đây để tránh giặc giã. Sau gia đình chuyển xuống làng Cẩm Khê, rồi Cây Sanh - Tam Kỳ. Sau  đình chiến một năm (năm 1955) ông mang vợ con về Đà Nẵng. Ông học nấu bếp Tây. Trong mấy tác phẩm văn học cổ điển tôi đọc được mấy nhà văn gọi ông tôi là anh Bếp. Gia đình ông chủ Tây đi đâu, ông đi theo để phục vụ. Có năm ông ở tận Bà Nà cả 3 tháng hè mới về nhà.

"Bà Nà - Núi Chúa là một dãy núi thuộc huyện Hòa Vang cách Đà Nẵng 40 km về phía Tây Nam, cao 1.487 m so với mực nước biển. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 17 dến 20 o C. Lên Bà Nà, du khách sẽ cảm nhận được cái cảm giác như đi lạc trong mây và sương khói. Cảm xúc của mỗi người khi lên nơi này có thế có khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng cái ý nghĩ rằng, giữa vùng nhiệt đới gió mùa này mà chọn một nơi như Bà Nà làm nơi nghỉ dưỡng thì khó có nơi nào bằng sẽ luôn là một ý nghĩ chung...

Với những ưu thế tuyệt diệu đó, từ những năm đầu thế kỉ XX người Pháp đã chọn Bà Nà là nơi nghỉ mát và xây dựng nơi đây hàng trăm biệt thự, lâu đài... Thiên tai, địch họa hơn nửa thế kỉ qua đã làm mất đi dấu tích các lâu đài, nhà nghỉ cổ xưa... nhưng vẫn còn đó sự hào phóng của thiên nhiên với những cánh rừng nguyên sinh và một vùng khí hậu ôn hòa mát mẻ với muôn ngàn âm thanh xào xạc của đồi thông hòa quyện cùng khúc nhạc róc rách của những con suối tràn lên trên thành đá hoa cương, rồi lặng lẽ lẫn khuất sau những cánh rừng xanh ngắt".

Ông theo làm cho Tây mà chẳng học được điều hay ở Tây mà chỉ đem về cho gia đình những oái ăm. Ông thường xuyên đánh bài cát tê, xì tẩy, xì lát với mấy anh chauffeur (tài xế) mấy anh lon ton (làm tạp vụ)... Tôi  nghe mẹ tôi kể lại, hằng tháng bà ngoại tôi  chờ chồng về cầm lấy mấy đồng lương ít ỏi để lo cho con, tháng nào ông về với vẻ buồn xo, cáu kỉnh là “chỉ có nước nhảy sông”! Mà chuyện đó xẩy ra nhiều lần.

Khi ông bà ngoại tôi hồi cư về Đà Nẵng năm 1955, tất cả mấy dì cậu và mẹ tôi đều ở chung một nhà. Nhà ở kiệt 12 đường Hoàng Diệu, xóm Tân Thành, khu phố Nam Dương. Một căn nhà tranh rộng rãi, có cánh cửa chống, cửa sổ thoáng mát. Ba mẹ tôi do con cái nhiều nên được ở bên nhà ngang cũng bằng tranh. Hai dãy nhà, một nằm quay về hướng đông, một quay về hướng nam, phía trước là một khoảng sân rất rộng, với tầm nhìn của tôi lúc ấy, cái sân to bằng sân vận động!

Số là, đất của ông ngoại tôi cho ở, ba mẹ tôi dành dụm được mấy đồng, mua lại cái nhà tranh cũ ngoài đường Phan Chu Trinh, người ta bán đi để xây nhà gạch, mấy cậu và bà con bên ông ngoại xúm nhau khiêng về giúp ba mẹ tôi. Chung quanh bao bằng phên tre cho kín gió. Nhà cha mẹ tôi ở quay ra hướng nam.

moongngoaiR

Mộ ông ngoại tôi tại Đà Nẵng

Vui nhất là khoảng độ một vài năm ông ngoại và mấy cậu tôi sửa lại nhà. Ông tôi đi qua hàng xóm mua và đốn mớ tre già vác về chất đầy trước sân, mấy bó tranh đã được ông vác về trước đó mấy ngày. Với mấy cây tre, cây thì thay kèo, cây thì thay cột, cây thì chẻ làm rui cây thì vót lạt. Bọn tôi ngồi chồm hỗm nhìn ông làm với vẻ thán phục. Chân ông kẹp mấy làn nẹp tre, tay đánh từng nhúm tranh đan lại. Bốn nẹp giở lên, bốn nẹp kẹp xuống. Chúng được đan so le với nhau từng nẹp một. Ông đan lên đan xuống nhanh như chớp, cuối mí ông lấy dây lạt cột chặt lại, vậy là xong một miếng tranh. Mái nhà phải cần nhiều miếng lợp mới kín mưa.

Mấy ông hàng xóm, ông Thông cha và ông hai Hòa tấm tắc khen ông ngoại tôi giỏi vì nếu đan tơ lơ mơ thì mấy cái nẹp tre nó bén lắm, cắt đứt tay như chơi. Tôi chỉ được coi ông đan tấm tranh một chút rồi phải đi học. Trưa về, tôi đả thấy những mái tranh trắng ngà đã được thay thế, mái nhà cũ xám xịt đã được bỏ đi. Hai chái trước sau được cắt gọt thẳng thớm, như cái đầu bum bê của chị Hồng tôi, đẹp ghê. Chị Hồng là con của dì Ba còn sống sót trong nhiều anh chị em đã chết trong thời chiến tranh đi tản cư tận Tiên Phước. Chuyện này tôi sẽ kể lại sau.


clip_image0011bbb 
Ba và Lương - Tâm - Vĩnh trước ngôi nhà ngang hướng nam lợp tranh

Ông ngoại tôi có mượn miếng đất cỡ mấy trăm mét vuông, đất làm nghĩa trang gia tộc của gia đình ông Bếp Giò, đi ra sau ngõ bà năm Lý. Ông ngoại tôi trồng đủ thứ như khoai, đậu đũa, đậu phụng, có mè nữa và mấy thứ rau chi chi đó tôi không biết kêu tên. Sướng nhất là khi tới mùa, ông hái đậu đũa về luột, đổ ra cái mẹt cho nguội, anh chị em chúng tôi bu lại lột ra ăn. Ngon dễ sợ. Đến mùa khoai lang, ông đào mấy thúng khoai về đổ trong bếp cho bà tôi hấp cơm. Nè, rình rình ăn trộm một củ, lấy tay phủi cho hết đất rồi cắn mà ăn sống cũng ngon. Ngọt lắm.

Lúc đó, mỗi lần khóc nhè, nghe tiếng bà Năm Lý là tôi sợ khiếp, đái trong quần và nín khóc ngay. Sau năm 1975 bà già yếu, không con cái, phải lê thân tàn đi xin ăn, về nuôi chồng bị mù. Hai vợ chồng bà chết trong đói khổ. Miếng đất làm vườn của ông ngoại tôi nằm trước nhà dì Bốn Chua và dì Sáu Chát. Bây giờ ghé lại thăm, hai ngôi mộ của vợ chồng ông Bếp Giò vẫn còn đó và con cháu đã làm nhà ở chung quanh.

Những năm tháng tuổi thơ của anh em tôi chảy êm đềm trên mảnh đất của ông bà ngoại tôi cũng các em con dì và các cậu. Hàng xóm ai cũng khen, nhà ông Lệ dâu rể đông đúc ở chung một nhà, chẳng bao gi ờ nghe một tiếng ồn ào. Phúc đức thật.

clip_image0012


Ba anh em chúng tôi và chị em con dì trước nhà ông ngoại

Ấy là vào  khoảng năm 1956.

"Đây là giai đoạn mà kinh tế của Việt Nam Cộng hòa tăng trưởng tương đối nhanh, song vẫn giữ được mức độ tăng giá vừa phải. Ngân sách Nhà nước thời gian đầu cân đối thậm chí có thặng dư, song từ năm 1961 trở đi bắt đầu chuyển sang thâm hụt. Mức độ đầu tư lớn, nông và công nghiệp nói chung đều phát triển mạnh.

Năm 1955, chính quyền Đệ nhất Cộng hòa thời Tổng thống Ngô Đình Diệm quyết định thành lập Ngân hàng Quốc gia, Viện Hối đoái, phát hành đơn vị tiền tệ mới thay cho tiền Đông Dương, ấn định tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam Cộng hòa và dollar Mỹ là 35:1.

Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa ban hành hiến pháp trong đó có nêu rõ việc thành lập và vai trò của Hội đồng Kinh tế Quốc gia. Phó Tổng thống sẽ làm chủ tịch hội đồng này. Cũng năm 1956, Việt Nam Cộng hòa gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế.

Tháng 3 năm 1957, Ngô Đình Diệm đọc Tuyên ngôn của Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa trong đó có kêu gọi đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước, cam kết về những quyền lợi họ và những khuyến khích đầu tư (ưu đãi về thuế thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, thuế lợi tức).

Để khuyến khích phát triển doanh nghiệp, chính phủ đã thành lập Trung tâm Khuếch trương Kỹ nghệ để giúp đỡ các doanh nhân khởi nghiệp, giúp đỡ các doanh nghiệp về công nghệ và tín dụng, hỗ trợ công nghệ và hướng dẫn đầu tư cho doanh nghiệp.

Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã tích cực triển khai chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dựng lên để bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ. Kết quả phải kể đến nhà máy giấy đầu tiên ở Việt Nam: nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên hòa, thỏa mãn 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy trong nước ; hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng suất 13,2 triệu mét vải mỗi năm; nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên, một ở Thủ Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi năm; và đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 1961. Đồng thời, các loại máy móc, kim loại - những đầu vào cho các ngành được bảo hộ - được ưu tiên nhập khẩu. Trong khi hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu được khuyến khích. Một số mặt hàng xuất khẩu còn được chính quyền trợ cấp. Ngay cả tỷ giá hối đoái cũng được điều chỉnh thuận lợi cho xuất khẩu (thông qua trừ đi một mức phụ đảm). Thời kỳ 1955-1965 là thời kỳ tốt đẹp nhất của xuất khẩu của Việt Nam Cộng hòa (Wikipedia).

Lúc đó, dì Ba và mẹ tôi mỗi người có một cái hàng bán légumes (rau củ quả) ở dưới chợ Hàn. Bà mua cây củ từ các vùng quê lân cận chở về, và những giống rau trái từ Đà Lạt chở xuống, nhiều nhất hồi ấy là trái su su, và su lơ… và bán sỉ cho các nhà hàng và tiệm cơm ở thị xã.

Bấy giờ dì Hiền đã có chồng, đi phụ bán vàng với ông gia bà gia ở tiệm vàng Vĩnh Ký ở đường Hùng Vương Chợ Cồn. Chồng dì Hiền là dượng mười Xin - con nuôi của ông bà Vĩnh Ký. Dì dượng vẫn ở chung với gia đình ông bà ngoại tôi, cũng là lần đầu tiên tôi mới nghe tiếng “ở rể”.

Cậu Thái - em dì Hiền, được dượng dắt theo học nghề vàng. Chỉ cậu Thuận, em cậu Thái là còn đi học - học ở Trường TH Phan Chu Trinh.

Ở nhà chỉ còn dì Út chưa có chồng lo việc nấu ăn, tôi còn nhớ, đến bữa ăn, bọn con nít chúng tôi được dọn đồ ăn lên một cái nia do ông ngoại tôi đan bằng tre to bự chảng,  đường kính cũng phải hai mét, cả bọn ngồi vào đó ăn chung với nhau cho sạch sẽ chứ không ngồi bệt xuống nền đất. Mâm người lớn và ông bà ngoại tôi ở nhà ngang có bàn ghế đàng hoàng.

Đó là những kỷ niệm đẹp về ông ngoại tôi. Về già ông hay tự pha cà phê sữa buổi sáng, tôi cũng đươc cho hưởng chút chút dưới đáy ly, úi trời, chi mà đắng ngắt, thôi không ham. Lớn khôn rồi, tôi mới thấy mùi vị thơm ngon của cà phê. Ông ngoại tôi không uống rượu và hút thuốc.

Tôi  nhớ ngày Tết, ông hay mua một loại rượu, loại Pipermint. Đặc biệt ông có một chai thuỷ tinh được chia làm 4 ngăn, hình cái chai giống củ hành Tây dưới to trên nhỏ dần. Mỗi ngăn ông cho vào một loại rượu, mỗi ngăn đều có nút niền niểng riêng. Rượu Pipermint có màu xanh lá cây lợt rất ưa nhìn. Tôi cũng hay lấy trộm rượu này uống thử, rượu ni hắn the the uống vào mát cổ và thơm ghê. Rượu có pha bạc hà. Ba ngăn còn lại, mỗi thứ rượu có một màu riêng, màu đỏ hồng là rượu Cognac, màu cam là rượu mùi và màu trắng trong là rượu Sica. Mấy loại rượu này được sản xuất ở hãng rượu Sica của chủ người Pháp trên đường bờ sông, nay là Bưu điện Đà Nẵng, phía trước có cây cầu cảng để ghe thuyền ghé vào, dài khoảng 10 mét thường được gọi là cầu chữ I hay là cầu Sica. Cây cầu này bây giờ không còn nữa.

Năm tôi học tới lớp 10 ở trường Sao Mai thì ông ngoại tôi mất. Mấy bạn học lớp có đến chia buồn, tôi nhớ mãi tình cảm của các bạn. Ông mất sau bà ngoại tôi một năm, năm 1971, thọ 73 tuổi. Có một điều cũng khó quên, trong tạp bút Một chỗ ta ngồi, em tôi nhà thơ Lê Minh Quốc có nhắc: “Vườn nhà ông ngoại đã vắng hoa từ lúc nào? Sau ngày ông ngoại tôi về suối vàng yên giấc, trên mỗi cây hoa ấy lũ nhóc con chúng tôi đều buộc lên đó một giải khăn trắng. Dăm ngày sau, lạ thay, các cây hoa hồng, cúc, thược dược, huệ... đều rũ lá, hoa rụng cánh và cây khô héo dần. Người đi, hoa cũng đi theo. Giữa người và hoa có chung một nỗi niềm gì chăng?”. Tôi bổ sung thêm, ngay cả con chó mực đang khỏe mạnh, vậy mà sau ngày ông ngoại mất, nó bỏ ăn để rồi chết dần chết mòn theo…

clip_image0013


Anh chị em con cậu dì năm 1971


 

Bà ngoại

Kỷ niệm về ông ngoại nhiều bao nhiêu, kỷ niệm về bà ngoại cũng nhiều bấy nhiêu. Bà tôi ít chữ, nhưng hiền lắm. Bà họ Võ gốc người làng Phước Ninh. Bà tự học đánh vần, tập đọc để đọc kinh Phật. Bà thường đi chùa, anh chị em bọn tôi được bà mang tên lên chùa quy y, đều có pháp danh. Pháp danh bà là Tâm Đoan, của tôi là Tâm Hòa. Từ nhỏ đến lớn tôi chưa bao giờ thấy bà nhăn nhó lấy một lần.

clip_image0014

Bà ngoại tôi

Bà ngoại tôi kể, có lần nghĩ sao cuộc đời quá khổ, vào một đêm mùa đông trời tối như mực, bà ngoại tôi quyết định xách nón xuống cống bà Xin tự vẩn. Cống bà Xin từ đường Lê Đình Dương, chảy qua trước cổng nam trường Sao Mai (sau đổi tên Trần Phú, nay đã phá bỏ để mở mở đường). Cống này độ dốc lớn, vào mùa mưa bao nhiêu nước của các cống khác dồn về chảy xuống sông Hàn. Nghe nói trước đây có bà ăn xin tự tử chết ở đây nên người ta gọi là Cống Bà Xin, không biết có đúng không? Trước khi quyết chí tìm đến cống bà Xin, bà ngoại nhìn lại mấy anh chị em mẹ tôi đang ngủ, bà quơ tay bắt muổi, chèn lại cái mùng, nhìn thấy đàn con ốm o gầy mòn, bà thương đứt ruột bèn bỏ ý định quyên sinh. Tôi còn nhớ sau năm 1975 có một học sinh trường Trần Phú, hôm trời mưa to, tinh nghịch nhảy qua nhảy lại cái cống, hồi ấy không có nắp đậy và sảy chân bị nước cuốn trôi mất. Gia đình mời thầy cúng đến lập đàn chẩn tế ba ngày ba đêm, mấy ngày sau mới tìm được xác.

Dần dà về sau, bà ngoại tôi đi bán ở chợ Cồn, mỗi khi chiều về bà hay mua mía, kẹo đậu phụng… đem về cho anh em chúng tôi. Con mấy dì và tôi thương bà lắm.

Có lần nghỉ học, tôi được bà dẫn ra chợ, chu cha, bữa đó là một chuyến đi du lịch hấp dẫn với tôi. Bà bán hàng ngay chỗ ngả tư chợ Cồn. Tình cờ bữa đó, từ chỗ bà ngồi nhìn ra, tôi nghe tiếng nhạc sôi động xập xình và thấy hình ảnh một chiếc xe con cóc với đầy màu sắc sặc sở, đang xình xịch chạy tới. Trên xe mấy đứa nhỏ trạc tuổi tôi nói cười vui vẻ. Cabin xe là một hình thù con cóc lớn, kéo theo nó là mấy dãy ghế màu sắc tươi vui, xanh đỏ vàng tím. Còn có anh hề nữa chớ, cái lổ mũi bự ơi là bự  đỏ chét, hoa tay múa chân vui ghê. Tôi chỉ ra xe và đòi bà cho đi xe.

Bà bồng tôi ra xe, giao tôi cho anh hề, dặn khi mô xe quay lại thì cho tôi  xuống. A, anh hề là người xoát vé. Tôi có được một chỗ ngồi trên xe. Xe chạy chậm lắm, nhìn ra đường thấy ba mẹ của mấy đứa ngồi trên xe vẫy vẫy tay chúng. Thiệt là vui mắt. Anh hề vừa làm công việc soát vé vừa làm trò hề cho bọn tôi xem. Anh nhảy xuống xe, rồi giả đò như chạy không kịp chiếc xe, anh chạy theo như muốn hụt hơi, cuối cũng anh cũng nhảy lên được, hai tay bu vào thành xe, hai chân chụm lại, cong người xuống ngoáy ngoáy cái mông, tôi thấy chỗ mông của ảnh rách một miếng, bọn trẻ con chúng tôi khoái chí hả họng ra cười ha hả tít mắt. Rồi cuộc đi chơi của tôi cũng đến hồi kết, chiếc xe con cóc chạy  quay vòng lại chỗ bà tôi, anh hề đến chỗ tôi vòng tay, nói rằng: “Bây giờ xe đã đến bến, xin mời em e rờ a ra, “sắc” xuống “huyền” về , “ngã” ngũ, ủa quên lộn lộn: “hỏi” ngủ. Tôi  lại được cười nứt bao tử một lần nữa. Anh hề bồng tôi  trả lại chỗ hàng  bà tôi.

Ôi chui cha một chuyến đi kỳ thú. Tôi  không bao giờ quên.

Ngày hôm ấy, tôi còn được bà cho ăn món lục tàu xá. Ông già bán gánh, mặc bộ đồ  bà ba vải nền màu tối, cổ kiềng, đầu chải dầu brillantine láng bóng và chân mang đôi guốc xà lang gỗ. Món lục - tàu - xá này thơm ngon chi lạ. Lớn lên tôi  mới biết là chè đậu xanh lột vỏ, dập nát, nấu với kê, rồi cho thêm vào ít vỏ quít cắt nhỏ như hạt mè. Sau này ra Huế chơi, tôi  ăn lại món này, người ta lại chế biến thêm vào  táo tàu và hạt sen nữa, cũng ngon.

nghi-le-tang-ma-cua-nguoi-QN-thap-nien-70-the-ky-XX

Đám tang bà ngoại tôi, (từ trái qua phải: cậu bảo, cậu Thái, cậu Thuận và nhà sư)

Nè, chỗ bà ngoại tôi ngồi bán thuốc rê Cẩm lệ là do ông bà Tấn chủ rạp xi nê Chợ Cồn cho thuê. Năm 1968 bà tôi trả chỗ lại, không buôn bán nữa về với mẹ tôi, chỗ này con gái ông bà Tấn mở hàng vàng. Hiệu vàng Thạnh Lợi. Cô chủ hàng vàng Thạnh Lợi xinh lắm, tôi có nghe nói cô chủ hàng vàng lấy ông giáo sư Anh văn giỏi. Thật là  quả đất quay tròn. Ông này là bạn học thân với cậu Thuận hồi học ở trường Phan Chu Trinh. Vào tôi học ở trường Sao Mai, chàng rể ông bà Tấn lại dạy tôi Anh văn, thầy Tạ Quốc Bảo.

 

mobangoaiR


Mộ bà ngoại tôi tại Đà Nẵng


Về nhà mới

 


Năm 1955, khi hồi cư về Đà Nẵng, thời gian đầu ba tôi làm nghề hớt tóc dạo, một cái thùng gỗ đeo lũng lẳng trên vai và ông đi rong ruổi khắp nơi để hớt tóc. Đi bộ thôi chứ chưa có tiền mua xe đạp! Mấy năm sau ông mới mua lại được chiếc xe đạp cũ.

clip_image0015

Ba tôi lúc hồi cư về Đà Nẵng

Tôi còn nhớ mãi không bao giờ quên, hằng tháng ông dẫn bọn tôi ra chỗ cái giếng nước nhà ông ngoại và hớt tóc. Tất cả anh em tôi từ lớn tới nhỏ đều cúp carré ráo trọi. Ngay cả mấy thằng em con dì Hiền nữa. Một kiểu tóc cho bọn con nít chúng tôi hồi ấy là nửa trọc nửa có tóc, cao ráo, trên đầu chỉ còn một ít tóc khoảng ba phân, gọi là kiểu carré ba phân.

 

clip_image0016

Hóc tóc caré ba phân

Mỗi lần ông hớt tóc là bọn tôi ngồi im chịu trận. Ông đè đầu xuống để hớt cho dễ, không nhúch nhích cù cựa chi được, mỏi lắm. Sợ nhất những lúc ông hớt, cái tondeux của ông cắt không ngọt, mấy lưới cắt kẹp tóc đau không chịu được, nhưng không dám rên la ư hữ! Nhớ nhất là thằng Anh Toát Loa con dì Hiền, với thằng Phát em hắn nữa, mỗi lần hớt tóc là hai đứa khóc bù lu bù loa, nước mũi chảy lòng thòng, nhưng khóc cứ khóc, ông vẫn cứ đè đầu hớt cho xong. Chúng sợ cha tôi lắm, sợ nhất là mỗi lần bị kêu ra hớt tóc, mấy cậu tìm cớ lũi, nhưng lũi đâu cho thoát, trốn đâu ổng cũng tìm về hớt cho xong.

clip_image0017
 

Một hình ảnh khó quên của tôi


Sau khi cả bọn được hớt tóc xong, cả bọn được cậu Thái dẫn ra giếng, cậu múc nước xối vào chúng tôi từng đứa một. Tắm xong tất cả anh em chúng tôi sạch sẽ khỏe khoắn chứ không: người không ra người, ngợm không ra ngợm như lời dì Ba có lần nhận xét.

clip_image0018bb

Ba mẹ sau khi mua đất làm nhà


Lúc này mẹ tôi và dì Ba đã tìm xuống chợ Hàn để buôn bán hàng légumes. Đà Nẵng lúc ấy là một thị xã lớn. Dân cư cũng đông đúc, công việc của ba tôi rất trôi chảy. Dần dần ông mua được xe đạp, xe đạp cũ thôi, bây giờ nghề hớt tóc chỉ là tay nghề tay trái. Ông làm y tá chữa bệnh cho người ta, ông trước đây là y tá trưởng của bệnh viện dân y Cây Sanh -Tam Kỳ nên có nhiều kinh nghiệm và mát tay, ông chữa cho nhiều người lành bệnh.

Tiếng lành đồn xa  nhiều người đến nhà tôi để chích thuốc. Những bệnh nhân nặng không tự đến nhà được, ông đến tận nơi để chữa chạy. Dần dần ông không đi xe đạp nữa, ông đổi qua đi xe Vélo Solex. Một loại xe gắn máy của Pháp. Cái máy chạy bằng xăng, treo phía trước, khi chạy phải đạp xe lấy trớn, khi đã có trớn, kéo cần thả máy xuống, máy chạy chuyền động quay một rouleau bằng đá, hòn đá lăn  kéo bánh trước và xe chạy. Xe có thể điều khiển nhanh chậm bằng tay ga. Xe này rất lợi xăng và có thể đạp như xe đạp khi hết xăng. Khoảng năm 1963 trở về trước xe này thuộc vào hạng thời thượng lúc bấy giờ.

clip_image0019


Cha tôi và chiếc Vélo Solex trước cổng nhà

Ba mẹ tôi làm ăn cố gắng tích luỹ, ông hay dạy bọn tôi câu tục ngữ: “Đại phú do thiên, tiểu phú do cần”. Cần kiệm có thể làm giàu được. Trong thời gian đi chích thuốc chữa bệnh cho thiên hạ, ông hỏi mua được một miếng đất trên đường Triệu Nữ Vương. Diện tích miếng đất gần ba trăm mét vuông.

clip_image0020

Ngôi nhà đã hoàn thành năm 1960

Đường này thời Pháp thuộc có tên gọi Rue Labbée. Năm 1958, Rue Labbée được mở rộng và đổi tên thành đường Triệu Nữ Vương và cho đến nay không thay đổi. Năm 1960, ông cho xây 2 gian nhà ngói và gia đình chúng tôi dọn về đây ở sau nhiều năm ở chung với ông bà ngoại tôi. Căn nhà ngang lợp tranh đó được nhường lại cho vợ chồng dì Hiền.

12x12QuocPN01

Anh em tôi

Trên miếng đất này, chủ cũ trồng mấy cây kiền kiền (còn gọi cây giái ngựa) to lắm. Ba tôi cho hạ để lấy gỗ làm đòn và rui mè lợp ngói. Những khúc còn thừa lại ba tôi thuê thợ cắt ra làm mười mấy cái thớt, mang về xóm cũ ông ngoại tôi tặng mỗi gia đình hàng xóm một cái để làm kỷ niệm. Còn hai cây dừa ông để lại, một cây dừa lửa, trái đỏ và một cây dừa cơm vỏ xanh. Hàng năm, ông thuê người lên ngọn làm vệ sinh và bỏ muối sống vào chân mấy tàu lá, nghe người ta bày làm cách này, dừa sẽ sai trái và nước rất ngọt. Khi thu hoạch hai cây dừa này cả trăm trái. Ông lại cho mang về xóm cũ biếu mỗi người một cặp uống lấy thảo, và bà con ở xóm Triệu Nữ Vương này ai cũng có phần.

chi-hong

Chị Hồng và em Ái trước nhà mới

Khi gia đình về sinh sống tại nhà mới, ấn tượng khó quên của tôi là cây đa góc đường Triệu Nữ Vương - Nguyễn Trãi một chút. Cây đa này có tự bao giờ? Chúng tôi không biết, năm 1960, cha mẹ tôi dọn về nhà mới, cây đa là chốn thiên đàng đối với bọn con nít chúng tôi. Quanh gốc đa là một khoảng sân chơi rộng rải và thoáng má . Hằng năm, đến mùa đông, cây rụng hết lá, cành nhánh khô quắt vươn lên bầu  trời xám xịt như những bàn tay của ông khổng lồ, nhìn vào như cây đã chết khô. Vậy mà đến mùa xuân, lộc ra đầy tất cả mọi nhánh, ra mau lắm, một đêm đến sáng đã thấy cây hồi sinh. Những lộc non nhú ra màu đỏ tươi rất đẹp mắt. Vài ngày sau lá non bắt đầu nở từ lộc non này, một màu xanh lá chuối non phủ tất cả mấy cành cây, giống in như một bầy ngựa nhà trời bu trên cây vậy. Sau cỡ một tuần lá đa lớn dần ra to bằng bàn tay và trở màu xanh đậm.

clip_image00221

Cây đa gần nhà tôi

Sang cuối mùa thu đầu mùa đông lá già ngã vang úa và khô rụng vào cuối đông. Sự tuần hoàn thay lá này diễn ra hết năm này qua năm nọ. Trên nhành những trái xanh mọc chi chít. Hồi ấy bọn tôi được mấy anh lớn làm cây khèo xuống cho ăn, vị trái cây đa non ăn có mùi chát chát chua chua, chấm với muối ngon không chi bằng. Những trái xanh cũng lớn và vàng dần, khi chuyễn sang màu đỏ, chúng rụng tơi tã.Trái chín lúc này không ai thèm ăn nữ . Người lớn tuổi bày rằng những hạt bé li ti trong trái có thể đem gieo thành cây con. Mùa hè chơi đùa ở gốc cây mát lắm.

Về cây đa này, lúc bác Thể - thợ mộc bạn cha tôi còn tỉnh táo tôi có hỏi, năm ấy đâu bác thể khoảng hơn 80 tuổi. Bác Thể nói rằng: “Năm 1943, tau dắt vợ con từ Nam Định vào Đà Nẵng làm ăn, đi ngang qua đây, hồi ấy còn đường đất, tau đã thấy cây đa này lớn như vậy rồi”.

Tôi đoan chắc cây đa chỗ gần nhà tôi chắc phải hơn 100 năm? Cái gốc nó lớn lắm, hàng chục người ôm cũng không xuể!

12x12QuocPN04.JPG-1

Mẹ tôi và các em tôi

Sau năm 1975, ủy ban nhân dân quản lý khu đất này, mở cửa hàng ăn uống, giao cho hợp tác xã mua bán coi ngó, uống vào tiểu ra, người ta cho làm mấy cái toilet phía sau, mưa lâu thấm đất, cái giếng xóm trong lành của Nam Vinh ô nhiểm nặng, nước không còn dùng được nữa, mạch nguồn đã thấm đẩm mùi u rê. Hợp tác xã mua bán làm ăn thất bại rả đám.

Miếng đất miễu khối phố Nam Vinh có cây đa tọa lạc nghe đồn được ủy ban rao bán, nhưng không ai dám mua ví có cây đa án ngữ. Không ai dại gì bỏ số tiền lớn ra mà đi làm cái chuyện kinh thiên động địa là đốn hạ cây đa trăm năm tuổi để làm chỗ ở bao giờ, người ta sợ động đến những hồn ma bóng quế trú ngụ bao đời ở đây. Không bán được, ủy ban đã cho xây nhiều dãy nhà bao quanh cho thuê, cây đa đã nằm lọt phủm vào mấy dãy nhà. Đã có người thuê gian nhà phía trước để làm kho chất hàng. Nếu không có cây đa, miếng đất miễu khối phố Nam Vinh cũng mang số phận của miến đất miễu xóm Hải Hạc. Tôi sẽ kể sau.

Hằng năm tại đây có tục tế xuân, thân hào nhân sĩ địa phương cúng kính linh đình lắm. Một hôm học tiểu học trường ông Bãy Cụt về, nghe tiếng trống vang lên thùng thùng, bọn tôi hiếu kỳ tập trung ghé lại coi. Một con bò vàng bị cột sau gốc cây đa. Mặt nó buồn lắm, tôi thấy nó chảy 2 hàng nước mắt, chắc linh tính báo cho nó biết giờ tử hình của nó sắp đến. Tôi thấy buồn buồn.

dua-tre-gia-dinh-trung-luu-DN-thap-nien-50-the-ky-XX-tap-di-xe-dap

Vĩnh lúc về nhà mới

"Nếu bên Mỹ có lễ Tạ ơn để cảm tạ  Đức Chúa Trời. Ở Việt Nam có Lễ Cúng Đất, lễ nầy ở Việt Nam vì không quy định thành văn nên rất đa dạng và phong phú, ngày tháng, cách tổ chức, cách thức trình bày và dâng mâm lễ, các lễ vật trong mâm cũng khác nhau tùy theo địa phương phong tục từng vùng.
Cúng Đất Cầu An là danh từ thuần Việt. Có lẽ người Việt dịch từ “Tạ Thổ Kỳ An” có nghĩa là tạ ơn Thổ thần  nơi mình sinh sống, và cầu bình yên sức khỏe.

Quê tôi ở Quảng nam Đà nẵng, có câu phương ngôn “Cúng Đất, chất Rơm, quảy Cơm luôn thể”. Có nghĩa là chọn một ngày kỵ gỗ nào đó vào mùa xuân, rồi nhân tiện cúng tạ Thổ thần.

Một lễ cúng đầy đủ nhất có đến ba bàn: bàn thượng, bàn trung và bàn hạ. Mỗi bàn đều có hương đèn, hoa quả, cau trầu, trà rượu và giấy vàng bạc. Bàn thượng đặt bộ áo thổ thần, con gà luộc và xôi chè. Bàn trung đặt hai bộ áo bà, năm bộ áo ngũ phương và lễ vật gồm bộ tam sên: thịt heo, cua và trứng luộc, đặc biệt có đĩa rau lang luộc, chén nước ruốc và gắp cá tôm nướng. Bàn hạ đặt bát cháo gạo muối, bánh tráng, hột nổ và khoai đậu nấu..

Ba bàn đặt ở trước nhà, gia chủ đứng từ trong nhà lạy ra và nêu tên đầy đủ các vị thần cai quản trời đất cao cấp nhất, cai quản từng vùng đất cụ thể, đất nhà cửa của gia chủ cho đến thần suối, thần giếng và tổ tiên làng xã, gia tộc. Đặc biệt còn dâng cúng cả những thủ lãnh và dân tộc thiểu số: Chăm... từng cư trú trên địa bàn Quảng Nam, cũng như những hài cốt tiềm ẩn trong đất.

Ở gia đình tôi, ngày giỗ ông nội tôi nhằm tháng giêng, tôi thường thấy ba tôi đặt thêm một bàn riêng chứ không đặt làm ba bàn như tục lệ, ông giải thích đây là bàn để cúng Đất.

Cũng chính vì có đối tượng là những dân tộc thiểu số nên có món rau luộc, nước ruốc, xâu cá tôm. Khi gần xong lễ, gia chủ sẽ sớt một ít phần lễ vào một bẹ chuối cùng một ít giấy âm binh treo ở góc ngả tư hay ngả ba đường.

Ngày nay có lẽ ít còn ai cúng Đất nữa, nhưng nếu cúng Đất mà cúng vái vị thần mình không biết rõ thì không nên cúng còn hơn, không khéo mời thêm tà ma quỷ quái vào trong nhà ngự trị lúc nào mà không hay".

clip_image0022
Mâm cúng đất

Dưới gốc cây đa gần nhà tôi, bá tánh hay đem lễ vật cúng đất ra đặt ở đây. Người ta lấy một cái bẹ chuối, gấp làm đôi dài khoảng 30 - 40 phân, bên trong bỏ đồ cúng vào, thường là một ít rau muống hay rau khoai, một vài cái trứng gà, trái bắp, một cục thịt heo, một ít đậu phụng luộc, củ sắn, củ khoai lang, một con cua nhỏ. Tất cả đã được luột chín và 3 cây hương. Bẹ chuối và 3 cây hương được mang ra treo ở gốc cây đa. Anh Phước và anh Lộc là hai anh em sinh đôi ở với mẹ nhà xéo xéo bên kia đường, hơn tôi khoảng 4 - 5 tuổi hay bày trò nghịch ngợm cho bọn tôi. Và chính hai anh cũng hay ra gốc đa lấy bẹ chuối có đồ cúng về cho bọn tôi ăn. Mấy anh dặn khi nào thấy bẹ chuối còn đỏ hương là đem về ăn được, hương đã tắt đem về ăn không nên, vì hương tắt là ma đã vào vọc rồi. Bọn tôi nghe vậy biết vậy chứ chẳng bao giờ tự tay ra lấy mấy thứ đó về ăn! Có muốn cũng không được, mấy ông anh lớn hàng xóm đã ra tay rồi!


 

Cậu Bảo

Con trai trưởng của ông bà ngoại là cậu Sáu, tên cậu Bảo. Hồi còn nhỏ, khi thấy cậu khóc sướt mướt từ ngoài ngõ đi vào, ông ngoại tôi hỏi lý do. Cậu kể lại thằng Chó Con trong xóm ăn hiếp và đánh cậu. Ông ngoại tôi  không nói không rằng, giáng cho cậu một bạt tai nẩy lửa. Ông nói, không đánh lại hắn thì bỏ chạy, chạy không kịp bị nó đánh thì không được khóc, mà đã khóc rồi thì đừng về nhà. Có sức chơi có sức chịu liệu mà chơi, khóc cái chi? Cậu cứ ngỡ về nhà được ông ngoại tôi binh, ai dè, Ông ngoại tôi muốn dạy cho cậu một bài học tự lực cánh sinh từ lúc ấy .

Thế là sau khi bị cú đòn đúp lê đó, cậu tôi trở nên cứng rắn hơn.

Hồi gia đình ngoại tôi tản cư tận trên Tiên Phước, một huyện miền núi Quảng Nam. Lúc này khói lửa đao binh khắp nơi. Một gia đình ông Khóa (tức khóa sinh, bằng cấp cho người thi đậu tiểu học) tận làng Vĩ Dạ ngoài Huế cũng tản cư lên đây. Cô con gái rượu út của ông Khóa phải lòng cậu. Nhưng do lúc ấy cậu tôi chưa có nghề nghiệp gì nên gia đình ông viện cớ trong thời kỳ giặc giã, không biết ra sao ngày mai và  hẹn đợi ngày hòa bình hẵn tính. Ông chưa chịu gả cô con gái út cho cậu tôi lúc này. Ông có hai người con trai lớn đi tập kết, một người con trai của ông bà khoá sau này tôi mới biết, cậu Quang - là bí thư chi bộ quân y viện Cây Sanh - Tam Kỳ, người đã kết nạp ba tôi vào Đảng  năm 1950. Một cậu nữa là cậu Bá, cậu này ở luôn ngoài Hà Nội, cậu là cán bộ cao cấp ở Trung ương. Ông bà Khóa  muốn hai cậu con trai này cũng có mặt trong ngày cưới của con gái út .

Trong lúc cô gái rượu đứng ngồi không yên với quyết định của cha mẹ, cậu tôi vẫn bình thân như vại. Cậu nghĩ ra một mẹo. Cho người thân bên nhà ông Khóa phao tin cô gái rượu đã ăn nằm và có thai với cậu được một tháng. Ông bà Khóa là một gia đình Nho giáo, nghe tin này bán tín bán nghi, tra hỏi thì cô gái rượu thú thật rằng vì cậu tôi quá đẹp trai nên đem lòng yêu thương và vượt mọi lễ giáo gia đình, xã hội…

Trời ơi! Một tin sét đánh ngang tai. Ông Khóa là nhà Nho chân chính, tóc búi củ hành, đạo mạo, đúng mực. Thế mà đứa con gái hư thân mất nết, bất hiếu bất nghĩa, bôi tro trát trấu vào mặt gia đình ông. Làm sao ông có thể ra đường nhìn măt ai nữa hỡi trời? Ông là người chững chạc, suy tôn chữ nghĩa Thành hiền, ai ai cũng nể vì và kính trọng ông khi ra đường, ngoài ngõ. Vì hoàn cảnh loạn lạc đao binh ông đành phải nén lòng đùm địu vợ con vào tận miền núi Quảng Nam này tìm chốn an bình. Không biết ngày nào hồi cư về quê cũ. Thế mà, đứa con gái út ông yêu quý, cưng như trứng mỏng… Làm sao mà bịt miệng tiếng đàm tiếu của thiên hạ?

Ông Khóa quyết định chóng vánh, ông cho người đánh tiếng muốn sang thăm gia đình ông ngoại tôi. Mẹ tôi kể, khi ông đến nhà ngoại tôi không có một chỗ nào ông Khóa ngồi cho đàng hoàng. Ông cà kê về cuộc chiến, nói về nổi khổ của những gia đình tản cư, lạ nước lạ cái, không biết làm sao lo cho đủ cái ăn cho con cái. Không biết rồi cuộc đời sẽ dẫn dắt những người tản cư này đi về đâu. Rồi ông xoay ngược vấn đề về chuyện cô gái rượu của ông. Giặc giã triền miên không biết bao giờ mới vãng hồi, thôi thì gia đình ông sau khi đã suy đi nghĩ lại nhiều lần đồng ý gã con gái cho cậu tôi.

Một mặt, bà Khoá mở rương cầm ra đôi xuyến vàng một lượng trao cho con gái nói mang qua cho thằng Sáu dùng làm lễ cưới. Có mất đi mô mà sợ. Không có lượng vàng của bà Khóa trao cho, đố mà gia đình ngoại tôi có được một li vàng.

Đám cưới được tổ chức sau đó, trong hoàn cảnh chiến tranh, cũng một buổi liên hoan nho nhỏ giữa hai gia đình và bạn bè đôi bên. Ai ai cũng khen gia đình ông bà Khóa ăn ở phúc đức, con gái rượu ông được người ta cưới hỏi đàng hoàng, đám cưới đi lễ cho nhà gái cả đôi xuyến một lượng vàng ròng. Chú rể lại cao ráo đẹp trai, mặt chữ điền, đôi môi có duyên tệ, đang làm thư kí cho ủy ban kháng chiến nữa chớ! Mấy cô nhà khác ghen thầm. Ông bà Khóa mát mặt.

Không ai dám nhắc lại cái chuyện xùm xình trước ngày cưới nữa.

Trong thời gian này cậu Sáu tôi có nghề nghiệp chi đâu, nói là làm thư kí cho ủy ban kháng chiến cho oai, chứ có đồng lương đồng hướng nào đâu, làm sao mà nuôi vợ nuôi con? Sau đám cưới, cậu tôi theo người quen xuống Tam Kỳ xin học nghề thợ máy, ăn ở lại nhà chủ 2 năm không lương hướng chi hết. Rứa là may phước lắm rồi, có người dạy nghề và nuôi ăn còn dám đòi hỏi chi thêm. Hai năm sau cậu tôi đã là một anh thợ máy giỏi.

Lúc này tình hình đất nước có vẻ lắng dịu. Gia đình ông Khóa cũng chuyển dần xuống Tam Kỳ, mở quán làm ăn. Cô gái Vĩ Dạ ngày nào đã trưởng thành, với tài công dung ngôn hạnh được giáo dục trong gia đình, cô đảm đang nấu ăn ngon, giao thiệp có duyên nên quán rất đông khách.

Học có nghề rồi, cậu tôi lại lần mò vào tận Quảng Ngãi để xin việc. Hồi ấy Nhà máy Đèn Quảng Ngãi chạy máy Diesel để phát điện đang thiếu người coi máy. Cậu tôi vào làm ở đó, một thời gian sau được lên tới chức cai. Cai thợ máy. Bây giờ gọi cho văn vẻ là Tổ trường kỹ thuật. Suốt bao năm cậu mợ tôi vẫn cái cảnh chồng một nơi, vợ một nẻo.

Sau khi đám cưới, mợ tôi hết ọi ọe bỏ cơm như những người ốm nghén thường hay có. Gia đình ông bà Khóa đợi chờ tin vui từng ngày. Nhưng mãi bốn, năm năm sau mới có tin mừng, một thằng con trai bụ bẩm ra đời. Ông bà Khoá tặc lưỡi, vậy là hai đứa ranh con này đóng kịch để được lấy nhau. Shakespeare nói nói rằng: “Mỗi người là một kịch sĩ, cuộc đời là sân khấu”. Quả không sai.

Lúc nghe tin vợ sinh, cậu tôi tức thì ứng trước tiền lương mua liền tay một chiếc xe đạp sườn ngang hiệu Sterling của Pháp mới keng. Cậu đạp một lèo từ Quảng Ngãi ra Tam Kỳ - một đoạn đường gần 70 cây số, thăm con trai, một thằng con trai giống đúc. Thằng em con cậu sinh năm 1956, tên Hùng. Tuổi con Khỉ.

clip_image0023

Cậu Bảo và Hùng - con trai đầu

]Sau này có dịp vào Quảng Ngãi thăm gia đình cậu, tôi vẫn còn thấy chiếc xe đạp ấy bây giờ cũ xì rồi, treo trên dàn nhà. Như một kỷ niệm của tình yêu. Một kỷ niệm đáng yêu đáng mến, cậu chỉ vào đó kể lại chuyện tình yêu của cậu mợ khi tôi còn chưa mở mũi.

Cậu tôi công việc càng ngày càng thăng tiến, Nhà Đèn cho cậu tôi ở nhà công vụ trong nhà máy luôn. Ra vô phải qua cổng gác của lính địa phương quân. Một căn nhà vừa cho hai vợ chồng và mấy đứa con. Đất còn trống trong nhà máy có thể trồng trọt thêm mấy loại rau ngắn ngày. Và nhất là trồng ớt. Mợ tôi là người Việt gốc ớt mà! Bà ăn ớt thấy khiếp.

Hằng năm, vào 30 tháng chạp cậu lại dắt mấy em ra Đà Nẵng ăn Tết. Một hai ngày cậu vào trước. Mấy đứa em con cậu vào sau.

Hồi nhỏ, có lần dịp tết, tôi cũng được ba mẹ dẫn vào Quảng Ngãi thăm gia đình cậu.
Xe chạy dọc đường đi bọn tôi thi nhau đếm, đếm bọn tôi đi qua mấy cây cầu, vừa ngắn vừa dài, rồi có đứa lại rủ đếm chó, Tết ra đường gặp Chó là hên lắm… Đếm, đếm, đếm, đếm tùm lum làm cho đoạn đường dài gần 130 cây số ngắn lại. Thật là tuổi thơ hồn nhiên vui thú với những cái tầm thường mà mình đang có. Hạnh phúc là những gì mình đang có trong tay. Vào đến Quảng Ngãi tôi được mấy đứa em con cậu Bảo đối xử như thượng khách, anh con cô mà. Mấy đứa em tha hồ bày nhiều trò chơi. Đối với một em lớp đệ thất như tôi, cái gì trong Nhà máy đèn này cũng xa lạ với tôi cả. Trong Nhà máy đèn, tiếng máy chạy ầm ì đồng điệu suốt cả ngày đêm.

Mấy đứa em dắt tôi ra phía sau nhà máy tắm hồ. Thằng em con cậu lớn nhất thua tôi 2 tuổi. Thằng Hùng. Hai đứa em gái kế tiếp nhỏ hơn. Anh  em muốn nói gì với nhau chỉ bằng cách ra dấu thôi, chứ ra gần nhà máy nói với nhau không nghe nhau. Mấy đứa em chỉ cái hồ xây bằng xi măng dài khoảng 5 mét, ngang 2 mét. Đi đi lại phía hồ, thành hồ còn thấp hơn tôi. Thằng Hùng nhanh nhẹn cởi áo, phóc lên thành hồ, nháy cái chũm xuống hồ và bơi qua bơi lại, miệng cười khầng khật, trông thấy đã đời lắm. Tôi  mon men leo lên thành hồ, do dự chưa dám xuống nước. Thằng Hùng đã rình rình đến bên cạnh tôi hồi nào không hay, nó xô tôi xuống nước. Ú chu cha mẹ quơi! Hai tay tôi đập bành bạch, hai chân lại quẩy tứ tung, mà tôi lại chìm lên chìm xuống mấy lần, uống nước sặt gạch. Sợ muốn chết, tim đập thình thịch. Dần dần tôi chống được một chân xuống hồ. À cái hồ này cạn, nhưng lúc bị xô bất thình lình, tôi quíu quá nên tôi  mới bị uống nước. Hai đứa em Hùng là con Nguyệt và con Tuyết kia tài quá, cứ bơi qua bơi lại.

Cái hồ này là hồ nước nóng! Khi máy vận hành nước lạnh được chảy qua lốc máy, làm nước nóng lên và chảy ra hồ. Nước làm cho mát máy. Tôi nghĩ tôi diễm phúc nhất trần đời, tôi được tập bơi trong hồ nước nóng. Khi về đi học lại, tôi kể cho bạn học tôi nghe, tụi nó bảo thằng Tâm này dốc quá. Nhiều bạn tôi mùa đông còn tắm nước lạnh mà. Làm sao chúng tưởng tượng ra được. Tôi đành chịu mang tiếng là dốc.

Bơi tắm đã đời cho đến trưa, phải vào nhà ăn cơm thôi. Thằng Hùng lại dắt tôi qua chỗ khác, phía bên kia cái hồ nước nóng. Chỗ này có cái quạt thật to đang thổi phù phù, hắn chỉ tôi đứng trước cái quạt, u cha, một làn gió ấm thổi vào tôi. À, phía bên này là một cái máy đang chạy nữa, nó được làm mát bằng quạt gió. Tôi đứng trước quạt xủ tóc và quay tới quay lui một chặp lâu. Cả người và áo quần của tôi khô queo. Mấy anh em cùng vào nhà ăn cơm.

Một cái Tết tuyệt vời trong tuổi nhỏ của tôi.


Cậu Thái


Và nữa, ông ngoại tôi nhiều con lắm, thêm một cậu nữa cũng rất thích và mến tôi. Đó là cậu Thái - cậu không chịu lấy vợ, cứ lúc nào cũng ở tình trạng đang yêu cho cuộc đời thêm thi vị. Mãi về sau, mẹ tôi vào các dì hối giục quá nên cậu mới chịu lập gia đình.

clip_image0024

Cậu Thái

Cậu Thái rất thông minh. Cậu tự học và đã thi đậu tú tài. Khi dì Bảy tên Hiền tôi đi lấy chồng là dượng mười Xin, làm nghề một ông thợ vàng thì chồng dì dắt cậu Thái tôi theo học nghề. Hồi tôi học lên đệ lục, đệ ngũ, cậu Thái làm thợ vàng có tiền lắm. Cậu thường lấy chiếc xe Honda 67 của cậu chở tôi đi chơi. Chiếc xe dân chưa vợ sành điệu và có tiền hồi ấy hay chạy.

Tôi nhớ những buổi sáng chủ nhật, cậu hay chở đi một vòng bờ sông, xe chạy từ từ mát rượi. Cậu chạy vòng lên đường Độc Lập  bữa thì ghé vào tiệm bánh cuốn Tiến Hưng, hai cậu cháu làm 2 dĩa, tôi chỉ ăn dĩa nhỏ thôi. Lại thêm dĩa chả quế ngon tuyệt. Tôi khoái nhất là mấy cọng hành phi rải đầy trên dĩa bánh, vàng óng thơm phức, ăn vào miệng giòn tan. Lại thêm dĩa dưa chua, được chế biến bằng cà rốt, thù đủ, kể đến đây, nước miếng tôi lại ứa ra ực ực.Thỉnh thoảng tôi cũng hay dắt mấy đứa cháu con em trai xuống đây ăn, những hình ảnh  kỷ niệm xưa ùa về.

Tôi nhớ cậu Thái lắm.

Có bữa cậu lại chở lại gần Ty thông tin, ghé vào quán phở Cấp Tiến. Cậu gọi phở tái nạm gầu cho tôi, tôi  thích bỏ tương ớt vào tô phở, tô phở đỏ au đẹp mắt, nhưng ăn không cay, nhưng tôi cũng chỉ ăn tô nhỏ thôi. Mấy cô con gái quán phở dáng vẻ mình hạc xương mai đi qua đi lại phục vụ khách.

Cứ chủ nhật cậu Thái hay xuống chở tôi đi chơi. Tôi còn nhớ mãi những hình ảnh của Đà Nẵng xưa. Đường Trần Hưng Đạo có một đoạn ngắn mà hai bên cơ man nào là cửa tiệm sang trọng. Tôi có nhớ cậu Thái chở tôi vào một tiệm bán vải của ông Chà Và mua cho tôi một xấp vải về may áo sơ mi. Tôi có thêm một nhận xét: Người Chà Và có kỹ năng  buôn bán rất hay, họ  chìu khách hàng vô cùng, luôn luôn niềm nở, khi tôi chỉ tay vào cây vải nào là người bán hàng nhanh tay lấy xuống và trải dài cây vải ấy ra trước mặt tôi, cho tôi sờ mó thoả thích, chỉ mẫu khác họ lại làm in như vậy, họ xổ nhiều cây vải ra trước mặt làm tôi hoa mắt, một đống vải trước mặt tôi nhiều màu sắc tha hồ mà lựa đi lựa lại, nhưng không sao. Sau khi khách chọn một mẫu hàng ưa thích, họ lại nhanh nhẹn cuộn những mẫu vải này lại. Cây vải được làm bằng bốn thanh gỗ hai phân vuông, được đóng thành hình chữ nhật, ở giữa thêm một gân bụng chiều ngang bốn mươi phân, chiều dài tùy theo khổ vải. Với lối buôn bán này khó có khách hàng nào bỏ ra khỏi cửa tiệm từ chối  mua  một món hàng. Giả thử không mua họ cũng cười vui chào khách.

Cậu Thái cho tiền may áo. Ba  tôi biết và nói thằng này điệu quá: “Còn nhỏ mà ăn diện nhiều, hỏng đấy con ạ, mầy thấy con bướm có cánh màu sặc sỡ không? Càng sặc sỡ lại càng dễ bị người ta bắt ép xác để ngắm đấy. Nó chết vì màu sắc sặc sỡ của nó. Khoe khoang ăn diện nhiều là không tốt”. Nghe lời ba khuyên từ thuở ấy cho đến bây giờ tôi không bao giờ mặc áo hoa - lá - chim - cò nữa.

Những buổi sáng đi chơi dọc theo chợ Vườn Hoa, cảnh tấp nập của chợ búa, mấy chiếc xe Renault màu xanh chạy từ Sơn Trà qua, chở hành khách bên đó qua phố chơi. Chở mấy bà già, cô gái bán cá, nào là thúng mủng tùm lum tùm la. Xuống xe là họ lăn xăn thu dọn thúng gióng, gánh chạy lúp xúp mấy gánh cá xuống chợ Hàn, cũng có người chạy về Chợ Cồn. Hình ảnh này, nay đã không còn.


 

Cậu Thuận

Dưới cậu là Thái là cậu Thuận, cậu Thuận sướng từ nhỏ, lúc ra đời ông ngoại tôi làm ăn khấm khá nên cậu được ăn học đến nơi đến chốn. Tôi còn nhớ hình ảnh mổi ngày chủ nhật cậu giặt bộ đồ đồng phục màu trắng, khi xả nước cuối cậu cho vào thau nước một mảnh giấy màu xanh lục, áo quần được xả xong sẽ trắng tinh. Và  cậu  còn có một cái mũ cối màu trắng bằng niềng niểng rất nhẹ, cậu lấy một loại phấn trắng đánh lên cho trắng tinh. Ấy là vào ngày mai thứ hai đầu tuần cậu phải làm lễ chào cờ. Nhìn cậu mặc bộ đồ trắng đồng phục hồi ấy và cái mũ trắng trông rất là chững chạc. Sau này lớn lên tôi được học trường Nam Tiểu Học, đối diện với trường Phan Chu Trinh, mỗi thứ hai hằng tuần, chúng tôi cũng làm lễ chào cờ, nhưng bậc tiểu học nên bọn tôi bên này chỉ có quần xanh và áo trắng.

clip_image0026

Năm 1958, cậu đã học đệ tam trường Phan Chu Trinh. Thầy Trần Đại Tăng dạy Toán ra trường nhận lớp cậu là lớp đầu tiên. Gặp thầy Tăng tôi có hỏi thăm, thầy nói thầy còn nhớ hết tên học trò của lớp đầu tiên này. Trong lớp cậu có mấy người sau này là giáo sư bên trường Sao Mai, như thầy Tạ Quốc Bảo dạy tôi Anh văn chẳng hạn.

Học xong trường Phan Châu Trinh, thi đậu tú tài 1 thì cậu Thuận  thi vào học trường Cao đẳng Sư phạm Huế. Ra trường sau hai năm cậu được đổi về Túy Loan làm hiệu trưởng một trường tiểu học công lập. Năm 1966, cậu bị động viên, đi học trường sĩ quan Thủ Đức, được bổ dụng làm việc ở Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm. Năm 1970, cậu được biệt phái về Trường TH Phan Châu Trinh làm giám thị hành lang.

Hồi còn làm hiệu trưởng ở Túy Loan, cứ hằng tháng là cậu phải vào Hội An - thủ phủ của tỉnh lúc bấy giờ - để lãnh lương.

Cuối tháng của cậu là ngày vui của tôi. Cậu cùng đồng sự vào Hội An lãnh lương là tôi được dẫn đi theo. Đi theo cậu Thuận, tôi được ngồi  trên yên sau chiếc xe Goebel, dù cái yên sau có nệm cao su bọc da nhưng đi đường xa, hai cái mông tôi đến nơi ê ẩm lắm. Vào Hội An, cậu chở tôi đến gởi ở quán ông Ba Huế, ông này là người Chà Và, nói tiếng Việt Nam rặt một giọng Quảng Nam. Bà vợ ông người Huế thứ ba nên ở đây người ta gọi ông là ông Ba Huế. Mấy đứa con ông cũng trạc bằng tuổi tôi, nhìn đen thui thui, nói một giọng Quảng Nam chất phác, mà lại có duyên tệ, người ta  nói là đen giòn đó.

cuathai-thuan

Cậu Thái và cậu Thuận

Sau khi lãnh lương xong, cậu và mấy đồng sự nam và nữ cùng vào quán. Tôi  được cho ăn món hoành thánh xào chua ngọt. Một dĩa hoành thánh vàng nhân tôm xào, nước nhưn chua chua ngọt ngọt ăn mê tơi. Bạn cậu, người ăn cao lầu, người ăn bánh vạc, mì nước hoành thành nhân thịt heo nạc xíu. Mấy cậu còn kêu thêm bia Con Cọp. Tôi  được uống chai Xá xị thơm lừng với nước đá mát rượi.
Ăn xong, tôi ngồi chờ mấy cậu nhậu nhẹt lai rai, nói chuyên râm rang. Tôi cầm cái vỏ chai bia Con Cọp lên xem. Đọc dòng chữ quảng cáo , bây giờ tôi vẫn còn nhớ trên chai bia có ghi: "Bia Larue chế tạo tại Chợ Lớn , trong một nhà máy kể vào hàng vĩ đại và tối  tân  nhất thế giới, La - ve này thêm sức mạnh, có rất nhiều sinh tố, sức bổ  dưỡng vô song, phẩm chất thượng hạng, nên uống lạnh. 61 cl".

Sau này, thỉnh thoảng tôi cũng vào Hội An cùng bạn bè ăn lại món hoành thánh xào chua ngọt này, nhưng món này không còn ngon nữa. Ăn lại hư hết cái miệng và uổng tiền. Ông Ba Huế sau năm 1975 đã hỗn loạn tinh thần, có chính sách trục xuất ngoại kiều về nước, ông không có nước để về, có tin đồn ông đã tự tử chết, ông chết đi và đã mang theo cái bí quyết chế biến rồi chăng? Không biết vợ con ông nay trôi dạt phương nào...


chua-Faifo-1911

Hình ảnh thường gặp ở Hội An ngày trước (nguồn: photo Vĩnh Tân)

Sau khi ăn xuống no nê xong, mấy cậu cháu tôi về lại Đà Nẵng, cái mông của tôi lại bị hành hạ một lần nữa, nhưng không sao, miễn được cậu tôi cho ăn món hoành thánh xào chua ngọt là số dách rồi.


Dì Ba


Năm kia 2009, tôi dắt mẹ tôi vào Quảng Ngãi để dự đám cưới đứa cháu nội của cậu Sáu. Cậu không may qua đời sớm, và người con trai cậu cũng bạo bệnh cũng không còn nữa. Thằng Hùng, thằng mà tôi đã kể chuyện nó dám cả gan xô tôi xuống hồ nước nóng và sau đó, đã tập tôi bơi khi tôi có dịp vào Quảng Ngãi chơi năm học lớp đệ lục, đứa cháu nội côi cút - gọi mẹ tôi bằng bà cô - lên xe hoa với người bạn cùng lớp.
Ở nhà bàn bạc cùng nhau, tôi là người rảnh nhất nên được nhận nhiệm vụ dắt mẹ tôi vào dự đám cưới cháu. Hai mẹ con hôm ấy dậy thật sớm để đón xe thồ ra ga Đà Nẵng đi chuyến tàu chợ, chuyến 5 giờ sáng. Mẹ tôi năm ấy đã 83 tuổi, tinh thần còn minh mẫn, nhưng tại có bệnh say xe nên mẹ con phải đi tàu chợ. Đúng là tàu chợ, chạy cà rịch cà tang, ga nào cũng ghé, ga thì đón khách và hàng hóa lên; ga thì phải đợi tránh tàu… Theo lộ trình chạy là 5 tiếng đồng hồ, nhưng hôm ấy tàu chạy mất 7 giờ đồng hồ. Hai mẹ con đi trước ngày cưới một ngày nên chẳng có gì phải nôn nóng, vả lại tàu chạy càng chậm mẹ tôi lại càng khỏe, bà nói mẹ ngồi trên tàu giống y như ngồi ở nhà nên chẳng mệt mỏi chi.

di-ba

Dì Ba và chị Hồng (ảnh chụp năm 1955)

Suốt chặng đường, mẹ tôi với quá khứ đau buồn đã được chôn chặt bỗng ùa về, những năm tháng khổ ải của thời con gái, nay đây mai đó theo gia đình suốt thời gian giặc giã. Những năm tháng cũ hồi sinh lại trong mẹ tôi và bà thao thao bất tuyệt kể lại cho tôi nghe.

Hồi ấy gia đình ngoại tôi  tản cư vào Cẩm Khê, không biết Cẩm Khê theo lời mẹ tôi kể lại là một địa danh của xã thôn nào thuộc thị xã Tam Kỳ lúc ấy? Sau này đi lại nhiều và tìm hiểu thêm, tôi được biết đây là một địa danh thuộc xã Tam Dân - Tam Kỳ. Xã này đã được xác nhập cùng nhiều xã khác vào huyện mới Phú Ninh, một địa danh cách Tam Kỳ phỏng chừng  ba mươi cây số.

Sau Cách mạng tháng 8/1945, huyện Tam Kỳ có huyện lỵ là thị trấn Tam Kỳ. Đến ngày 30/01/1951 thị xã Tam Kỳ được thành lập và được chọn là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam. Sau hiệp định Genève năm 1954, dưới chính quyền Sài Gòn, huyện Tam Kỳ được gọi là quận Tam Kỳ và tỉnh Quảng Tín.

Hồi ấy đói lắm, mẹ tôi chẳng nhớ năm nào, chỉ nhớ là hồi ấy chưa có chồng. Dì Ba tôi là chị cả đã có chồng theo kháng chiến. Ông Mười cụt - chồng dì là thợ may, hồi ấy không ở nhà, ông công tác trong xưởng may quân phục tận đâu đâu. Dì Ba dẫn dắt mấy đứa em đi buôn để kiếm sống, nuôi cha nuôi mẹ nuôi em. Hồi ấy, phải mua tận gốc bán tận ngọn mới có cái ăn. Mà đường xá đi lại rất khó khăn, làm chi có xe mà đi, tất tật chỉ trông vào đôi chân. Sáng dậy ăn vội mấy miếng cơm ghế khoai rồi gánh đôi bầu mà chạy. Mẹ tôi  nói đi bộ lâu tới Tam Kỳ lại thêm mau mỏi chân, chạy mau đến hơn mà không mỏi chân. Cả đoàn do dì Ba dẫn đầu chạy trước, mấy chị em chạy sau xuống Tam Kỳ. Rồi từ Tam Kỳ rồi phải chạy xuống phía miền biển, mỗi người mua mỗi món hàng, mẹ tôi chọn mua một đôi bầu mắm cá cơm.

Hai-chi-em-Me--di-Ba

Mẹ và dì Ba (áo trắng) tại căn nhà mới

Mua xong hàng rồi tất cả lật đật quay trở về, không ăn uống chi cả, ăn hàng ăn quán cho mà hết vốn mau à? Mà có muốn ăn cũng chẳng có hàng quán. Chạy trên đường về, đến lúc đói không chịu được nữa mới nghỉ chân, dọn đồ ra ăn tôi hỏi mắm cái mặn chát vậy mẹ ăn trừ cơm à? Không phải vậy, mấy dì có mua bánh tráng, nghỉ lại bên đám rau muống nào đó, xuống ngắt mấy ngọn rau, rửa xạch bằng nước ruộng, múc mắm ra pha thêm ít nước, cũng nước ruộng đó pha cho đỡ hao mắm! Rồi nhúng bánh tráng ướt rồi cuốn rau chấm mắm ăn cho no. Tôi có hỏi, ai trồng rau mà mình ngắt ăn tự nhiên như vậy? Rau muống có chủ chứ, nhưng nhà và ruộng xa nhau, vài ba chuyến nhắn gặp họ và lại trả tiền, mấy xu chi đó, dân hồi ấy dù nghèo nhưng rất thương yêu nhau. Khi nào họ khấm khá lại mua mắm của mình với giá rẻ. Ăn no xong nghỉ ngơi đôi chút rồi bắt đầu gánh gánh chạy tiếp, chạy về Cẩm Khê. Mẹ tôi kể rằng, hồi ấy đường xá hẹp lắm, lau lách um tùm, chị em phải chạy cùng nhau theo đoàn chứ lớ quớ chạy chậm không theo kịp có thể cọp ra tha người chạy sau. Đường đi có dốc cao cũng phải ráng chạy theo đoàn! Không dám chậm trể .

Về đến Cẩm Khê rồi mà đâu có được nghỉ ngơi, lại phải tản ra chạy tiếp về các xóm nhà mà bán hàng. Chiều tối, ăn uống qua quít cho no rồi tìm chỗ quen mà xin nghỉ lại để ngày mai bán tiếp, khi nào hết hàng thì về. Hồi ấy, giao thông khó khăn nên vài ngày hết hàng, chị em mới về lại Cẩm Khê, nơi ngoại tôi tản cư. Rồi tính vốn tính lời, bàn bạc cùng nhau chuyến sau lại về Tam Kỳ mua hàng tiếp, mỗi chuyến mua mỗi món hàng tùy theo nhu cầu của dân trên ấy. Dân địa phương trên ấy cũng nghèo lắm, chủ yếu là sống với nghề nông và đốn củi. Người ta bó từng bó củi to, rồi cũng chạy từng đoàn xuống Tam Kỳ bán, dân ở những nơi khác tìm về tản cư làm ăn cũng làm nghề ấy, nhưng nhọc nhằn và lao lực nhiều hơn.

Dì Ba tôi hồi ấy đã có chồng được mấy đứa con, nhưng con dì mỗi anh mỗi chị đều đã qua đời vì bệnh tật vì thiếu ăn, vì bệnh tật thiếu thuốc thiếu men! Dì chỉ còn sống sót một người con gái duy nhất, khi dì đi buôn đi bán thì gởi con lại cho ông bà ngoại coi ngó. Chị này cũng thiếu ăn, thiếu thuốc nên rất èo uột, chỉ da bọc xương. Mỗi chuyến đi hàng về, ở nhà lấy cái đầu con mắm cái và thêm ít rau ra nấu cháo cho chị ăn, chứ có gì hơn! Chỉ ăn được cái đầu mắm thôi, còn cái thân mắm để bán kiếm lời mà nuôi sống gia đình. Mẹ  tôi bảo vậy.

Bây giờ đất nước đã sung túc, lương thực thực phẩm chẳng thiếu món gì, muốn ăn món chi được nấy, nhưng tôi vẫn thỉnh thoảng dặn mấy đi buôn ở quê ra mua giùm vài kí khoai lang khô để ghế cơm ăn dần. Nhìn những lát khoai lang khô mộc mạc, lấy thân mình ốm tong ốm teo của mình cõng mấy hạt gạo trắng muốt. Tôi thương mẹ tôi vô vàn, bà và mấy dì tôi như những lát khoai lang khô quắt cõng mang anh chị em vào đời, to mập trắng trẻo đến ngày hôm nay.

clip_image0028

Sắn cõng cơm

Sau đó mẹ tôi lập gia đình (1950). Ba tôi là anh lớn trong nhà, mọi ý kiến của ông đóng góp đều được mọi người nghe theo và gia đình ông ngoại rất quý trọng ba tôi. Biết bệnh của chị Hồng, ông về tuốt Tam Kỳ mua mấy ống thuốc về chích cho chị. Ba tôi không nói ra, nhưng bây giờ tôi đoán đó là thuốc bổ. Chị ơi, chừ chị đã có cháu ngoại rồi, cuộc sống đã đến hồi sung túc hơn. Nếu không có mấy ống thuốc mua từ Tam Kỳ chắc chị cũng đã theo ông theo bà từ hồi nào rồi. Dì Ba tôi dưới mí mắt có một hột nút ruồi, như giọt nước mắt, mấy ông thầy tướng bảo dì tôi có số khóc con!

Năm 1954, bác Mười chồng dì Ba tập kết ra Bắc được dắt theo vợ con. Dì Ba có hỏi ý kiến ba tôi. Kể từ ngày ông cứu sống chị Hồng, những chuyện hệ trọng gì, dì Ba tôi cũng hỏi ý kiến ba tôi. Ông bảo, tình hình tập kết ra Bắc cuộc sống chưa biết ra sao, chị Hồng tôi còn èo uột quá, ông sợ dài đường gian khổ, dì tôi không giữ lại sự sống của chị. Mà có lâu dài chi cho cam, đi hai năm rồi về chứ có lâu đâu. Thôi chị hãy ở lại với ba mẹ, tìm đường hồi cư về Đà Nẵng làm ăn sinh sống chờ anh Mười, 2 năm sau sum họp. Năm 1955, dì Ba tôi dắt chị Hồng cùng ông bà ngoại về Đà Nẵng làm ăn sinh sống. Ở vậy nuôi con. Bà chờ chồng suốt 21 năm!

Năm đó tôi mới được 11 tháng, biết nắm tay cậu Thuận chạy lúp xúp qua nổng cát trắng theo đoàn một đoạn, nóng chân quá cậu Thuận mới cõng tôi lên. Sau một trận sốt cao tôi bị bại liệt chân trái. Ba tôi về hành nghề hớt tóc dạo và y tá tư. Thời gian này, gia đình cha mẹ tôi rất xào xáo, lúc ấy cha mẹ tôi mới có 4 đứa con.

Tại sao?



Hoạt động bí mật

Mới đây, nhân chuyến vào Buôn Mê Thuột với cậu Thuận dự đám giổ Dũng -  em họ con cậu Bảo  - cậu Thuận mới hé ra bí mật này cho tôi:

Một đêm nghe tiếng chì chéo của mẹ tôi, cậu và dì Ba thức dậy vào lúc nửa đêm, nghe tiếng rít khủng khiếp của mẹ tôi, cha tôi mặt mày xanh dờn lo sợ. Chuyện gì đã xảy ra vậy? Mẹ tôi ghen. Một cơn lồng lộng ghen điên cuồng đã làm mẹ tôi mất lý trí, bà xé phăng hết cái áo ba tôi đang mặc trong người, phía dưới cái quần đùi rộng thình thình cũng bị xé nát… Khi cậu Thuận vào đã thấy cái quần đùi đã rách như xơ mướp. Cậu và dì Ba cảm thấy ái ngại cho cha tôi, dì Ba hết lời căn ngăn và cậu Thuận, hồi ấy đã học lớp đệ tứ trường Phan Chu Trinh rồi, cự mẹ tôi dữ lắm. Cậu không đồng ý về cách hành xử của mẹ tôi. “Chị làm gì thì làm cũng phải một vừa hai phải chớ. Ban ngày ảnh còn đi làm đi ăn, mặt mày xơ rơ xác rát làm sao mà giao thiệp được với ai? Hàng xóm láng giềng nghe được xầm xì to nhỏ, nhục nhả cho gia đình lắm”. Mẹ tôi nghe một lúc mới nguôi lòng và thôi không hành hạ ba tôi nữa. Tha cho lúc này thôi.

Ba tôi có làm gì mà nên tội?

Những lúc vui tôi hay hỏi chuyện xưa của ba mẹ, mẹ tôi vẫn khăng khăng nói rằng ba tôi đã mèo mỡ với mụ đàn bà khác. Mẹ tôi kể rằng một buổi chiều tối đi bán về nghe ông ngoại tôi mách lại, “Tau thấy thằng Châu (tên ba tôi) đánh lông nheo với con… ở bên Trung Lương. Đáng nghi lắm!”. Thế là máu Hoạn Thư chảy rầng rầng trong cơ thể và bà bắt đầu ra tay. Mẹ tôi đã cho người qua tận Trung Lương điều tra về người đàn bà này. Quả thật người ấy không chồng (chồng đã đi tập kết), làm nghề buôn bán nông sản. Người mẹ tôi thuê đi dọ hỏi về báo lại là cha tôi thường hay đến nhà người đàn bà này để chửa bệnh.  Người thấy to khỏe mà bệnh tật gì?

Trung Lương là một làng thuần nông nằm bên kia bến đò Đò Xu sông Cẩm Lệ. Mấy phụ nữ này mua sản vật nông nghiệp trong làng, nào khoai lang, sắn, đậu cô ve, mía lau, các loại đậu và gạo mới… Họ gánh hai thúng đầy đi đò qua thành phố buôn bán. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh họ đi từng nhóm nhiều người. Chia nhỏ ra bán quanh trong xóm. Ông ngoại tôi cũng hay gọi vào mua mấy khúc mía lau cho bọn tôi. Mẹ tôi đã điều tra ra, bà bắt đầu làm tình làm tội ba tôi, cứ nửa đêm là bà nhéo cho ông thức dậy, không cho ngủ và bắt đâu tra hỏi, bà dùng mọi phương cách dù vô lý của người vợ ghen. Lồng lộn, xé quần xé áo, cầm dao dọa giết và ôi thôi không biết bao nhiêu là cách mà mẹ tôi cho là để ba tôi.. quy hàng! Ban ngày xuống chợ, bà ngủ một giấc ngon lành, lấy sức để đêm đêm tiếp tục tra tấn, bà làm suốt một tuần lễ khiến ba cha tôi mặt xanh nanh vàng mà quy phục. Ba tôi không chịu nổi đón “tra tấn” cao tay này đã nhận hết mọi chuyện. Bà mới để yên.

Nội dung mẹ tôi kể chắc có phần oan uổng vỉ theo suy luận, ba tôi không phải thuộc loại mèo mả gà đồng, ông là người chồng chuẩn mực, không rượu chè bê tha mà ăn nhín nhịn thèm để lo cho vợ con. Tiêu pha rất tiết kiệm, chứ không vất tiền qua cửa sổ như bọn tôi. Mỗi lần tiêu pha việc gì cảm thấy phí phạm, ba tôi thường răn dạy bọn tôi như vậy. Ba tôi chỉ biết ngày ba bữa cơm với gia đình làm sao có chuyện ấy được? Sau này có đủ trí khôn tôi nhận định, ba tôi giao du với người đàn bà bên Trung Lương là để hoạt động bí mật. Vì việc lớn mà ông phải cam chịu những uẩn khúc trong chuyện vợ chồng. Chắc chắn vậy. Đúng là ba tôi thà chịu tội chứ không khai ra đồng chí. Mẹ tôi kể sau trận đòn ghen nhớ đời ấy, ba tôi không dám gặp lại người đàn bà ấy nữa!

Dù không tiếp tục liên lạc với người đàn bà bên Trung Lương, cha tôi vẫn hoạt động bí mật với người khác. Những tài liệu chết người của Mặt trận Giải phóng miền Nam, không biết cha tôi mang về từ đâu, được giấu dưới cái ghế salon bọc nệm ở phòng khách mà tôi tình cờ đọc được! Tôi từ nhỏ có tính hay tò mò, một bữa bò lê trên nền nhà, nằm ngó ngược lên cái ghế salon, bên trên bọc vải simili giả da, dưới đáy được bịt lại bằng vải bao tời. Mảnh bao tời này bị sút đinh, bên trong lộ ra một tập giấy, thấy lạ, tôi kéo ra đọc. Đọc xong, tôi hiểu một cách mơ hồ là cha tôi đang làm một chuyện gì đó nguy hiểm, tập giấy này nói về cương lĩnh của Mặt trận Giải phóng miền Nam! Tôi lẳng lặng bỏ lại chỗ cũ, chẳng dám nói với ai. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa mọi cộng tác, hoạt động cho cộng sản đều bị cấm, bị ghép tội phản quốc có thể xử tử hình. Năm đó tôi học lớp đệ thất (1966) và mơ màng biết rằng ba tôi đang làm một công việc rất bí mật.

Bac-TyRR

Ba tôi (áo đen, ngồi đầu bàn) cùng bạn hữu ăn giỗ tại nhà bác Tỵ - đối diện nhà

Với vỏ bọc bên ngoài là ông y tá tư, ông hớt tóc dạo, ba tôi đi cùng khắp thị xã và vùng phụ cận hợp pháp, từ ông, nhiều đồng chí của ông sẽ được nối kết. Cấp trên có thể ung dung đến nhà tôi, không sợ ai để ý, đi tìm y tá để chữa bệnh mà. Chính quyền làm sao đặt mối nghi ngờ cha tôi đang hoạt động cho Mặt trận Giải phóng? Một ông y tá giàu có với hai gian nhà ngói rộng thênh thang bên vợ con hạnh phúc, bà vợ dọn tiệm vàng ở chợ Cồn. Một vỏ bọc khá tốt. Chính quyền Việt Nam Cộng hoà này đang tạo cho ông một cuộc sống tự do và thoải mái, tự do dễ dàng trong sinh nhai. Ông có bị áp bức nào đâu? Ông tâm sự khi tôi đã học lên trung học đệ nhị cấp, ông không thể không cộng tác cho Mặt trận được, nhưng cấm tuyệt tôi không được tham gia bất cứ tổ chức nào ngoài việc học, ông đồng ý với cấp trên là chính quyền miền Nam sẽ sụp đổ, thời gian chỉ còn chờ đợi mà thôi. Rồi hai miền phải thống nhất, Nam Bắc một nhà chứ không thể chia lìa nhau mãi như bấy giờ được. Những năm tháng chống Pháp, ông đã trải qua và với ý chí của một đảng viên cộng sản ông luôn tin tưởng như vậy. Quê nhà yêu thương ở tận Ninh Bình đang chờ ông trở về. Nếu chỉ bo bo làm giàu cho gia đình và bản thân, không đóng góp công của vào cuộc chiến đấu này, lỡ mau sau cuộc kháng chiến chống Mỹ thành công, “người ta “có để yên cho ông và gia đình không?

Cho đến năm 1965, công việc làm ăn của cha mẹ tôi vẫn trôi chảy theo chiều hướng tốt đẹp, sau khi ở chợ Hàn buôn bán hàng rau củ quả, dì Ba và mẹ tôi dành dụm được một số vàng rất lớn. Dượng mười Xin lúc này đã thôi làm công cho ông bà Vĩnh Ký, với số vốn ban đầu ông bà giúp đỡ, vợ chồng dì dượng  ra làm ăn riêng.

Dì dượng lấy hiệu vàng Vĩnh Phát, Vĩnh là họ của hiệu ông cha nuôi, Phát là tên con trai thứ 2 của dì Hiền, cũng có nghĩa phát đạt nữa. Rồi, mẹ tôi và dì Ba cũng về chợ Cồn thuê chổ trước mấy kiosque để dọn hiệu vàng. Mẹ tôi hiệu vàng Vĩnh Châu, dì Ba hiệu vàng Vĩnh Thái. Ba hiệu vàng liền kề nhau của ba chị em. Ba chị em của quán Ba Cô thời tản cư ở Cây Sanh nay đã trở thành ba bà chủ hiệu vàng họ Vĩnh!

meLMQ

Mẹ tôi thời kỳ bán vàng tại chợ Cồn "Hàng vàng Vĩnh Châu"

Cậu Thái lúc này vẫn chưa có vợ, làm thợ cả cho dì Ba, của chị công em. Riêng phần mẹ tôi không có thợ, phải nhờ dượng tôi cố vấn và làm thêm cho mẹ tôi, ông tìm giúp thợ giỏi cho tiệm vàng mẹ tôi. Thợ ăn ở nhà tôi năm sáu người, học trò không kể đến cũng một vài người. Cha mẹ tôi có cho vợ chồng dì Hiền mượn một số vàng lớn để làm ăn, không tính lãi, thời hạn dài lâu. Mấy năm sau, ba tôi, dượng và cậu Thái mỗi người mua một chiếc xe Vespa Sprint của Ý Đại Lợi mới keng. Hồi ba tôi qua đời vì bạo bệnh, dượng mười Xin - chồng dì Hiền khóc dữ lắm. Ông khóc thương ba tôi như người anh ruột, chưa có anh em cột chèo nào mà đối xử tốt như ba tôi đối với ông. Giúp đỡ vốn liếng cho vợ chồng ông làm lụng nuôi 9 đứa con! Ông đã để tang cho cha tôi như để tang cho anh trai trưởng.

Thời gian dần dà trôi và tôi nhớ nhất cái Tết năm Mậu Thân. Trong giai đoạn này :

"Đoàn cán bộ do đồng chí Nguyễn Duy Hưng làm trưởng đoàn đã xây dựng được tổ trung kiên hoạt động hợp pháp và nắm được tình hình trong thành phố. Những anh em cơ sở này, phần lớn làm nghề mộc, rèn, đi lại dễ dàng. Các đồng chí đã hướng dẫn họ chắp nối lại một số cơ sở, liên lạc với các đảng viên hoạt động đơn tuyến, một số cán bộ kháng chiến cũ còn giữ được phẩm chất và tinh thần cách mạng. Bước đầu thông qua những cơ sở này, các đồng chí đã nối lại được những cơ sở quần chúng trung kiên ở khu Nam, Sông Đà. Một số quần chúng trung kiên và đảng viên cũ hoạt động đơn tuyến được rút ra ngoài ở vùng ven Hòa Vang, học tập tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương, phương châm, phương thức và nhiệm vụ công tác trong tình hình mới.

Đến giữa năm 1961, một số cơ sở trong nội thành đã được khôi phục và hoạt động như cảng Đà Nẵng, nghiệp đoàn khuân vác, tài xế, thợ máy, xích lô, hỏa xa, nhà đèn, công thương và các khu phố Hải Châu, Phước Ninh (theo http://www.danang.gov.vn).

Ông Trần Duy Hưng có bí danh Sáu Hưng - một nhân vật vật mà khi viết giới thiệu tập sách Sáu Hưng - Năm tháng cuộc đời (NXB Văn Nghệ TP.HCM), ông Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh ghi nhận: “Câu chuyện về ông Sáu Hưng và những đồng chí cùng thời với ông, đã cho thấy cái tinh thần “hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân” của các thế hệ trước rất đáng được noi theo” (tr.7). Trong tập sách đó, ông Sáu Hưng kể lại thời gian ở nhà tôi:

sauhung

“Nhà anh Lê văn Châu ở đường Triệu Nữ Vương. Trong những ngày chuẩn bị tổng tiến công, đồng chí Trần Thận và tôi ở đây để chỉ đạo cuộc nổi dậy tại chùa Tỉnh Hội. Nhà anh được xem là trụ sở tiền phương. Các đồng chí Hồ Nghinh - Thường vụ Khu ủy khu V- Phó Bí thư Đặc Khu ủy Quảng Đà, đồng chí Hà Kỳ Ngộ - Thường vụ đặc Khu ủy Quảng Đà cũng cũng đã từng ở đây để chỉ đạo các cơ sở bên ngoài và giao nhiệm vụ cho các đội biệt động thành. Thường ngày, anh Châu tìm cách nắm tình hình với các đơn vị quân đoàn về cung cấp cho ta. Vợ anh Châu khi biết chiến sĩ biệt động của ta cải trang lính ngụy vào liên lạc thì đối đãi rất chân tình. Chị thường dặn dò: “Các con làm nhiệm vụ xong về nhà cô ở. Cứ coi như người trong nhà. Vào mở tủ lạnh có chi cứ dùng”. Đây là một cơ sở rất đáng tin cậy” (SĐD trang 206).

ba-me

Mẹ tôi

Thời gian đó, lui tới nhà tôi còn có dượng Sỏ tôi - thợ máy Sở Hỏa xa Đà Nẵng, chồng dì sáu Chát em cô cậu với mẹ tôi; ông Toại - thợ điện tự do, nhà ở góc đường Lê Đình Dương - Triệu Nữ Vương; ông Ba Luông nhà ở trước đồn cảnh sát Hoàng Diệu chủ một dépot cát, sạn, ciment là bạn thân của ba tôi v.v… Và cả cậu Thái nữa, lúc này ông là cảnh sát quốc gia! Dì Ba tôi phải lo cho ông một số vàng để đút lót, cậu mới được vào ngành này, làm việc tàng tàng ở thành phố, thời gian rảnh rỗi làm nghề thợ vàng, sướng hú, khỏi đi lính ra mặt trận, sống chết không biết đâu mà lần. Công việc của cha tôi được giao những gì? Cha tôi cùng bao đồng chí của ông làm những công việc gì?

"Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, để huy động sức mạnh tổng hợp của quân dân Quảng Đà và Đà Nẵng, Khu ủy Khu 5 đã quyết định nhập hai địa phương lại thành Đặc khu Quảng Đà do đồng chí Hồ Nghinh làm Bí thư Đặc khu ủy. Ban chỉ huy Tỉnh đội được chuyển thành Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 để chỉ huy lực lượng quân sự đang được tăng cường. Huyện Hòa Vang cũng được chia thành 3 khu để hỗ trợ cho 3 quận ở Đà Nẵng.

Thi hành chỉ thị của Khu ủy Khu 5, từ tháng 12.1967, Đặc khu Quảng Đà đã khẩn trương chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân. Đà Nẵng được chọn là trọng điểm của khu. Đồng chí Trương Chí Cương, uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, phó Bí thư Khu uỷ Khu 5 được phân công chỉ đạo trực tiếp việc chuẩn bị. Bộ Tư lệnh Quân khu 5 tăng cường cho Mặt trận 4 các trung đoàn pháo binh 575, 577, trung đoàn 31 bộ binh.

Rút kinh nghiệm từ cuộc nổi dậy làm chủ thành phố năm 1966, Ban chỉ đạo đề ra phương án cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy của thành phố là: dùng một lực lượng vũ trang nhất định hỗ trợ, phát động quần chúng bên trong nổi dậy là chủ yếu, tranh thủ lợi dụng, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ địch, lôi kéo một bộ phận chỉ huy và binh lính trong quân đoàn I ly khai chống Thiệu - Kỳ, làm chủ thành phố. Quần chúng các Khu 1, 2, 3 của huyện Hoà Vang được tổ chức lại thành các đại đội, có trang bị vũ khí thô sơ, đúng giờ quy định, đột nhập vào thành phố tiếp sức cho quần chúng bên trong nổi dậy.

Các lực lượng tham gia tấn công và nổi dậy được phân công nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể:
 

Đối với lực lượng chính trị: Đêm 30 rạng ngày 1 tết, các ban cán sự huy động quần chúng nhân dân nội thành tập trung tại chùa Tỉnh hội để phát động nổi dậy, quần chúng nông thôn khi có lệnh từ các hướng Nam Ô, Hòa Khánh, Hoà Phát, Hoà Đa, Hoà Hải kéo vào Đà Nẵng cùng với nhân dân thành phố nổi dậy làm chủ (theo http://www.danang.gov.vn - Lịch sử đấu tranh cách mạng thành phố Đà Nẵng).

Ông Bí thư đặc khu uỷ Hồ Nghinh và nhiều người nữa đã thường xuyên đến nhà tôi, có khi ở lại ăn cơm khách, có khi ghé vào rồi đi ngay, ba tôi đi làm giờ giấc rất tự do, nhiều đêm tám chín giờ tối, có người đến nhà mời đi chích thuốc ông cũng phải đi, không để người ta đợi đến ngày mai, cứu người như cứu hỏa. Nhưng những lúc ấy là ông đi lo cho công tác bí mật…

"Triển khai kế hoạch trên, từ giữa tháng 1 năm 1968, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của quận I, II, III và lực lượng quân sự, an ninh đều lần lượt vào nội thành để chuẩn bị. Vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men được bí mật chuyển vào thành phố qua nhiều phương tiện: xe vận tải của các tài xế, thợ máy, trên xe hon da của các nhà sư, trong gánh rau, gạo của bà con nông dân đi chợ vào thành phố v.v... Nhà ở của một số công nhân, nhân sĩ tiến bộ, công chức, giáo chức trở thành nơi cất giấu vũ khí, nơi che dấu cán bộ và chiến sĩ biệt động. Một số chùa chiền trong thành phố cũng trở thành cơ sở chuẩn bị cho chiến dịch.

Đến gần Tết Nguyên đán, các đồng chí Trần Thận, phó Bí thư Đặc khu uỷ và các đồng chí Hà Kỳ Ngộ, Nguyễn Duy Hưng lần lượt vào bên trong nội thành. Trưa 30 tết, đồng chí Hồ Nghinh, Bí thư Đặc khu uỷ cũng vào nội thành để trực tiếp chỉ đạo cuộc nổi dậy bí mật".

12x12QuocPN05

Ba tôi và các em tôi

Ba tôi hoá trang cho các ông Bí thư Khu uỷ Hồ Nghinh, Phó Bí thư Khu uỷ Trần Thận, Nguyễn Duy Hưng bằng những bộ Veston sang trọng và giày mũ hợp thời thượng và chở lần lượt các ông thong dong đi giữa phố phường Đà Nẵng bằng xe Vespa Sprint trước mũi cảnh sát và quân cảnh. Ba tôi hy sinh tất cả những gì mình có cho Cách mạng với một ước ao duy nhất: Mong ngày sum họp với gia đình ruột thịt ở Ninh Bình.

Những ngày tết năm Mậu Thân 1968, gia đình tôi đón rất nhiều khách, những người khách đến không để uống rượu mừng, ăn mứt và hạt dưa, nhưng đến vì trọng trách đất nước đang đặt trên vai mình. Trong dịp Tết cổ truyền năm Mậu Thân, mọi người vào ra nhà tôi như con thoi.

Và:

"Lúc này, cách mạng miền Nam đang đứng trước những thử thách khốc liệt. Sau Tết Mậu Thân 1968, do bị tổn thất nặng trong các đợt tổng tấn công, nên thế và lực của ta có giảm sút. Tình hình chiến trường đã thay đổi, nhưng ta vẫn dồn sức mở các đợt tấn công đồng loạt nhằm vào đô thị, để hở mặt trận nông thôn. Địch lợi dụng khó khăn của ta vừa tổ chức phản kích đẩy lùi chủ lực của ta ra xa các vùng ven thành phố, thị xã, các khu đông dân cư và đường giao thông chiến lược, vừa tập trung lực lượng giành lại vùng nông thôn. Về phía ta, do mất bàn đạp tấn công, lực lượng hao hụt, vũ khí, lương thực thuốc men bị mất mát, tiêu hao, chưa kịp bổ sung, khó khăn chồng chất " (như trên).

Đến ngày 11 tháng Giêng năm Mậu Thân 1968, ba tôi làm đám giỗ ông nội tôi, trưa hôm ấy tôi đi học về thấy ông Nguyễn Duy Hưng (Sáu Hưng) có đến dự. Tôi hay gọi bác Sáu, những người khách đến nhà với cha tôi tùy theo tuổi tác mà tôi xưng hô.  

Tôi còn nhớ năm ấy đâu khoảng vào tháng giêng âm lịch năm Mậu thân 1968, cả nhà đang ngủ ngon, cảnh sát và quân cảnh vây vòng trong vòng ngoài đập cửa vào soát nhà, cả nhà bị lôi hết dậy. Tối hôm ngày 12 âm lịch, bị gọi dậy đứng ngay nhà ngang khoảng 20 phút, tôi run, răng đánh vào nhau cầm cập vì lạnh và vì sợ, tối hôm đó trời còn lạnh thật.

Tôi nghe loáng thoáng tiếng cảnh sát hỏi ba tôi: “Tên Sáu Hưng đâu? Hôm qua tên Việt cộng này ăn đám giỗ ở nhà ông, ngồi ở cái ghế nào? Bọn tôi biết hết! Mau khai ra!”. A, ông già hay đến nhà xầm xì to nhỏ với ba tôi là Việt cộng? Ba tôi liên hệ với ông sáu Hưng, chứa chấp ông Sáu Hưng trong nhà và mấy ông bí thư, phó bí thư khu ủy... Vậy đích thực ba tôi là Việt cộng nằm vùng. Ba tôi trả lời không biết. Mẹ tôi cũng có mặt ở đấy, bà đang nhai trầu, bà có thói quen hay nhai trầu, chắc là để ấm người lên và lấy thêm tinh thần, cảnh sát cũng hỏi và bà trả lời không biết. “A, bà này ngoan cố”. Chúng bảo vậy, sau khi lục loại khắp nơi, leo lên plafont nhà, leo cả lên mái nhà rọi đèn sáng trưng, không thấy “tên Sáu Hưng” đâu cả, chúng cho bọn tôi đi ngủ lại và bắt đi ba tôi và anh Lương. Hồi hồi ấy anh Lương mới học đệ tứ trường Bán công. Một người trong đám nhắc nhở ba và anh tôi mang theo áo ấm. Khi vào ngủ lại tôi nghe tiếng máy truyền tin PRC25 trên xe quân cảnh đậu ngoài đường phát ra nghe rào rẹt, tiếng nói cộng với tiếng ẹt ẹt của máy tôi nghe báo cáo lên cấp trên: “Báo cáo, đã bắt tên Việt cộng nằm vùng và thằng con nó rồi”.

Tôi chìm dần vào giấc ngủ...

Năm đó, tôi đã học đến lớp đệ ngũ trường Bồ Đề rồi. Chiều hôm sau tôi không có giờ học, đang đứng cổng nhà, tôi thấy ông Sáu Hưng xăm xăm đi lại, ông chưa biết gì về việc ba tôi bị bắt đêm qua cả. Ông mặc bộ đồ Tây, bên ngoài mặc thêm áo pardesus màu xám tro, một loại áo ngoài dài quá gối, thời trang  sang trọng, mang giày da đen bóng, đội mũ phớt màu ngà và mang kiếng đen. Thấy ông, bỗng tôi buột miệng: “Ba con bị bắt rồi!”. Ông không nói không rằng quay trở ra, kéo xụp mũ xuống và đi theo hướng cây đa Nguyễn Trãi rất nhanh. Những chi tiết này, trong tập sách Sáu Hưng - Năm tháng cuộc đời”, ông Sáu Hưng cũng có kể lại những chi tiết tương tự.

Khoảng một giờ sau, một người đàn bà, ăn mặc theo kiểu nhà quê gánh một đôi gióng và  hai cái mủng, hai chiếc gióng được lồng vào nhau, tay giữ đòn gánh trên vai phía trước, hai chiếc gióng phía sau, trên cái mủng có những gì? Lúc ấy tôi không quan sát kỹ lắm, hình như còn một mớ rau khoai đã héo. Chắc bà nguỵ trang người bàn hàng hết hàng lúc chiều về. Bà hỏi tôi: “Anh Châu đâu?”. Tôi trả lời ba tôi đã bị bắt khi hồi khuya. Mặt biến sắc, bà thọc tay vào túi áo bà ba móc ra một miếng giấy đã được xếp nhỏ, vội vàng bõ vào miệng nhai trộng và nuốt ực. Bà  vội vã quay đi mau ra theo hướng đường Lê Đình Dương. May mà ngày hôm đó không có mật vụ mai phục rình rập quanh nhà tôi, chứ có, ông sáu Hưng và người phụ nữ ấy khó mà trốn thoát.

Từ ngày ba bị bắt, nhà tôi buồn lắm, đây là lần đầu tiên một sự việc đau buồn xẩy ra trong gia đình. Mẹ tôi hằng ngày vẫn đi bán buôn, ra chợ mẹ tôi hỏi người quen hỏi về chỗ cảnh sát nhốt cha tôi ở đâu để đi thăm nuôi. Một buổi sáng mẹ tôi nhận được tin nhắn ba tôi bị bệnh, cảnh sát cho chuyển ra bệnh viện Đa khoa, bà vội vã gởi hàng cho dì Hiền, ra bệnh viện ngay, ba tôi bị bắt mới mấy tháng mà thân hình đã ốm o gầy mòn. Ba tôi mặc bộ đồ dân sự, một chân bị còng vào chân giường, hai tên cảnh sát đi đi lại lại ở hành lang canh chừng, mẹ tôi dúi vào tay mỗi tên một tờ con cọp (tiền giấy 500 đồng), bọn chúng cho mẹ tôi vào thăm ông.

Ba tôi nói, ông phải giả bệnh để ra gặp được vợ con (ông có nghề y mà), nhưng phải tốn tiền nhiều. Ông khuyên mẹ tôi đừng nghĩ ngợi chi nhiều về ông, cứ lo làm ăn buôn bán nuôi con, bọn chúng bắt ba tôi đi là do bị khai báo, cơ sở nuôi cán bộ cộng sản nhà tôi đã lộ. Điều may là tối đó chúng không bắt quả tang ông sáu Hưng tại nhà, nên chúng không có bằng chứng để buộc tội ba tôi, nhưng chúng vẫn giam giữ để điều tra. Đã vào tay cảnh sát rồi, không tội này thì cũng tội khác, nặng hay nhẹ thôi. Thời nào cũng vậy. Ba tôi cũng chưa biết người ta sẽ nhốt ông ở đâu sau này nữa. Mẹ tôi dúi cho ông một số tiền. Ông đề nghị xin bà ngoại tôi nghỉ bán hàng để về với mẹ con tôi. Đi học về nghe tin, tôi cũng ra bệnh viện, nhưng không gặp được. Người ta đã giải ba tôi đi từ lâu rồi.

Vài hôm sau ngày cha tôi và anh Lương bị bắt giải đi trong đêm ngày 12 ấy, tại ngã tư Lê Đình Dương - Triệu Nữ Vương, những chiếc xe GMC của cảnh sát dã chiến, cảnh sát áo trắng và quân cảnh vây chật đường, người ta đang tìm bắt đượng Sỏ tôi tại nhà mẹ của dượng, bà ba Sự ở ngay trong khuôn viên Miếu xóm, nhà cách ngã tư mấy căn; và bên kia đường Lê Đình Dương, ngay ngã tư, cảnh sát cũng đang lùng xục ông Toại.

Khói lựu đạn cay bay mù mịt. Cảnh sát dã chiến và quân cảnh trước khi kéo đến đây, chúng đã lục tung nhà dượng Sỏ, cái hầm bí mật hai ngăn được ngụy trang sau bụi tre đã bị bọn chúng khui lên trống hoác. Cảnh sát dã chiến sau khi lùng sục hai người không ra, chúng kéo đến đây. Chúng đeo mặt nạ heo chống độc, rồi tung lựu đạn cay xuống đường cống bởi cho rằng dượng Sỏ và ông Toại trốn dưới ấy.

Dượng Sỏ tôi trốn dưới ấy thật, thoát khỏi hầm bí mật ông chạy đến đây, kịp báo tin cho ông Toại tẩu thoát, phần ông chui xuống đường cống nấp. Nhưng do hít nhiều khói cay, ông không chịu nổi, phải bò lên, đến đoạn cống hở, ông lịm đi. Cảnh sát dã chiến ùa lại còng hai tay ông ra phía sau và khiêng vất ông lên xe GMC như một khúc gỗ. Chờ một thời gian sau không tìm thấy ông Toại bò ra, chúng biết ông không có ở đó nên cả bọn kéo nhau chạy đường Lê Đình Dương về hướng bờ sông.

Tội nghiệp dì sáu Chát tôi! Nghe được tin, bà chạy xuống để theo xe, coi chúng nó chở dượng Sỏ về đâu, làm sao bà chạy kịp chiếc GMC tăng ga chạy lên hướng Trương Nữ Vương qua bên kia ngã tư Quân đoàn. Bên kia ngã tư Quân đoàn đi Cẩm Lệ, thời đó nhà cửa rất thưa thớt, tre mọc um tùm, dân cư ở đây không nhiều.
Về ông Toại, sau ngày ra tù, gặp lại mới biết ông bị đón lỏng giữa đường bởi một tay chỉ điểm trong lúc tìm đường thoát thân ra chiến khu, ông cũng bị kêu án như ba tôi và cũng bị đày ra Côn Đảo.

IMG_3305

Di tích nhà tù Phú Hải tại Côn Đảo - nơi giam cầm  ba tôi (nguồn: LMQ chụp 2012)

May mà cậu Thái không hề hấn chi cả, vỏ bọc của cậu còn y nguyên. Một cảnh sát viên hào hoa, chưa có vợ, có nghề tay trái làm nữ trang vàng và bạc giàu có.

Từ ngày chồng bị bắt đi, một tay dì sáu Chát phải nuôi năm đứa con, lên nhà thăm chơi, tôi thấy bọn em lúc đó vẫn còn nhỏ, ăn cơm chan nước mắm, tội nghiệp. Nhà cửa trống quơ trống hoác, trong khi ấy dì Sáu đội đơn đi hỏi khắp nơi và van vái tứ hướng, nghe chỗ nào linh thiêng bà cũng đến đó cúng bái, hỏi tông tích của chồng. Mẹ tôi và mấy dì thương tình giúp đỡ bà nhiều. Mãi sau đến năm 1975, bao nhiêu người tù tội cũng đã trở về, những người tập kết ra Bắc cũng đã có tin trở về. Lúc ấy, bà mới biết chắc chắn chồng đã mất rồi, bà lấy ngày bị cảnh sát chở đi làm đám giỗ.

Cách đây khoảng 15 năm có một người tên Chiến, gọi là nhà ngoại cảm, ông này có tài tìm mộ người mất tích rất giỏi. Dì Sáu Chát và các con có tìm đến nhờ. Theo ông này cho biết, dượng Sỏ tôi chỉ bị ngất đi khu khiêng lên xe GMC, nhưng cảnh sát thấy ông nằm im lìm cứ ngở đã chết rồi, chúng cho xe chạy qua phía Hòa Cường, vất ông xuống xe bên một bụi tre rậm rạp, sau khi quay xe về, bọn chúng đã không quên cho ông một tràng đạn AR15. Dân cư ở đây cảm thương đã mang ông vào gò đất bên trong chôn cất cho ông.

Sau 1975, chính phủ có chủ trương giải tỏa nghĩa trang để làm khu tập thể, gọi là khu tập thể Hoà Cường, ngôi mộ ông được người dân khai báo, ban giải tỏa mang ông về chôn ở nghĩa trang Liệt Sĩ thành phố Đà Nẳng tại Hòa Khương, cách Đà Nẵng 25 cây số. Dì Sáu tôi nghe theo lời ông, lên nghĩa trang, theo bản đồ ông chỉ dẫn và tìm  thấy mộ chồng, không những một mình dượng Sỏ nằm ở đây mà còn biết bao liệt sĩ vô danh nữa. Theo bản đồ chỉ dẫn của ông Chiến, dì chỉ biết nhìn vào đó mà nhận mộ chồng. Biết làm sao bây giờ! Sau năm 1975, dượng Sỏ tôi được phong liệt sĩ và bà ba Sự được phong Mẹ Việt Nam anh hùng, mỗi tháng được lãnh lương và cả tiền tử tuất của dượng Sỏ nữa, một số tiền chỉ đủ mua gạo.

Cái khuôn viên đất có Miếu xóm, chỗ cảnh sát và quân cảnh khi xưa đến truy lùng ông được ủy ban thu hồi bán cho hợp tác xã cơ khí ô tô. Hợp tác xã ủng hộ cho bà một số tiền rồi mua luôn căn nhà của bà. Diện tích Miếu xóm khoảng 700 mét vuông, thuộc phố Hải Hạc cũ, khuôn viên được giao cho vợ chồng bà ba Sự trông coi. Chính quyền cắt một mảnh nhỏ cho gia đình ông ba Sự làm nhà ở riêng để tiện việc trông coi và hương khói nơi miếu. Em trai cả ông ba là chú Tám Thuận, ngoài việc nhang khói ở miếu phường còn kiêm nhiệm thêm công việc vác loa thông tin cho phường xóm. Chú Tám vác cái loa gò bằng tôn đi khắp phường: “A lô! A lô! Đồng bào nghe đây, nghe đây…”. Chú truyền đạt những thông tư, nghị định của chính phủ đến đồng bào. Giờ rảnh chú uống rượu, cái quán tạp hóa của bà sáu Tẹt đường Lê Đình Dương có rượu Sica cho chú.  

Tại khuôn viên Miếu xóm hồi còn nhỏ tôi còn nhớ tiếng trống, tiếng chiêng vang lên ì ầm xuân thu nhị kỳ cầu quốc thái dân an. Nay được thay bằng những tiếng gõ của búa vào tôn sắt gò thùng xe ầm ĩ suốt ngày, náo động cả một khu vực thời gian dài. Bà ba Sự lại quay về xóm Tân Thành, mua đất của bà năm Lý sau nhà ông ngoại tôi để làm nhà, ở gần cháu nội, cách một hàng rào, tức là mấy đứa em con dì sáu Chát tôi. Khuôn viên hợp tác xã  làm ăn một thời gian, thành phố có chủ trương di dời những cơ sở làm ăn ồn ào ra khỏi thành phố, và hợp tác xã này được đem ra bán với số tiền khổng lồ.

Qua nhiều lắt léo quanh co, miếng đất của Miếu xóm được hóa thân tài sản thành tài sản của ủy ban và được rao bán. Một doanh nhân mua lại, đập phá đi, mở quán billard máy lạnh cho thanh niên có tiền đến giải trí. Cái vụ bán hợp tác xã này kiện tụng suốt mấy năm giữa các xã viên, nhưng rồi nay cũng đã vào đó. Đám cháu nội bà ba Sự nhìn lại khuôn viên này chỉ còn nuốt nước miếng. Cũng đành chịu thôi bởi bà ba Sự đã đồng ý nhượng lại cho hợp tác xã từ đời nào có chứng cứ giấy tờ hẳn hoi.

Phần anh Lương tôi sau khi bị bắt với ba tôi, bị mang xuống nhốt ở Ty Cảnh sát Gia Long, cảnh sát tra hỏi đủ chuyện, hỏi về ông sáu Hưng, về dượng Sỏ hỏi về những công việc đáng nghi ngờ. Anh chẳng biết gì cả, sau một tuần tra hỏi chẳng tìm được cái gì, anh được thả ra về đi học lại. Có thể nói rằng: Người ta không thể khai những gì mà người ta không biết.

Phần ông Sáu Hưng, ông Hồ Nghinh, Trần Thận... may mắn được những cơ sở chưa bị bại lộ đưa về căn cứ an toàn.

Ở đâu có xác chết, ở đó có chim kền kền. Ba tôi mới bị bắt vào tù chứ chưa chết, vậy mà lũ kền kền muốn lao vào rỉa xác. Mẹ tôi một thân một mình lo buôn bán nuôi tám đứa con, chồng lại bị bắt đi tù không biết nhốt ở đâu để đi thăm nuôi. Rất nhiều người thân đến thăm hỏi và gợi ý giúp đỡ. Mẹ tôi nhớ mãi và sau này có dịp nhắc chuyện cũ bà hay kể lại cho anh em tôi nghe. Ông Song T. là một người mẹ tôi biết hồi còn sống trong vùng tự do thời chín năm. Y còn có là tên gọi là S. làm nghề chạy xe tải hàng, về già nghiện nhai trầu bỏm bẻm, khuôn mặt lúc nào cũng hồng hào, tươi đẹp và sang trọng. Y gá nghĩa với bà Th., một người quen thân với mẹ tôi và nhỏ hơn mẹ tôi ba bốn tuổi. Chị em hồi ở vùng tự do có giao du và làm ăn buôn bán với nhau rất thân thiết.

Y tìm đến mẹ tôi, khoe có quen đường dây của Ty Cảnh sát Đà Nẵng, có thể lo lót cho ba tôi được tự do. Lý lẽ y đưa ra nghe cũng khá hợp lý: Ba tôi bị bắt, ở nhà không có tài liệu, và không chứa ông Sáu Hưng trong nhà, vậy ba tôi chỉ bị quy vào danh sách tình nghi chứ không phải tội phạm. Y bảo có thể nhờ người làm hồ sơ cải tội danh. Y bảo rằng va tôi đang bị nhốt ở nhà giam bí mật. Nếu mẹ tôi đồng ý lo chạy chọt, y có thể dẫn bà đi thăm.

Mẹ tôi, lòng đàn bà dạ con nít, không biết bấu víu vào đâu, bà rất tin và trao cho y 10 lượng vàng.

Ngày đi thăm đợi hoài chẳng thấy, mẹ tôi cũng không gặp được mặt y, bà cho người chở lên nhà suốt bao lần mà đành chịu, không gặp được. Bà Th. hiểu rõ chồng hơn ai hết. Bà thú thật, chồng của bà chỉ dụ dỗ, nói ngon nói ngọt với mẹ tôi để lấy tiền tiêu xài. Bà Th. năn nỉ mẹ tôi cầm lại 5 lượng vàng, chỗ tình nghĩa năm xưa không thể nào bà không trả lại số vàng trên cho mẹ tôi, còn lại 5 lượng bà xin khất sẽ trả dần dần cho hết. Mẹ tôi biết làm sao hơn, vàng đưa ra không có một mảnh giấy làm bằng, biết kiện tụng ai? Từ ngày nhận lại 5 lượng vàng, bà Th. không dám gặp mặt mẹ tôi nữa, vậy là 5 lượng vàng đi đong.

Khi ba tôi ở tù về, mẹ tôi đối chiếu lại thời gian, lúc y S. bảo ba tôi còn bị nhốt ở Đà Nẵng là lúc ông đã ra ở tù ngoài Côn Đảo đã được ba tháng.

IMG_3312

Di tích nhà tù  Côn Đảo - nơi giam cầm  ba tôi (nguồn: LMQ chụp 2012)

Chuyện thật này khiến tôi nhớ lại câu truyện ngụ ngôn: Có một con chim bị giá rét, không bay nổi, rơi xuống cánh đồng, một con bò vô tình đi ngang qua phủ đống phân bò lên mình nó, nhờ hơi ấm và con chim hồi tĩnh. Chưa kịp hoàn hồn, một con mèo đánh hơi được con chim, con mèo tìm đến lôi lên xé xác ăn thịt. Câu chuyện ngụ ý là không phải ai muốn lôi mình lên khỏi đống phân là tốt với mình.

Còn những kẻ đã đến lợi dụng gia đình tôi có ai nữa? Mẹ tôi nói lại, nhiều lắm, kẻ vài chục ngàn, người vài chỉ vàng, nhớ không xuể và không đáng kể, đáng nhớ. Nhưng rồi cuối cùng số phận của họ cũng chẳng ra gì.

Đời là thế.

Mãi hơn một năm sau, ba tôi gởi thư về, ông bị nhốt tận đảo Côn Sơn, bị buộc tội phá rối an ninh trật tự, án kêu hai năm tù. Bìa thư khi nhận có dán lại cẩn thận, ngoài con tem ra, phía ngoài tôi đọc được hàng chữ in: “Đã kiểm duyệt” đỏ chót. Nội dung thư chỉ thông tin khoẻ mạnh, khuyên các con ăn học và có nhắn nhủ tôi nên “cai quản” đám em kỹ hơn như tôi đã được giao trọng trách này trước đây! Tôi thật sự là hung thần của đám em tôi! Và tôi trở thành thư ký cho mẹ tôi phúc đáp mỗi khi có thư từ Côn Đảo về. Nhận được thư báo bà ngoại tôi đã nghỉ bán ở chợ Cồn về ở với mẹ con chúng tôi, ông rất vui. “Con Năm (mẹ tôi) tội nghiệp, để mệ về ở với hắn cho vui nhà, chồng bị tù đày, một tay 8 đứa con, mệ coi ngó mấy đứa giùm. Chứ già rồi buôn bán cho vui thôi chứ có lời lỗ chi bao nhiêu”. Bà ngoại thường nói vây.  Ba tôi rất mang ơn bà về quyết định này.

4dadscd

Bà ngoại và mẹ con chúng tôi năm 1968


Ngày ba tôi ra tù

Ba tôi thụ án ở Côn Đảo hai năm, nhà tù cũng là trường học. Án tù đã chịu lãnh thời gian dài, ông được nới lỏng cho ra ngoài và được giao việc ở tạm y tế nhà lao. Ba tôi có nghề y nên có phần ưu ái. Ở tù với cơm hẩm gạo thiu, tù nhân bị bệnh trĩ rất nhiều. Ông tự tìm tòi học hỏi, xin được thuốc về để chữa bệnh trĩ cho bạn tù và đã làm nên kỳ tích.

Phương pháp của ba tôi, ông gọi là thắt múi trĩ. Ông bôi một loại thuốc gì đó, tôi quên mất tên, khi bôi thuốc này vào, hậu môn sẽ mở rộng ra, những búi trĩ bị lôi nằm ra bên ngoài, rồi chích thuốc tê trực tiếp vào đó. Ba tôi lại lấy chỉ nilon nhà binh cột chặt nó từ gốc, làm cho búi trĩ vỡ ra bằng cái pan y tế. Sau đó, bôi nitrat bạc vào, nitrat bạc sẽ ăn mòn dần búi trĩ này; rồi lại bôi một loại thuốc nữa cho hậu môn co trở lại vị trí ban đầu. Mỗi ngày ông cho bôi nitrat bạc một lần, tùy theo búi trĩ nhỏ lớn, thời gian cũng khoảng độ nửa tháng là lành hẵn.

Năm 1970, ba tôi ra tù và ông trở thành người chữa bệnh trĩ nổi tiếng ở Đà Nẵng dạo ấy. Tiếng lành đồn xa. Nhiều cas bệnh nặng phải nằm lại ăn ngủ nhà tôi hằng tuần.  

"Sau Tổng tiến công Mậu Thân, Quân Giải phóng bị đẩy ra xa và suy yếu trầm trọng  Các đơn vị quân sự chịu thương vong lớn, các lực lượng chính trị bị bộc lộ và bị triệt phá gần hết, thương vong cao hơn hẳn những năm trước. Thậm chí đã có ý kiến trong giới lãnh đạo Quân Giải phóng là cho giải tán các sư đoàn, trung đoàn chính quy quay trở về lối đánh du kích. Họ không còn khả năng đánh lớn tại miền Nam và phải rút lui về các chiến khu tại vùng nông thôn, miền núi hoặc đi ẩn náu tại bên kia biên giới Lào và Campuchia, phải 3- 4 năm sau lực lượng của họ mới hồi phục lại được. Trong các năm sau Mậu Thân, từ 1969 đến 1971, là thời gian Quân lực Việt Nam Cộng hòa chủ động tiến công lùng đánh Quân Giải phóng, triệt phá phong trào chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ở nông thôn và thành thị. Đó là cơ sở để giới quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng hòa cho rằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã thất bại"(Wikipedia.org/chiến tranh Việt Nam).

Có thật như Wikipedia nhận định như trên không, chúng ta thử đọc một bài báo nói về giai đoạn này.

"Phát huy thắng lợi trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao trong hai năm 1970 - 1971, quân giải phóng đã quyết định mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam trong năm 1972.

- Ngày 30/3/1972, quân giải phóng tấn công vào Quảng Trị, Từ đó mở rộng tiến công ra khắp chiến trường miền Nam và kéo dài trong năm 1972.

- Trong năm 1972, Quân giải phóng đã tấn công địch trên quy mô lớn với cường độ mạnh và ở hầu hết các địa bàn chiến lược quan trọng của Việt Nam Cộng Hoà ; chọc thủng 3 tuyến phòng thủ mạnh nhất của địch ở Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.

- Trong 3 tháng đầu, quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến hơn 20 vạn quân Việt Nam Cộng Hoà , giải phóng một vùng lãnh thổ rộng lớn với hơn 1 triệu dân.

- Sau đòn tấn công bất ngờ của quân giải phóng , quân Việt Nam Cộng Hoà được sự yểm trợ của không quân và hải quân Mỹ đã phản công mạnh, gây cho quân giãi phóng nhiều thiệt hại. Đồng thời, Mỹ cũng tiến hành ném bom và bắn phá miền Bắc trở lại.

- Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 cho thấy, quân Việt Nam Cộng Hoà với quân số hơn 1 triệu được trang bị hiện đại vẫn không đủ khả năng để “tự đứng vững” và “tự gánh vác lấy chiến tranh” khi quân viễn chinh Mỹ rút lui. Trước tình thế đó, Mỹ đã tuyên bố “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh – tức là thừa nhận sự thất bại của Việt Nam hóa chiến tranh" (Theo: tuoitrebentre.com).

Khi ba tôi trở về từ Côn Đảo, mẹ tôi làm lại nhà. Mẹ tôi quyết định làm nhà lầu là để cho bà con thiên hạ biết về sự giỏi giang của bà, dù cho chồng ở tù nhưng một thân một mình bà vẫn ăn nên làm ra, nay có tiền xây nhà lầu, và thêm một ý nữa là để cho địch không dòm ngó vào gia đình tôi nữa. Mẹ tôi bắt chúng phải suy nghĩ là cha tôi đã bỏ ý định tham gia giúp đỡ quân giải phóng, bởi ông đã chí thú làm ăn và xây nhà lầu, hưởng hạnh phúc bên vợ con. Chí thú làm ăn!

7f3ascd

Các em tôi thời gian ba tôi bị tù Côn Đảo

Căn nhà ngói hai gian bị đập bỏ phần trước, đúc lên ba tấm bê tông, cái đường luồng đi ra nhà sau cũng được đúc nốt. Vậy là căn nhà của chúng tôi trở thành một căn nhà lầu ba gian, ba tầng. Ai ai trong gia đình cũng nuối tiếc về căn nhà ngói cũ của gia đình tôi, nhất là cậu Thái, cậu nói: “Chị Năm quá phí phạm, cái nhà còn mới quá mà đập ra xây lại, căn nhà ngói mới xây được 10 năm”.

Căn nhà lầu đúc này mẹ tôi phải bỏ ra ba trăm năm mươi lạng vàng. Một số tiền quá lớn. Một chiếc xa Honda thời điểm đó chỉ trị giá ba lượng vàng.

Căn nhà lầu xây xong cha tôi ở chưa được bao lâu, năm 1971 một người của Mặt trận Dân tộc Giải phóng lại tìm đến, N.T.K thay cho ông sáu Hưng đến liên lạc với ba tôi để nối kết hoạt động lại. Dượng Sỏ tôi đã bị bắn chết ở Hòa Cường nên cậu Thái tôi được thế vào vị trí. Dòng máu muốn thống nhất vẫn chảy trong cha tôi.

Năm 1972,  N.T.K bị bắt, vào tù bị đánh dã man quá không thể nào không khai ra ba tôi. Thời gian này tôi phải học để thi tú tài nên không biết chức vụ của N.T.K là gì? Tôi nay cố tìm tài liệu để hiễu thêm nhưng không biết nằm ở đâu. Lại một lần nữa ba tôi bị bắt giam.

Lần này chúng bắt giam ông tại Kho đạn đường Đào Duy Từ, cậu Thái cũng bị bắt vào đây, hai anh em gặp nhau trong tù. Cậu Thái là Việt cộng  nguy hiểm, là cảnh sát viên của Việt Nam Cộng hòa nhưng lại làm nội tuyến  cho cộng  sản, với nhiệm vụ vẽ bản đồ ty cảnh sát Gia Long gởi lên căn cứ! Thời gian này, các anh em trong phong trào đấu tranh SVHS như Nguyễn Công Khế, Nguyễn Thanh Tịnh (sau năm 1975 là Tổng và Phó tổng biên tập báo Thanh Niên)… cũng ở tù chung.

Ngày đó, N.T.K, ba tôi và cậu Thái cùng nhiều người nữa bị đưa ra Tòa án quân sự lưu động. Tòa án này được thành lập tại Sài Gòn, thời gian xét xử diễn ra trong ngày, không thể nào nói chuyện chạy chọt ở đây cả, ba tôi lại bị  kêu án 1 năm tù giam, cũng với tội danh phá rối an ninh trật tự. Ngày ra tòa, tôi có nhận ra  N.T.K dù bị đánh ghê lắm, cái mặt sưng to gấp rưỡi bình thường.

Tôi chỉ đứng ngoài nhìn xe tù chở ba tôi và mấy người nữa bị còng tay giải vào vành móng ngựa. Quân cảnh và cảnh sát đông dày, tôi không thể nào vào được bên trong nghe xử án. Tòa xử tập thể chóng vánh, sau đó tất cả bị còng tay và đưa lên xe bịt bùng về trại giam. Ba tôi nước da có vẻ như tái đi, màu trắng bủng và ốm hơn khi ở nhà, cậu Thái hồng hào hơn. Cậu Thái chưa có vợ và rất lạc quan, vào tù rồi còn lo gì nữa? Cứ ăn ngủ thoải mái. Cậu không lo cho bản thân và ngoài ra cậu chẳng còn lo cho ai nữa. Ông bà ngoại tôi đã quá vãng hết rồi.

Sau năm 1975, N.T.K có đến nhà xin lỗi vì bị đánh đập quá sức dã man, và cảnh sát có hình ảnh chụp trộm Kháng đi cùng ba tôi nên không thể quanh co chối tội được. Và cậu Thái khi ra tù đã xác nhận, chính cậu, khi ngồi nói chuyện ngoài hàng hiên ở nhà ông ngoại tôi với K. khoảng 5 giờ chiều, có thoáng thấy một bóng người đi vào lối nhà bà năm Lý, phía hông nhà chụp hình vào. Cậu không thấy đèn flash chớp, nhưng khi bị cảnh sát trưng bằng cớ cậu thấy hình mình và N.T.K rất rõ. Rồi thời gian ngắn sau cho đến bây giờ, tôi không còn gặp lại N.T.K nữa.

ad5dscdm

Ba mẹ tôi - ảnh chụp sau ngày ba tôi ra tù

Năm 1973, tôi vào Sài gòn ghi danh học Đại học Luật khoa, ba tôi vẫn còn trong tù. Tôi còn nhớ những năm tôi còn học trung học, tình hình chiến sự khắp miền Nam từ vỉ tuyến 17 tỉnh Quảng Trị trở vào đến tận Cà Mau rất khốc liệt, bọn nam sinh chúng tôi được tính tuổi đi quân dịch theo năm học. Đến 18 tuổi là phải đậu Tú tài 1 và năm sau phải đậu tú tài 2, và năm sau nữa phải vào đại học. Tòa thị chính thị xã Đà Nẵng sẽ cấp cho một tờ giấy gọi là “Giấy hoãn dịch vì lí do học vấn”. Nếu anh nào bị ở lại một năm là phải đi lính.

Tôi cùng những người đồng cảnh ngộ, bị khuyết tật một phần thân thể năm 1972 đúng tuổi đi quân dịch, cũng phải vào Trại Nhập ngũ để trình diện lấy “Giấy hoãn dịch vĩnh viễn” vì tàn tật hiển nhiên. Ở lại trong ấy một tháng, tôi lấy được giấy tờ sau khi ra hội đồng y khoa khám tuyển, rồi trở về đi học lại. Năm 1972 là năm khốc liệt nhất, bạn bè cùng trường cùng lớp đi lính rất nhiều.

Căn cứ theo học vị, anh nào có bằng trung học sẽ đi vào trường hạ sĩ quan Đống Đa - Nha Trang; nếu không thì vào trường Đồng Đế, lăn lê bò toài ở quân trường 6 tháng, ra trường được gắn lon trung sĩ. Anh nào có bằng tú tài 1 được vào học trường sĩ quan Thủ Đức, thời gian huấn luyện 12 tháng, ra trường được gắn lon chuẩn uý. Anh nào có bằng tú tài 2 được vào học trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, trường này đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp, thời gian học 4 năm, ra trường được gắn lon thiếu uý. Hơn một cái bằng được gắn hơn một cái lon! Bằng Võ bị Quốc gia Đà Lạt tương đương với bằng kỹ sư.

Hồi ấy con đường vào đại học rộng thênh thang. Có một số trường của chính phủ đào tạo nhân sự cho quốc gia, sau khi ra trường được bổ nhiệm sở trên toàn miền Nam, muốn vào học mấy trường này phải qua một cuộc thi tuyển. Có thể kể ra mấy trường như sau Đại học Y khoa, Đại học Dược khoa, Đại học sư phạm (Huế và Sài Gòn ), Đại học Phú Thọ Sài Gòn (cơ khí). Đại  học Phú Thọ còn đào tạo hệ cao đẳng nữa, thời gian học 2 năm v.v… Còn Trường Đại học Quốc gia Hành chánh tại Sài Gòn, phải thi qua một cuộc thi  gọi thi concourt, có nghĩa trường chỉ nhận mỗi năm một sỉ số nhất định, sinh viên được lấy vào có điểm cao, tính từ trên xuống, chứ không phải thi tuyển chọn anh nào đủ điểm là được vào. Thi kiểu này rất khó, dù sức học cao thi có điểm trên trung bình, nhưng khi trường xét duyệt từ trên xuống có thể điểm của mình lại chưa đạt. Khi ra trường được bổ nhiệm chức vụ tương đương phó, quận trưởng. Học ở mấy đại học này ra sẽ được chính phủ bổ nhiệm sở, trở thành công chức, làm ăn lương và được miển quân dịch, khỏi đi lính.

hoc-sinh-truong-Sao-mai-DN

Học sinh trường sao Mai Đà Nẵng - tôi đứng góc trái (nguồn: internet)

Còn ngoài ra các trường đại học khác như Đại học Văn khoa, Đại học Luật khoa có thể đến ghi danh để học, khỏi thi tuyển. Trên là mấy trường đại học công lập. Ngoài ra còn một số trường đại học tư thục, sinh viên có thể đóng tiền vào để học như Đại học Vạn Hạnh, Minh Đức (Sài Gòn), Viện Đại học Đà Lạt... Năm 1974, mới mở Đại học Cộng Đồng tại Đà Nẵng. Tha hồ, muốn chọn trường nào thì chọn. Được vào học đại học là một niềm vinh dự cho bọn học sinh chúng tôi. Sỉ số sinh viên toàn miền Nam hồi ấy được thống kê chỉ có 200.000 sinh viên trên tổng số dân 23, 24  triệu dân miền Nam. Được vinh dự ghi tên vào sỉ số ít oi đó sao không hãnh diện cho được? Nhưng phải học hành siêng năng, mỗi năm một lớp, năm nào thi rớt là coi như tương lai cuộc đời được mấy trường sĩ quan quân đội đón nhận. A lê! Đi lính! Cho nên vì động cơ thoát khỏi đời lính nên sinh viên hồi ấy học hành rất chăm ngoan. Năm ấy tôi đậu tú tài 1 (1972). Tôi được ba mẹ thưởng cho chuyến đi Nha Trang chơi mùa hè năm đó, sướng ru.

Vào Sài gòn tôi liên lạc thường xuyên với gia đình bằng thư, biết rằng sau khi mãn hạn tù, hằng tháng ba tôi phải lên trình diện với chi cuộc cảnh sát và không được rời nơi cư trú.

"Hiệp Định Paris là hiệp định chấm dứt Chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. Lê Đức Thọ và Henry Kissinger, hai nhân vật chủ yếu trong cuộc đàm phán, đã được trao giải Nobel Hòa Bình năm 1973.

Hiệp định Paris là hiệp định được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ soạn thảo để đảm bảo cho việc Hoa Kỳ ra khỏi chiến tranh. Đối với Hoa Kỳ đây là cách họ ra khỏi cuộc chiến mệt mỏi này một cách chính đáng. Đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng thì hiệp định này là bước thứ nhất trong hai bước để đi đến thắng lợi cuối cùng. Đối với Việt Nam Cộng hòa thì hiệp định này là một tai ương lớn đối với chính thể của họ và đặt sự tồn tại của Việt Nam Cộng hòa trước một nguy hiểm trong một tương lai gần.

Từ cuối năm 1973, quân giải phóng đã đánh trả các cuộc “bình định lấn chiếm” của Việt Nam Cộng hòa để bảo vệ vùng giải phóng. Nhiều nơi còn tổ chức tấn công vào những căn cứ xuất phát các cuộc hành quân của đối phương mở  rộng vùng  giải phóng, củng cố thế chủ động.

Cuối năm 1974 đầu 1975, quân giải phóng mở hoạt động quân sự Đông - Xuân đánh vào hai hướng chính là đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ; giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long và đường 14 cùng với 50.000 dân và loại khỏi vòng chiến hơn 3.000 lính Việt Nam Cộng hoà.

Từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1975, quân giải phóng đã hợp nhất các sư đoàn chủ lực thành các quân đoàn lớn, chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam:
 

Tháng 10/1973 lập quân đoàn 1 đóng ở Bắc Bộ.

Tháng 5/1974 lập quân đoàn 2 đóng ở Trị Thiên.

Tháng 7/1974 lập quân đoàn 4 đóng ở Đông Nam Bộ.

Tháng 3/1975 lập quân đoàn 3 đóng ở Tây Nguyên.

Đồng thời với các hoạt động quân sự, quân dân miền Nam còn đẩy mạnh tấn công Việt Nam Cộng hoà trên các mặt trận chính trị, ngoại giao... Ở các vùng giải phóng, nhân dân tích cực khôi phục và đẩy mạnh sản xuất nhằm ổn định đời sống và tăng nguồn dự trữ chiến lược" (www.forum. suctre.net).

Đến cuối ngày 28 tháng 4 tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng tại tất cả các hướng, quân Giải phóng có thể đi ngay vào thành phố. Các lực lượng chính trị thứ ba dàn xếp để đưa Đại tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống trong ngày 28 tháng 4 năm 1975. Ngay khi nhậm chức để tiến hành đàm phán Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi "(www.wikipedia.org/hiệp định Paris).

Gia đình chúng tôi cũng không thoát khỏi sự khó khăn chung, công việc làm ăn buôn bán của mẹ và mấy dì tôi sa sút thấy rõ vào trong khoảng thời gian này. Mỹ đã cắt viện trợ quân sự, chỉ viện trợ nhỏ giọt để chính quyền Việt Nam Cộng hòa thoi thóp. Người Mỹ đã lần lượt rút quân, số đô la khổng lồ chi tiêu ở miền Nam không còn dồi dào nữa. Miền Nam hồi ấy sống hoàn toàn dựa vào tiền viện trợ Mỹ. Công nghiệp, nông nghiệp chẳng thể bù đắp vào đâu cho nền kinh tế. Xuất cảng lại chẳng có gì. Cuộc sống thật là bế tắt.

Những ngày ăn học ở Sài Gòn, ba tôi thường viết thư vào tâm sự, khuyên nhủ tôi cố gắng học hành thành tài hầu có thể cáng đáng gia đình sau này. Ông đánh giá tình hình kinh tế suy thoái này khó có thể gượng dậy. Phần anh Lương thi rớt tú tài hai, hết tuổi hoãn dịch vì lý do học vấn đã phải vào trường sĩ quan Thủ Đức rồi.

Hằng tuần được xe GMC chở mấy anh lên sài Gòn chơi vào mỗi chủ nhật. Xe thả anh và các bạn tại ngả tư Hiền Vương - Trương Minh Giãng. Cả đoàn cuốc bộ về chỗ tôi thuê nhà trọ học. Chúng tôi hồi ấy thuê nhà tại khu cổng xe lửa số 6, đường Trương Minh Ký - Gia Định. Chúng tôi chẳng có gì chiêu đãi sang trọng, chỉ có những bữa cơm trưa đạm bạc, rau muốn chấm chao hay chấm nước mắm ớt tỏi. Tiền cha mẹ gởi vào hàng tháng đủ chi tiêu. Nhưng tất cả bọn sinh viên xa nhà chúng tôi không có kinh nghiệm chi tiêu nên tháng nào cũng hụt cả. Anh em được gặp nhau suốt thời gian anh Lương có phép về Sài Gòn.

Lần cuối cùng gặp nhau, chúng tôi buồn lắm, không biết cuộc đời lính chiến sẽ đưa đẩy anh về đâu? Chỗ tôi trọ học có một sạp báo, hằng ngày chúng tôi ra đó đọc báo cọp, thỉnh thoảng gởi cho cô bán báo ít tiền gọi là, hồi ấy báo bán lẻ không hết được trả lại cho nhà phát hành. Qua tin tức báo chí, tim tôi se thắt khi nghĩ đến ngày anh Lương tôi phải bị đưa ra mặt trận. Quân giải phóng muốn nuốt chững miền Nam bằng cả quân sự lẫn chính trị, trong lúc anh Lương tôi đang đứng về phái đối nghịch! Đang học được những đứa bạn đồng môn Sao Mai của tôi tử trận của những khóa Thủ Đức trước, cả bọn rất đau buồn, lại càng gắng học hơn. Nhưng chúng tôi đâu có biết rằng mình đang học về môn Luật của một quốc gia đã bị khai tử ngày 27 tháng 1 năm 1973. Ngày Hiệp định Paris được ký kết !

"Đối với Việt Nam Cộng hòa thì hiệp định này là một tai ương lớn đối với chính thể của họ và đặt sự tồn tại của Việt Nam Cộng hòa trước một nguy hiểm trong một tương lai gần" (đã dẫn).

"Do kết quả của Chiến dịch Phan Rang - Xuân Lộc và các trận tấn công của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại đồng bằng sông Cửu Long, đến ngày 25 tháng 4 năm 1975 Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã mất hầu hết các vị trí then chốt trong tuyến phòng thủ từ xa quanh Sài Gòn. Thành phố lúc này trở thành một ốc đảo chỉ còn giao lưu với bên ngoài bằng đường không. Tuy nhiên, đến ngày 26 tháng 4, các hãng hàng không nước ngoài đã đổi hướng tất cả các chuyến bay quá cảnh Tân Sơn Nhất và hủy bỏ hầu hết các chuyến bay đến và đi từ Sài Gòn. Đại sứ quán các nước lần lượt đóng cửa, hạ cờ. Theo mô tả của nhà báo Pháp Paul Drayfrus, thành phố này đã gần như điên loạn và đang chứng kiến sự kết thúc của một chế độ .

Sau khi tiêu diệt cụm chốt cuối cùng của QLVNCH tại cầu Thị Nghè gồm 4 xe tăng và 6 lô cốt chỉ trong vòng 15 phút, tiểu đoàn xe tăng 1 (lữ đoàn 203) đã tiếp cận cổng Dinh Độc Lập qua ngả Thảo Cầm Viên. Xe tăng 843 lao vào húc cánh cổng phụ bên trái của dinh nhưng bị kẹt lại. Còn xe tăng 390 húc đổ cánh cổng chính và tiến vào sân Dinh Độc Lập. Đại đội trưởng Bùi Quang Thận ra khỏi xe 843, lấy lá cờ trên xe của mình đem vào treo lên cột cờ trên nóc Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút.

Sau này, khi trả lời phỏng vấn của một số nhà báo tại Sài Gòn về quyết định đầu hàng ngày 30 tháng 4 của mình, ông Dương Văn Minh cho rằng: Sài Gòn và xã hội miền Nam đã mục ruỗng, nhất là càng về cuối thì tình hình càng trở nên hỗn loạn, không sao kiểm soát được... Trước sức mạnh vũ bão của Quân giải phóng, Quân lực Việt Nam Cộng hòa không còn đủ sức chống cự, chỉ có quyết định đầu hàng không điều kiện là điều hợp thời duy nhất mà thôi"  (đã dẫn).

Một đất nước bị thất trận, mọi bộ máy chính quyền tự nó vô hiệu. Tất cả mọi hoạt động xã hội ngưng. Trường đại học đóng cửa. Tôi tìm đường về Đà Nẵng bỏ lại Vĩnh - em kế khi ấy cúng đang học thi tú tài ở đây. May mà sau thời gian ngắn Vĩnh cũng về lại nhà, chứ có chuyện gì không hay xãy ra, tôi ân hận suốt đời. Trong thâm tâm cứ nghĩ là về nhà xin tiền vào lại dắt Vĩnh ra. Một mặt tôi bán chiếc xe Suzuki được 10 ngàn, thằng Long nùng nhận tiền giùm, nhưng không đưa lại cho Vĩnh. Sau này thằng Long nùng bị xe tông chấn thương sọ não và chết sau đó.

Tôi đi từ Sài Gòn về Đà Nẵng không có một đồng, chỉ một ít tiền lẻ ăn đường qua ngày, mọi phương tiện đều xin quá giang. Về đến Quảng  Ngãi, vào nhà máy đèn tìm cậu Bảo để xin tiền xe về Đà Nẵng, nhà cậu không còn lấy một đồng, cậu làm nhà máy đèn chỉ nhận hằng tháng một bao gạo! Lính nghĩa quân địa phương Việt Nam Cộng hòa gác nhà đèn hồi trước cũng đã bỏ chạy hết rồi, mợ tôi còn bị mất một số tiền cơm tháng với họ! Mãi hơn một tuần sau, cậu mợ mới tìm ra cho tôi mấy trăm để đi xe đò về. Về đến nhà chưa kịp mừng đã bị ba tôi mắng té tát vì tôi đã bỏ Vĩnh lại Sài Gòn.

Văn chương chữ nghĩa chẳng hay
Trở về làng cũ học cày cho xong

Tôi ban ngày ra chợ Cồn để phụ với mẹ tôi, bấy giờ chúng tôi đang sống dưới chế độ quân quản của chính quyền mới. Công việc làm ăn của dân thường vẫn tiếp tục như cũ, xã hội thay đổi dần dần. Tôi ra chợ được dượng mười Xin chồng dì Hiền và cậu Thái chỉ cho cách làm nữ trang. Đây là một công việc thủ công , nhìn qua là tôi đã biết làm, cái khó của nghề đã có hai người trên chỉ dẫn, tôi thành nghề rất mau.

Thời gian này nghề vàng làm ăn lại trở nên phát đạt, người người bán vàng để làm lộ phí quay về quê cũ, người làm ăn có tiền chỉ chí thú sắm vàng để phòng thân, chứ đồng tiền của chính quyền cũ không biết mất giá trị hồi nào không hay. Ác hơn nữa là có tin đồn thất thiệt, nhà nước sẽ có cuộc tổng kiểm kê toàn dân, ai có vàng lá sẽ bị tich thu, vàng nữ trang thì khỏi bị, vậy là bao nhiêu vàng lá của dân mang ra làm nữ trang tất, tiền công làm nữ trang rất cao, chỉ có làm nhẩn tròn là rẻ nhất và tiện dụng. Vậy là tôi phải làm việc suốt ngày, làm nhẩn tròn ròng rã mấy năm, mỗi ngày qua tay tôi đập gõ phải 5 lượng vàng, tiền công thu được bằng mua 1 chỉ vàng! Thời gian ấy cán bộ công nhân viên nhà nước lương cũng chỉ khoảng trên dưới một chỉ vàng! Tất cả tiền làm được tôi giao hết cho mẹ tôi, ba tôi rất hài lòng về tôi thời gian này.

Với trình độ học vấn của tôi lúc ấy, tôi còn tìm hiểu để làm thêm phân kim, một cái nghề cho lợi nhuận rất cao. Tôi tinh luyện lấy vàng thật và bạc ròng những hợp kim có vàng, có bạc. Cũng biết rằng vàng đi vào công nghiệp chiếm tỉ lệ rất cao, khoảng 20% sản lượng trên toàn thế giới, những người của chính quyền cũ biết vàng nằm ở đâu trong những thiết bị chiến, họ lùng xục đi tìm, đào bới khắp mọi nơi về bán lại cho tôi để tôi phân kim lấy vàng và bạc.

Thời gian này ba tôi tiếp quản chính quyền. Ông bận bịu suốt ngày đêm với công việc, chính quyền mới còn sơ khai, cho nên ông không có thời gian ngưng nghỉ. Ông được đề cử làm khối trưởng, phường tôi có bốn khối. Mẹ tôi cũng vậy, bà lại sinh hoạt với chính quyền mới bên hội phụ nữ. Bà tự hào là cựu hội viên Hội phụ nữ Cứu quốc thời chống Pháp ở Cây Sanh - Tam Kỳ. Buổi tối đi làm về tôi phải sinh hoạt với đoàn thể thanh niên.

Sinh hoạt cái gì? Ra hội trường ngồi nghe cán bộ ở trên về dạy chính trị! Ra để nghe về cuộc chiến thắng vĩ đại năm 1975. Nghe về viễn tưởng tương lai tốt đẹp khi nước nhà đã thống nhất và tiến lên xã hội chủ nghĩa. Tôi đã làm ăn có tiền, tôi cứ ngỡ tình hình mãi tiến triển thế này, chủ nghĩa xã hội không chóng thì chày chúng tôi sẽ đi đến đích, lòng tràn ngập phơi phới tình yêu Tổ quốc, một Tổ quốc thống nhất đang đi lên chủ nghĩa xã hội.

Gia đình tôi đang phơi phới đi lên con đường xã hội chủ nghĩa đúng như lời cán bộ truyền đạt vào những đêm sinh hoạt thanh niên.

Đùng một cái.



Đổi tiền và cải tạo công thương nghiệp

Cả nhà ngốn nháo, cả khối nhốn nháo, cả phường nhốn nháo, và đâu đâu cũng thấy người ta nhốn nháo!
"Vào ngày 2/9/1975: Ở Miền Nam, đổi tiền của chính quyền Sài gòn cũ bằng tiền Giải phóng theo tỷ giá 500 đồng tiền cũ = 1 đồng tiền mới giải phóng. Có phát hành thêm các loại tiền: 10 xu, 20 xu, 50 xu và 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 50 đồng" (http://www.vi.wikipedia.org/wiki/thảo -luận:Đồng- (tiền).

Trời ơi là trời 500 đồng đổi còn 1 đồng? Đồng tiền Cách mạng to vậy sao? 1 ăn 500. Vậy chúng ta giàu to rồi. Chỉ cần vài chục đồng là có thể mua được một chỉ vàng, xe Honda đang xuống giá, 50 đồng là mua được một chiếc! Cơm gạo chỉ tính bằng xu thôi, đúng là Cách mạng đã đem lại sự ấm no hạnh phúc cho nhân dân.

Cả nhà tôi vui mừng khôn xiết, đến ngày đổi tiền mới hay, mỗi gia đình chỉ đổi được 150.000 đ. Số tiền còn lại phải gởi vào tiết kiệm ở ngân hàng, khi nào gia đình cần chi tiêu, viết đơn lên ủy ban nhân dân phường xác nhận, ngân hàng sẽ cho nhận và trả thêm tiền lãi!  Ngân hàng sẽ xem xét từng trường hợp cụ thể và cho rút lại số tiền tiết kiệm phù hợp. Nhà nước lo cho dân từng xu vậy còn gì hơn nữa! Nhưng lúc này ba tôi bảo rằng: “Tiền nong do mình làm ra, ngân hàng nhà nước xét cho chi tiêu thì mới cho rút tiền. Thế  còn thể thống gì, thể thống gì nữa?”. Than ôi, tất tật cả nhà tôi chỉ đổi được 300 đồng, 10 người tất cả, vị chi không kể lớn hay nhỏ, mỗi người 30 đồng, trong thời giá ấy lương nhân viên nhà nước 48 đ, mỗi nhân viên được đỗi 100 đ.

Vậy sao không chịu vào làm nhà nước nhỉ? Người của nhà nước được ưu ái trăm bề. Theo nhà nước quyền lợi được hưởng gấp đôi dân thường. Làm sao để lọt chân vào?

Vậy là ba tôi chạy tứ tung để xin anh Lương vào làm thủy lợi, những người quen thân trong kháng chiến nay trở về thành phố công tác giúp đỡ cha tôi. Công việc hằng ngày đi đo đạt mức nước lên xuống của sông Thu Bồn tại Đại Lộc. Vĩnh cũng được xin vào ở đài thủy tượng thủy văn. Học mấy tháng sau được đổi về làm tại trạm thủy văn Tam Kỳ. Tôi vào lại Sài gòn một năm sau đó để thi vào lại Đại học Tổng hợp. Ngày thi, tôi nhận được một cái đề văn nghị luận. Văn nghị luận đối với tôi không khó. Đề thi ra: “Anh chị hãy bình luận câu nói của đồng chí tổng bí thư Lê Duẩn: “Yêu nước ngày nay đồng nghĩa với với yêu chủ nghĩa xã hội”. Yêu nước ư? Đã là con người thì ai không yêu nước, không yêu nơi chôn rau cắt rốn? Còn chủ nghĩa xã hội là gì? Môn triết học lớp 12 của tôi chỉ nhắc sơ qua trong nhiều chủ nghĩa. Kiến thức về chủ nghĩa xã hội của tôi còn ít ỏi quá. Tôi không làm được bài văn nghị luận trong ký thi này. Tôi trở về lại Đà Nẵng để tiếp tục làm vàng với mẹ tôi. Ba tôi tặt lưỡi, thôi cũng được: “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh con ạ”.

"Lần thứ hai ngày 3/5/1978: Thống nhất tiền tệ trong cả nước. Ở miền Bắc đổi từ tiền cũ sang tiền thống nhất theo tỷ giá 1 đồng cũ = 1 đồng tiền mới thống nhất. Ở miền Nam đổi tiền giải phóng sang tiền thống nhất theo tỷ giá 1 đồng giải phóng = 8 hào tiền thống nhất. Có phát hành thêm các loại tiền 5 hào, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng" (như trên).

Chuyện này, tôi không bình luận. Chỉ biết rằng:

“Sau bao biến cố của lịch sử, đồng tiền mới được thống nhất trên phạm vi cả nước. Lẽ ra đây sẽ là thời điểm đầu tiên của lịch sử phát triển tiền tệ của đất nước, nhưng đáng tiếc là vì nhiều nguyên nhân, đồng tiền lại rơi vào những thăng trầm mới.

Ngay sau đó do nền kinh tế nói chung còn ở trình độ quá nghèo nàn, lạc hậu lại do những sai lầm trong cải tạo các thành phần kinh tế - nhất là cải tạo giới công thương nghiệp miền Nam để áp dụng cơ chế bao cấp giống như ở miền Bắc trong cả nước nên lạm phát đã liên tục gia tăng - Từ chỗ giá trị đồng tiền mới sát với sức mua của đồng Dola Mỹ (1,25đ/1USD) đã nhanh chóng bị “doãng ra”. Đồng tiền NHNN VN mất giá mạnh so với đồng USD, đến trước ngày đổi tiền tháng 9/1985 tỷ giá giữa đồng tiền NHNN VN so với đồng USD đã là: 150đ/USD” (www.cuocsongviet.com).

Quá bất ngờ như lần trước, tiền của gia đình tôi bị gởi vào tiết kiệm một lần nữa. Lúc này đời sống khó khăn dần, lương thực thực phẩm mắc mỏ, phải thường xuyên ăn độn. Những sợi mỳ được làm bằng bột gạo pha bột sắn quả khó nuốt. Mỳ sợi được hấp chung với cơm, hay xào với mỡ, làm kiểu gì làm nó cũng nhạt thếch, chẳng có tí thịt nào xào chung khó ăn thật. Lại còn hạt bo bo nữa! Luộc hạt bo bo rất lâu chín mềm vì lớp vỏ của  nó. Khi ăn vào có cảm giác sần sật, hạt này khó tiêu lắm, bao tử người nào khỏe mới xay nó nổi! Chú Vinh tôi ngoài Bắc vào chơi nói đùa đấy là hạt ba đời. Hạt bo bo sau khi tiêu hóa ở người, chó còn có thể ăn được sau khi người… và sau đời thứ ba là gà hưởng phần của chó...! Ngoài thị trấn Cồn, chú tôi cho rang hạt bo bo chín như đậu phụng, mấy đứa em con chú bỏ đầy hai túi quần, mang đi học để ăn thêm cho đỡ đói, ra vẻ phong lưu lắm. Hạt bo bo thần kỳ thật!

Và hệ thống tiền đổi lần này có một tờ mệnh giá 30 đồng, và tờ tiền mệnh giá 50 đồng và 100 đồng ê hề trên thị trường, những tờ mệnh giá thấp đốt đuốc tìm cũng không thấy! Hiếm lắm. Tôi còn nhớ mãi, khi cầm tờ mệnh giá 50 đồng đi ăn buổi sáng, chủ quán không có tiền thối lại. Quán ông Tàu bán bánh mì ở đường Trần Bình Trọng mà tôi hay lại ăn, mỗi lần thối tiền ông ghi cho tôi một tờ giấy ghi lằn ngoằn bằng chữ tàu, và con số trên tờ giấy tôi đọc được là số tiền còn lại của tôi quán ông còn thiếu. Lần sau đến ăn trả cho ông tờ giấy này, nhìn vào đó ông sẽ thối lại tiền thừa cho tôi nếu ông có đủ tiền lẻ, còn không, ông ghi lại tờ giấy khác, tôi phải đến ăn lần thứ ba, lần thứ n cho đến khi nào ông đủ tiền lẻ thối lại cho tôi.

Lại nữa, tờ bạc mệnh giá 30 đồng mới khó tính làm sao. Khó kẹp chung nó với mấy tờ tiền khác để đủ 100 đồng  Những thương vụ của mẹ tôi đôi khi lên đến hàng ngàn đồng!

Sau việc đổi tiền lần thứ hai, nhà nước tiến hành tổng kiểm kê trong đợt này được gọi là “Cải tạo công thương nghiêp”.

"Nội dung cải tạo ở miền Nam sau 1975

Những nhà tư sản lớn của Sài Gòn - TP HCM thời đó phần lớn đã di tản ra nước ngoài, thành phố chỉ còn các doanh nghiệp loại vừa như các chủ nhà in, chủ xưởng thủ công, chủ cửa hàng, cửa hiệu... Các ông chủ này; kể cả những người làm nghề chuyên môn và chỉ là tiểu chủ như chủ hiệu thuốc tây bị buộc phải kê khai tài sản, vốn liếng rồi trưng thu, tịch thu, trưng mua và buộc họ không được làm kinh doanh, phải chuyển qua sản xuất nông nghiệp, nhiều người phải rời khỏi thành phố. Nhiều cửa hàng nhỏ, vốn liếng chẳng có bao nhiêu, một số tiệm ăn, tiệm cà phê... cũng bị niêm phong, định giá và chuyển qua sản xuất quốc doanh, hợp tác xã.

Để thực thi, những tổ công tác mật được gấp rút thành lập, bắt đầu rà soát, lên danh sách những hộ gia đình kinh doanh, những gia đình giàu có phải vào diện “cải tạo tư sản”. Nguyên tắc hàng đầu của các chiến dịch này là bí mật, bất ngờ. Những ông chủ, bà chủ chỉ bàng hoàng nhận biết những gì xảy ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt bất ngờ có mặt, đọc quyết định “kê biên tài sản” của họ.
Những cửa hàng, nhà cửa bị tịch thu trở thành tài sản công và thường sẽ thành một cửa hàng quốc doanh hoặc thậm chí nhà ở cho cán bộ.
Tài sản bị niêm phong xong, mọi người trong gia đình đó phải chuẩn bị nhận quyết định đi “xây dựng vùng kinh tế mới“.

Xuất phát của quan điểm cần cải tạo:

Nhận thức sai lầm về giới chủ: Tất cả xuất phát từ quan niệm đầu tiên cho rằng các ông bà chủ chuyên ăn trắng mặc trơn, chỉ bóc lột nên nay cần phải cho đi cải tạo để họ thành những "con người mới XHCN". Do đó dích đến của họ thường là các vùng kinh tế mới .

Nhận thức kinh tế ấu trĩ: Cho rằng chỉ có sản xuất mới là có giá trị còn tất cả các ngành khác đều kém; nhất là thương mại là không sinh ra giá trị nên cần tiêu diệt càng kỹ càng tốt.
Quá đề cao quan điểm giai cấp: Nên chỉ tôn vinh công, nông, tiêu diệt tiểu tư sản, tư sản.

Nôn nóng đem lại công bằng xã hội" (www.wikiperia.wiki/cai_tao_công _thương_nghiêp).

Không biết ba mẹ tôi có lường trước việc này hay không. Ba tôi giao cho tôi một số vàng mót máy còn lại của gia đình, chỉ để một hai lượng buôn bán mà thôi. Thằng Anh Toát Loa chở tôi vào Quảng Ngãi bằng xe Vespa Sprint gởi số vàng này cho cậu Bảo tôi, cậu vẫn làm nhà đèn,nhà công vụ của cậu đã bị thu hồi và cậu đã mua nhà khác ra ở cống sông Đào, đường Quang Trung. Tôi đem số vàng này vào gởi cậu, đâu khoảng 6 lượng. Tôi đi về trong ngày, khi hai anh em về đến nhà, tôi thấy đoàn cán bộ kiểm kê đã vào trong nhà từ hồi nào rồi! Cha tôi mắng tôi và thằng Anh Toát Loa xối xả. Ông bảo tôi là thằng khốn nạn, chỉ biết rong chơi suốt ngày thật là đồ vô dụng! Tôi hiểu ngay ba đang đánh lạc hướng đoàn cán bộ kiểm tra.

Trưởng đoàn lúc ấy là một thiếu úy công an tên Lê Viết Dẫn, sau này tôi biết Dẫn thuộc gia đình cách mạng ở Điện Nam (Điện Bàn) có thân nhân hy sinh trong thời chiến, người thân gởi vào học trường công an, bây giờ đã là trung tá. Một người nữa, một cán bộ tòa án tập kết về, hình như tên Tuyết? và một cán bộ hưu trí tên Thiết lé mắt.

Gia đình tôi bị cho là gia đình tư sản bóc lột! Ăn trắng mặc trơn phải bị cải tạo. Mọi người trong nhà đều “nội bất xuất” và “ngoại bất nhập”. Mọi việc đi lại phải xin phép cán bộ. Đến bữa cán bộ sẽ thay phiên nhau đi ăn, nhà tôi luôn luôn có người canh gác! Vậy là gia đình tôi bị gán vào thành phần đối lập với chế độ! Thật vậy sao?

Buổi tối trưởng đoàn đi đâu đó khoảng 8 giờ tối về ngủ lại, đoàn cán bộ ở nhà tôi suốt một tháng trời, thỉnh thoảng có cán bộ đến tăng cường.

Đoàn cán bộ làm gì trong nhà tôi suốt một tháng?

Họ điều tra xét hỏi số vốn của nhà tôi làm ăn? Vàng bạc chôn giấu ở đâu? Dù ba mẹ tôi trả lời thế nào họ cũng không tin. Họ dùng những danh từ chối tai để xưng hô. Ba mẹ tội bị sỉ nhục thật sự.

Họ hỏi và ghi biên bản, hỏi tới hỏi lui cũng một chủ đề về số vàng cha mẹ tôi cất đâu? Ba tôi vẫn bình tĩnh đối đáp, nhưng trong tâm ông sốc thật sự. Ông buồn rầu và già đi nhanh chóng. Cả cuộc đời đi theo cách mạng để rồi ngày hôm nay được đối xử như kẻ thù, cơn đau bao tử tái phát lại hành hạ ông. Mẹ tôi vỡ lẽ, con đường bà đã chọn đi cùng ba tôi từ ngày ở vùng tự do Cây Sanh - Tam kỳ đã bị đoàn người này gạt bỏ, chỉ vì bà mang tội buôn vàng, bóc lột của nhân dân để làm giàu!Còn chúng tôi hiểu ra rằng chế độ này không dành ưu ái như chúng tôi đã tưởng. Tôi có cảm giác đang sống dưới địa ngục.
Người ta đã lục tung 3 tầng lầu và 3 gian nhà của chúng tôi giống như đi tìm cây kim trong đống rơm. Lục lọi đến đâu ghi biên bản đến đó. Gia đình đi theo chứng kiến, những cái chậu kiểng để ở hiên trước lầu 2 và lầu 3 cũng bị đập phá, đổ hết ra vì nghi có giấu vàng.

Và một điều thất nhân tâm nhất là những lư hương thờ trên bàn thờ tổ tiên ở gian giữa lầu ba, cũng bị đổ ra từng bát một! Bài vị tổ tiên cũng bị lột ra, tháo rời từng mảnh tìm tòi bên trong. Họ đang đi tìm vàng mọi ngóc ngách trong nhà. Sau nhà tôi có cái giếng, họ nhảy xuống mò cả mấy ngày trời. Nhà tôi có tường, chỗ nào nghi ngờ giấu vàng, họ đập tường. Một đống củi to cũng được dời qua dời lại! Tủ trong phòng được lục lạo từng ngăn một.

Từng phần một trong căn nhà bị xoi xét. Lần này so với lần khám nhà bắt cha tôi đi năm Mậu Thân người ta làm kỹ gấp ngàn lần. Ngay cả cây nạng sắt tôi chống đi cũng bị người ta mượn đi thử để kiểm tra! Người ta thu và niêm phong số vàng của gia đình tôi, ba mẹ tôi đã trao những gì còn trong nhà cho đoàn kiểm kê, kể cả những hột đá xanh đỏ vàng tím tôi dùng để làm nữ trang. Tất cả nữ trang anh em tôi đeo trong người cũng bị lột sạch. Tôi bị tịch thu đi một sợi dây chuyền vàng 18k và một chiếc nhẩn 10k của sĩ quan Mỹ. Đau nhất là anh Lương mới cưới vợ có cặp nhẫn cưới mấy phân vàng 14k cũng bị lột luôn.

Tủ sách của ba tôi cũng bị niêm phong. Tôi tiếc hoài bộ bán nguyệt san Phổ Thông Thời Nay, hai bộ bán nguyệt san này đã làm giàu kiến thức tôi khi còn đi học. Người ta qui “văn hóa phẩm đồi trụy”! Tủ sách riêng tôi có mấy cuốn truyện bỏ túi in bằng Pháp ngữ, tôi mua đọc hồi còn đi học để đọc luyện Pháp văn, họ đọc mà chẳng hiểu gì, khi hỏi tôi trả lời sách này để học sinh ngữ. Họ cho lại tôi tất cả dù trong số ấy có cuốn “Giờ thứ 25” (La Vingt-cinquième heure) một tác phẩm viết bởi nhà văn Virgil Gheorghiu - người Roumania viết năm 1949. Cuốn sách này tôi vẫn còn giữ.

Lại nói thêm, một số vải nội không giá trị lắm mà cha mẹ tôi mua của hệ thống “kinh tiêu” phường mấy năm trước cũng bị tịch thu.

Sau suốt một tháng ròng quần thảo lục lọi khắp hết nhà tôi, ngày cuối cùng cũng đã đến.

Một đoàn người của ngân hàng đến thâu số vàng bạc và hột hạt của gia đình tôi, có chính quyền địa phương đến làm chứng. Khi mở gói niêm phong, ngân hàng lập biên bản mới nhận bàn giao. Chủ tịch phường là Nguyễn Ngọc Nhĩ thấy có một chuỗi hột ngọc cẩm thạch, cho đây là đồ trang sức cá nhân mà từ năm 1975 mẹ tôi đã đeo khi sinh hoạt hội phụ nữ tại phường, chứ không phải là hàng hóa buôn bán, ông có ý kiến nên trả lui. Ba bên (đoàn kiểm kê, đoàn ngân hàng, chủ tịch phường) bàn bạc hội ý một lúc lâu. Cuối củng họ huận theo ý kiến chủ tịch phường. Chuổi ngọc này mẹ tôi đã tặng cho vợ tôi khi bà đã già, và dặn đi dặn lại với là không được bán nó, chỉ để dùng khi có tiệc tùng lúc lớn tuổi, sau này không dùng nữa nên cho lại thế hệ kế tiếp. Chắc con gái tôi sẽ được nhận của quý này sau này. Hay là đứa cháu nội gái nào của mẹ tôi?

bd4fscd

Mẹ tôi và chuổi ngọc cẩm thạch
Một đoàn của thương nghiệp đến nhận vải, ba mẹ tôi có xin lại với lý do là số vải này mua của “kinh tiêu” phường, nhưng Nguyễn Ngọc Nhĩ bảo không có bằng chứng. Nói, số vải này cha mẹ tôi đầu cơ tích trữ mà có. Lại thêm một đoàn của thông tin văn hóa đến nhận hết cái mà họ gọi là “văn hóa phẩm đồi trụy”. Bao nhiêu kỷ niệm thời học sinh của tôi ùa về, những kiến thức in ấn trong mấy tạp chí đã được mang đi cùng nổi khổ đau của tôi. Người ta như dùng búa gõ vào tim tôi. Vĩnh biệt những người thầy những người bạn lặng câm của tôi.

Trong thời gian đoàn còn kiểm kê, một đoàn của Ty Nhà đất đến thúc ép ba mẹ tôi viết vào giấy: “Đơn xin hiến nhà”. Thật là phước bất trùng lai, họa vô đơn chí. Ba tôi rất đau khổ. Người ta thúc ép buộc ba mẹ tôi ký vào đơn xin hiến nhà liên tục. Thế nhưng ba tôi nhất quyết không ký. Bút sa gà chết!

Dù không chịu ký  “đơn xin hiến nhà”, Ty Nhà đất cũng cử người đến đòi tịch thu và chỉ để lại một phần nhỏ phía sau! Nói gì thì nói ba tôi nhất quyết không chịu ký bất cứ một tờ giấy nào về nhà cửa. Lúc đó, chính quyền áp dụng bốn mũi giáp công đánh vào gia đình tôi. Tinh thần ba tôi suy sụp dữ lắm. Lúc này, cậu Thái cũng rất nóng lòng, cậu đi tìm ông sáu Hưng và ông Hồ Nghinh ở Ủy ban Nhân dân tỉnh để phản ánh và báo cáo tình hình của gia đình tôi với hai ông. Ông Hồ Nghinh bây giờ là Bí thư tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, nói với cậu Thái nhắn lại với ba tôi rằng: “Cải tạo công thương nghiệp là một chủ trương đúng đắn của trung ương, dù có sai trái gì cũng phải chấp hành mai sau có gì anh em sẽ có hướng giải quyết”.

Vào thời điểm này, một cuộc chiến khốc liệt giữa Việt Nam và Trung Quốc sắp sửa xảy ra.

"Chiến tranh Việt Nam - Trung Quốc, 1979 hay thường được gọi là Chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nổ ra vào vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc xua quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới trên bộ giữa hai nước. Chiến tranh biên giới Việt - Trung xuất phát từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia và ý đồ "dạy cho Việt Nam một bài học" của Đặng Tiểu Bình, kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho cả hai phía. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc hoàn thành rút quân vào ngày 18 tháng 3 năm 1979, sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn vùng biên. Mục tiêu của Trung Quốc buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia không thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới còn tiếp diễn thêm 10 năm. Hơn 13 năm sau, quan hệ ngoại giao Việt-Trung chính thức được bình thường hóa". (wikipedia /chiến tranh Việt Trung).

Chắc Ty Nhà đất có nghe chỉ thị miệng của mấy ông ở trên tỉnh? Hay vì lý do gì khác? Vì sau đó, chuyện trưng thu nhà của chúng tôi lặn luôn. Hay có thể vì người ta muốn gác lại mọi chuyện đang xáo xáo lòng dân để thời gian và nhân lực tập trung đối phó với giặc ngoài?


 

Tự cứu lấy mình

Từ ngày 29 tháng 3 năm 1975, gia đình tôi cũng thăng trầm thay đổi theo vận nước. Anh Lương sau khi đi làm thủy lợi ở Đại Lộc được một thời gian không thể nào hòa đồng với tập thể là một lẽ, tiền lương mất giá lần theo sự leo thang của vật giá và người vợ mới cưới nữa, nhiều lý do thúc đẩy anh về lại Đà Nẳng học nghề thợ tiện. Anh là thợ tiện giỏi của hợp tác xã cơ khí Tiền Phong. Làm ăn được một thời gian, giãi nghệ, dắt vợ vào Sài Gòn sinh sống.

Tôi  ra chợ học làm vàng với mẹ tôi và  ở nhà lén lút làm vàng và phân kim. Sai khi nhà bị kiểm kê, mẹ tôi cũng ra chợ la lếch để buôn vàng chợ đen như bao nhiêu người hồi ấy. Mẹ tôi và em gái, Ái đã bị đuổi học Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng trong thời gian kiểm kê, cũng đã ra chợ phụ tá cho mẹ tôi. Mẹ và em gái áp dụng chiến thuật: “Căng rút, lơ bung” nghĩa là nếu người ta kiểm tra, luc soát căng thẳng quá thì mình rút lui; còn nếu họ làm lo, không để ý đến thì mình bung ra buôn bán!

Người dân lúc ấy rất cần vàng để trao đổi với nhau dù đây là cái thời bao cấp.

"Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Hàng hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, hàng hóa không được mua bán tự do trên thị trường, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người. Lương đôi khi cũng được trả bằng hiện vật.

Mặc dù chế độ bao cấp đã tồn tại ở miền Bắc từ trước năm 1975, song thời kỳ bao cấp thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu năm 1976 đến cuối năm 1986, tức là trước thời kỳ Đổi mới. Đây được coi như một giai đoạn thất bại và tù đọng nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 20" (Wikipedia/thòi_bao-cấp).

Vĩnh - em trai kế làm ở Tam kỳ sau khi học khóa học thủy văn thủy lợi. Sau một thời gian cũng tìm đường vượt biên. Em gái tôi, Ái bị đuổi học đại học Bách khoa Đà Nẵng vì gia đình tư sản bị kiểm kê, cải tạo công thương nghiệp, phải theo phụ mẹ như đã nói. Quốc đi bộ đội chiến đấu ở chiến trường Tây nam khi mới học xong lớp 11. Quốc được chọn đi bộ đội là được ưu tiên do gia đình là gia đình tốt, gia đình cách mạng, chứ khối đứa muốn đi mà đi đâu có được, lúc ấy gia đình chưa bị xếp vào loại  gia đình tư sản mại bản! Gia đình dì dượng và cha mẹ tôi tổ chức một bữa tiệc ở nhà hàng dưới ngả Năm để chiêu đãi Quốc trước ngày lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự. Ba tôi với linh cảm một người từng kinh qua chiến trường tỏ ra không vui vẻ gì trong buổi tiệc này.

Các em Tân, Tiến, Tuấn còn đi học.

Ba tôi từ ngày gia đình bị các “đồng chí” đánh tư sản, ông sống rất bi quan Thậm chí ngày xét khen thưởng những người có công trong công cuộc chống Mỹ, cứu nước ông bị gạch tên. Sinh mệnh chính trị của ông đã bị khai tử. Đấu tranh dữ lắm, sau một thời gian dài, lần thứ hai, thứ ba hội đồng mới xét duyệt ba tôi mới được cấp Huân chương hạng Ba.

Một lần nữa ba tôi tâm sự, tôi là người có ăn học, ba xét thấy còn ở trong nước ngày nào, tất cả anh em chúng tôi sẽ đi vào ngõ cụt vì bản án của gia đình. Ba tôi bảo tôi nên khuyên nhủ mấy đứa em phải có hướng cho tương lai. Quen biết nhiều, tôi nên tìm đường cho mấy em vượt biên. Thời gian này tôi ghi tên học tiếng Anh ban đêm ở trường Phan Chu Trinh, tôi học được 5 năm, học để sau này vượt biên được hữu dụng, và học để làm gương cho em và con cháu tôi. “Đứa nào đi không được ở lại co cụm lại tìm việc gì làm ăn cho đủ sống qua ngày. Bao giờ tình hình đất nước sáng sủa rồi hay. Cái nhà cố giữ lại mà ở.hông được bán dù đói khổ đến mức nào. Sống cái nhà già cái mồ. Quốc đi bộ đội có sống sót trở về hẳn tính”. Ba tôi dặn dò. Mẹ tôi và em gái ra chợ buôn bán quen thân với nhiều chủ ghe thuyền, móc nối với họ để mấy đứa đi vượt biên.

Thời gian từ 1975 đến 1982 – 1983, người ta tìm đường đi vượt biên rất nhiều. Tống Viết Bình bạn học tôi đã qua được Canada viết thư về làm ba tôi phấn chấn. Cha mẹ Bình đã qua đời hết, một thân một mình đi được qua Canada vừa chạy bàn (waiter) vừa đi học đại học. Tôi gọi Tân và Tiến ra nói chuyện này, ba mẹ lo cho đi vượt biên, phải chuẩn bị tinh thần ra đi, nếu trót lọt thời không nói gì, lỡ bị bắt lại phải cắn răng chịu đựng chứ không nên trách cứ gia đình. Vào tù, lựa lời khai để nhẹ án, mấy em nghe theo, nhất là Tiến. Đang  học lớp 11, giờ Vật lý, Tiến mang cuốn Bố Già vào lớp đọc bị thầy bắt được, đuổi học dù ba tôi và tôi cố gắng xin thế nào cũng không được. Không đi học ở nhà nhàm chán, đi vô đi ra bị ba tôi mắng mỏ, lại thêm tôi chịu áp lực của ba tôi, luôn la rày nó. Tiến lại càng bị đè nén hung. Nghe tin được đi vượt biên, nó như mở cờ trong bụng. Tiến đã tìm ra lối thoát. Tiến đi trót lọt trong chuyến thứ hai mới qua được Hong Kong.

Tân, được bạn bè rủ đi cùng chuyến, đi qua đến Hong Kong gởi mật mã về mới nhận vàng (2 lượng). Lúc này, gia đình mấy dì cùng mẹ tôi buôn bán chung, số vàng hiện tại trong nhà không đủ, để người đưa đường hôm ấy đếm số lượng đủ làm bằng chứng gia đình có khả năng sẽ trả sau khi Tân đi lọt. Số vàng của cha mẹ tôi phải chia nhỏ tẩu tán khắp nơi ở mấy dì, họ đến đếm không đủ số lượng vàng nên Tân bị bỏ lại. May mắn cho Tân, chuyến đi này biệt vô âm tín. Cho đến bây giờ những gia đình có con đi chuyến này lấy ngày ra đi làm ngày giỗ! Ở Đà Nẵng có nhiều gia đình như vậy.

Rồi Tân cũng đi qua được Hong Kong. Hai anh em tị nạn tại đảo Koloon.

Thư từ hai em viết về có kèm theo thông báo của chính phủ Hong Kong cho biết sẽ trả những người vượt biển trái phép sẽ bị trả về Việt Nam!

xxxx


(nguồn: Ảnh tư liệu sưu tập của L.M.Q)

Bấy giờ, khoảng năm 1984 được nước thứ 3 bảo lãnh đã khó khăn rồi, lạng quạng bên kia (Hong Kong) trả bọn trẻ về là chí nguy. Lo lắng ghê lắm, ba tôi thúc tôi liên lạc với bạn bè bên ngoài để cứu 2 đứa em tôi. Qua Bình đang định cư ở Canada, tôi viết thư liên lạc nhiều nơi. Cuối cùng gặp được Lê Công Trí quen thân với tôi khi còn học ở Sài Gòn. Trí đã vượt biên từ miền Nam qua Malaysia và đã định cư ở Úc. Tôi liên lạc được với Trí, Trí lúc ấy đang là hội trưởng hội người tỵ nạn Đông Dương tại Úc. Trí đồng ý ngay. Trí nhận bà con cùng họ Lê và bảo lãnh Tân và Tiến qua Úc. Trong việc bảo lãnh này có cả hai đứa em con dì Hiền tôi nữa.

Hồi còn ở Việt Nam, Trí là kỹ sư nhà máy đường Quảng Ngãi, học hơn tôi 2 lớp,lương không đủ sống, hằng tuần về thăm vợ con ở gần nhà tôi, tôi thường hay biếu tiền để vào xe, tôi làm vàng có tiền mà. Trí giúp bảo lãnh hai đứa qua không đòi hỏi thù lao gì. Hắn bảo có gì quí bằng tha hương ngộ cố tri, không có mầy, tau ngộ mấy đứa em mầy cũng được.

Anh Lương và Vĩnh cũng tự tìm đường đi. Đi vài ba lần cũng trầm trầy trầm trật. Tìm nhầm người, bị lường gạt. Rồi cũng “nhất nhật thiên thu”. Cũng may, chớ như Nguyễn Quốc Minh con ông bãy Tân gần nhà bị du kích phục bắn, Minh bị thương khi đã lên được trên tàu, máu ra nhiều, không có đủ dụng cụ y tế và cũng không có ai biết nghề y, và nhất là không ai lường trước được tình huống: Từ trước đến nay chỉ có bắn chỉ thiên cho sợ để đuổi bắt người trốn đi vượt biên, chứ đâu có bị bắn hạ họ ngay tại bãi đâu! Qua đến đảo Hải Nam, Minh đã chết, bạn đồng hành chôn cất ở đây. Gia đình không biết bây giờ Quốc Minh đang nằm ở đâu trên đất người! Cùng chuyến đi với Quốc Minh, có khoảng bốn năm người chi đó bị bắn chết tại chỗ trên bài Thanh Bình! Không chịu ở với ta thì ta bắn chứ không cho đi đâu cả! Gặp lại mẹ Quốc Minh - bà bảy Tân ngớ ngớ ngẩn ngẩn tâm sự.

Người ta hay nói đùa với nhau, khi đi vượt biên, hên nhất là được Mỹ lãnh, hai nữa là Tiên Lãnh (trại tù Tiên Lãnh, Tiên Phước, Quảng nam). Cuối cùng là Hà Bá lãnh!

Danh sách những số phận hẩm hiu như thế còn nhiều, còn dài…

Nghĩ mà buồn. Buồn thúi ruột.

Chim xa rừng thương cây nhớ cội
Người xa người quá tội người ơi
Lênh đênh góc biển, chân trời
Trăm năm nghĩ một kiếp người mà đau


 

Đổi mới

Sau cơn mưa trời lại sáng , dần dần cái án tư sản mại bản của gia đình tôi tự dưng bị xóa bỏ cũng giống như bất thình lình nó cột vào!

Đọc lịch sử cận đại Việt Nam, tôi cảm nhận một vị đại thần, đã hy sinh trọn đời vì nước nhưng chung cuộc ngài đã uống thuốc độc tự vẩn. Hãy nghe lời người đã khuất mà chính cuộc đời là tấm gương soi. Phan Than Giản (1796-1867) Hình chụp năm 1863 nhân dịp ông cầm đầu sứ bộ sang Pháp để xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ. Ở Pháp cả 2 tháng nhưng không gặp được vua Napoléon đệ tam, ông đành trở về Việt Nam với vài lời hứa hẹn của Pháp, nhưng khi về đến Việt Nam thì Pháp đã chiếm thêm 3 tỉnh miền Tây.  Vua bổ nhiệm cho ông trấn thủ miền Nam, tới năm 1867 thì toàn lảnh thổ Nam kỳ rơi vào tay Pháp .Không hoàn thành sứ mệnh ông uống thuốc độc tự vẩn, sau khi để lại di chúc cho con cháu và khuyên là không nên làm chính trị.

Ba tôi không ví bằng vĩ nhân nói trên, nhưng cuộc đời ba chìm bảy nổi, kết cục bi thương, mòn mỏi chết dần trên giường bệnh, không tiền chữa chạy đến nơi đến chốn. Thời gian này tôi ở nhà để làm vàng lậu, tôi gần gũi ba tôi nhất.

Cuộn phim về cuộc đời ông được chiếu chậm lại.

DSCN0577

Các cháu nội, ngoại bên mộ ba tôi vào ngày Tết

Những năm tháng thiếu niên phải phụ việc cho ông bếp Từa gọi là ông chú để kiếm cơm, ông bếp Từa là lính kiều bào, lý lịch dính dáng đến thực dân phong kiến đã hành hạ ba tôi một thời gian khi đi bộ đội. Sau ngày hòa bình lập lại, làm ăn sinh sống hạnh phúc cùng vợ con ở Đà Nẵng nhưng rồi, ba tôi lại kết nối làm công việc cách mạng mà ông cho là sẽ đem nhiều tự do hơn cho dân miền Nam, phải chịu tù tội, phải chịu nhiều thương tích. Vợ con khốn khổ. Rồi đất nước được thống nhất, chưa mừng được bao lâu, theo chú Vinh xem quẻ cho cha, chú bảo ba tôi nặp đại nạn: “Đại tiểu hao trùng phùng”. Năm ấy may không có hung tinh chiếu vào, chứ có chắc cha tôi mạng vong!

 

phan-mo-ba

Phần mộ của bà tôi - ông Lê Văn Châu

Ông Trần Thận, Hồ Nghinh và Trần Duy Hưng có ghé lại thăm cha tôi mỗi năm vào dịp Tết, không như những lần đến lén lút trong thời kỳ hoạt động, trước khi các ông đến, hai cảnh vệ súng ống oai nghi chạy thẳng vào nhà tôi quan sát trước tất cả, khoảng ½ giờ sau các ông mới đến thăm! Mấy ông chỉ ghé lại khoảng 5 phút, vài câu chúc tụng và một ít quà tết gọi là và lên xe đi ngay. Nhưng từ sau ngày gia đình bị qui vào hàng ngũ tư sản mại bản, không thấy mấy ông ấy bén mảng.

Phải nói là cuối cuộc đời, ba tôi  rất dằn vặt, số mệnh đã đưa đẩy ông xa quê hương, khổ cả cuộc đời để tìm cái không có. Cuộc đời đưa đẩy cha tôi chọn theo con đường tham gia cách mạng. Cái hạnh phúc trong tay là gia đình hạnh phúc ba tôi bỏ qua một bên. Để rồi cuối cuộc đời được đối xử như một kẻ thù bởi cái lý lịch tư sản tư sản mại bản. Sau cuộc trường chinh của đất nước, sau cuộc cải tạo công thương nghiệp toàn quốc, anh em tôi phải làm lại từ đầu. Không một ưu ái gì của chính quyền mới. Làm lại tất cả từ đống đổ nát. Tất cả.

Sau này, khi Lê Minh Quốc - em tôi vào làm việc tại TP.HCM thì có gửi đơn nhờ báo Thanh Niên can thiệp. Vấn đề anh em chúng tôi đặt ra không phải đòi lại những gì đã mất trong cái gọi là "cải tạo công thương nghiệp" - chính là Danh Dự của ba tôi và gia đình tôi. Báo Thanh Niên đã lên tiếng. Sự can thiệp nhanh chóng này, một phần do các anh Tổng và Phó Tổng Biên tập Nguyễn Công Khế, Nguyễn Thanh Tịnh từng là bạn tù với ba tôi lúc ở Đà Nẵng. Sau đó, Quốc có viết bài "Lời cảm ơn muộn màng" đặng tri ân nghĩa hiệp đó (in báo Thanh Niên số ra ngày 3.1.1993). Bài viết như sau:

Untitled-3

"Buổi trưa. Tôi đến tòa soạn báo Thanh Niên với tâm trạng thấp thỏm. Trên tay là bản thảo bài viết về chuyện gia đình tôi. Một nỗi oan ức cần được báo chí lên tiếng bênh vực. Đó là chuyện một gia đình từng là cơ sở cách mạng nội thành, ba tôi là Đảng viên từng bị đày ra Côn Đảo và những nhà lao ở Đà Nẵng. Thế nhưng, đến ngày sau giải phóng lại bị quy là gia đình tư sản. Bị cải tạo công thương nghiệp. Bị tịch thu toàn bộ tài sản. Nỗi oan ức đó, ba tôi làm nhiều đơn khiếu nại, nhưng không nơi nào giải quyết. Đến ngày ba tôi từ trần, tôi quyết định viết lại sự việc này nhờ báo Thanh Niên bênh vực.

Buổi trưa hôm đó, tại nhà ăn của báo Thanh Niên, người tiếp tôi là nhạc sĩ Phan Bá Chức. Vừa ăn cơm trưa, anh vừa đọc bài viết về hồ sơ của vụ việc mà tôi đính kèm theo. Anh nói: “Vụ việc này tôi có nghe anh Nguyễn Công Khế nói qua rồi. Bây giờ ông về đi!”. Tôi trở về nhà bằng tâm trạng âu lo, liệu chừng báo Thanh Niên can thiệp được bao nhiêu phần trăm? Một tuần lễ sau bài báo của tôi được đăng lên. Bài báo này đã làm tôi sung sướng muốn khóc, ít ra ở nơi chín suối ba tôi cũng toại nguyện, vì nỗi oan ức của mình đã được dư luận báo chí giải tỏa phần nào.

Cứ tưởng rằng, bài báo đăng lên là chìm vào quên lãng. Nhưng không! Ngay tại thành phố Đà Nẵng, sau ngày bài báo ấy in lên, mẹ tôi đã nhận được thư của ông chủ tịch UBND tỉnh QNĐN mời lên trả lại một phần tài sản đã tịch thu! Chuyện ấy cứ ngỡ là trong mơ, là “cổ tích của thế kỷ”. Mười mấy năm trôi qua, ba tôi đã làm biết bao nhiêu đơn, gõ cửa biết bao nhiêu chỗ, nhưng nào có ai giải quyết đâu! Vậy mà, báo Thanh Niên vừa lên tiếng thì đã vọng lại những tín hiệu đáng mừng. những tín hiệu của sự công bằng xã hội mà báo Thanh Niên đã góp phần tích cực.

Sau này, anh Phan Bá Chức có viết thành mẩu tin ngắn, biểu dương sự tiếp thu kịp thời của tỉnh QNĐN về vấn đề mà bài báo đã nêu. Điều đó, đối với gia đình tôi là một kỷ niệm, hơn thế nữa, một ơn nghĩa khó quên đối với báo Thanh Niên. Mẹ tôi, vốn là người nông dân quê mùa, lam lũ làm ăn, một chữ cắn đôi cũng không biết đọc, biết viết. Thế mà, sau khi báo Thanh Niên đã đem lại những kết quả như thế, thì bà cũng ứng khẩu mà đọc câu nôm na:
 

Rằng cám ơn báo Thanh Niên
Bài đăng lên. Kết quả liền. Quý thay!
Vàng được trả lại mấy “cây”
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.

Dù nôm na nhưng xuất phát tự đáy lòng của một người mẹ. Xin hãy cho tôi được xem đấy là những lời cám ơn đối với báo Thanh Niên. Dù bây giờ, tôi mới nói ra điều đó. Dẫu có muộn màng".

Khi viết những dòng chữ này tôi nguyện cho ba tôi đến được nơi mà ông đã mơ tưởng trong suốt cả cuộc đời. Nơi không bao giờ có thật trên trần thế. Ông đã hy sinh một cuộc đời để đi tìm cái không bao giờ có thật. Anh em chúng tôi mong muốn ông đến được nơi này và ở lại đời đời nơi đây. Cái mà cha tôi đã bỏ suốt một cuộc đời đi tìm. Priez pour lui.

LÊ MINH TÂM

(Viết xong nhân ngày giỗ cha lần thứ 21 – 28 tháng giêng  năm Tân Mẹo)



Phụ lục

Những thơ, tùy bút này đã in trong tập thơ của tôi, trên báo chí có thể tìm trên trang web này. Nay tôi ghép vào phần phụ lục vào tập Khêu ngọn đèn xanh của anh Lê Minh Tâm - như một cách chia sẻ tình cảm về đấng sinh thành của mình.

LÊ MINH QUỐC


BA TÔI

Xuân năm 1945, tại làng Kỳ Vỹ, huyện Gia Khánh (Ninh Bình) dưới cơn mưa phùn xám xịt, dưới bờ ruộng có một thiếu niên nằm co quắp, xanh xao, yếu đuối - bên cạnh là những xác người đã chết vì đói, khi lưỡi hái tử thần chuẩn bị gặt lấy linh hồn chàng đem về trời thì may thay lúc ấy có một tốp bộ đội đi ngang qua. Họ nhặt chàng đem đi. Hình ảnh khủng khiếp của một thiếu niên quằn quại trong cơn đói, sau này chính là ba tôi. Rồi trên chuyến xe lửa của đoàn quân Nam tiến với những tráng sĩ như bước ra từ dòng thơ Đường, họ mặc áo trấn thủ, đội mũ nan và từ lồng ngực thanh tân bật ra tiếng hát phóng khoáng, yêu đời: “Đoàn giải phóng quân một lần ra đi. Nào có sá chi, đâu ngày trở về…” thì có cả nhịp vỗ tay của ba.

Từ đó, ba tôi trở thành người lính, suốt năm tháng kháng chiến, ông là bộ đội quân y phục vụ ở chiến trường Quảng Nam. Rồi đình chiến, không trở ra Bắc, ông hồi cư về Đà Nẵng và trở thành “Việt cộng nằm vùng”. Khi tôi lớn lên, tôi chỉ biết ông làm nghề hớt tóc dạo. Ba tôi là người hà tiện tiếng cười, dù đang vui hoặc buồn. Có lẽ nỗi ám ảnh của cơn đói năm xưa đã khiến ông dạy con cái phải ăn uống kham khổ. Tôi còn nhớ đến món khoai chà dự trữ trong nhà. Ở Quảng Nam, sau khi thu hoạch khoai, người ta để dành bằng cách đem bào ra thật nhỏ, phơi khô, bỏ trong hũ. Mỗi lần muốn ăn, đem ra và đổ nước sôi vào, nó sền sệt, ăn thật bùi, thật ngọt. Đến bây giờ, tưởng như vị ngọt ấy chưa tan trên lưỡi.

Vậy mà, thuở ấu thơ, có lần tôi chê món ăn này, cứ đòi ăn món cá diếc thật ngon. Chiều ý tôi, ông đồng ý, chẳng may tôi bị mắc xương. không nói không rằng, cả đĩa cá diếc tươi roi rói như thế được ông hất tung xuống đất. Thái độ đột ngột của ông đã khiến tôi nghĩ rằng, đừng bao giờ cãi lại lời của ba.

Rồi mùa xuân năm 1968 do bị điểm chỉ, nhiều cơ sở nằm vùng bị đánh phá khốc liệt. Tôi đã thấy những “Việt cộng nằm vùng” bị xiềng tay dẫn đi trên đường, có người tìm cách trốn chạy, bị chúng bắn vỡ sọ, rồi đạp xác xuống cống ven đường. Xa xa có những tiếng pháo mừng Xuân mới vọng về… Bọn đầu trâu mặt ngựa, quần áo rằn ri, lăm lăm súng ống trên tay, đằng đằng sát khí xộc vào nhà tôi. Chúng bẻ quặt tay ba tôi ra sau lưng. Chiếc còng số tám lạnh lùng siết chặt. Tống lên xe bít bùng. Tôi sợ hãi khóc không thành tiếng. Thời gian này, ba tôi bị giam ở nhà lao Đà Nẵng. Ấn tượng dữ dội đã tạo một vết sẹo không phai trong ký ức. Do bị bệnh nặng, chúng đã chuyển ông ra bệnh viện Đa khoa. Ông mặc áo tù, nằm trên giường, gương mặt tím bầm. Hai chân của ông bị treo ngược lên cao bằng những sợi dây xích. Mỗi lần ông cựa quậy thì tiếng sắt va chạm vào nhau tạo nên một âm thanh khô khốc đến rợn người. Âm thanh ấy đập vào tai tôi và vang vọng suốt một đời. Sau đó, chúng đày ông ra Côn Đảo.

Chúng bí mật đưa ra đảo nên gia đình tôi không hề biết. Mẹ tôi cùng bà ngoại đã đi khắp chùa chiền để nguyện cầu. Nghe chỗ nào có thầy bói hay là lại tìm đến để dò hỏi tông tích của ba. Nhưng tất cả đều đoán trật lất. Từ đó, mẹ tôi không còn tin gì vào thần thánh. Cuối cùng, bọn đầu trâu mặt ngựa mới bắn tin đã đưa ba ra Côn Đảo và đòi hối lộ. Lúc bấy giờ, gia đình tôi đã khá giả, cả họ hàng bên ngoại đều bán vàng ở chợ Cồn với những hiệu lừng lẫy một thời: Vĩnh Châu, Vĩnh Thái, Vĩnh Phát, Vĩnh Thuận… Mẹ tôi mới sai thợ làm sáu chiếc lắc, mỗi chiếc năm lượng vàng ròng. Với yêu cầu đó, không thợ nào làm nổi. Sau cùng, cậu tôi phải đứng ra làm, ròng rã nửa tháng trời mới xong. Những tưởng hối lộ xong thì ba sẽ được tự do, nào ngờ mãi đến năm 1972 ông mới được trở về đất liền. Lúc ấy, ba bị phù thủng nên mỗi lần cười thì gương mặt méo xệch. Ông trở nên trầm ngâm hơn, ít nói. Mỗi lần ba dẫn tôi đi ăn mì Quảng. Những hột đậu phộng rơi vãi trên bàn, ông cẩn thận nhặt lấy bỏ vào tô của tôi. Vì đậu ngon hay ông tiết kiệm? Ăn xong, hai cha con đứng dậy trở về nhà. Đến đầu đường Nguyễn Trãi, tôi chợt thấy một người đeo kính đen, y ngồi trên xe honda kín đáo nhìn theo. Ít lâu sau, ba tôi lại bị bắt. Ông ăn cơm tù nhiều hơn cơm nhà.

Tôi lại nhớ đến tủ sách của ba tôi. Ông là người mê đọc sách. Trong tủ gụ làm bàn thờ Tổ tiên và trong tủ búp-phê của ông chứa nhiều sách lắm. Tôi đã lục lọi và đọc hết. Tôi biết yêu văn chương chính là nhờ những quyển sách này. Thử tưởng tượng những ngày thu mơn man nắng ấm, tôi trèo lên cây để nằm đọc sách. Trưa yên tĩnh lạ thường. Có ai nghe được tiếng gà gáy giữa trưa mới cảm nhận được sự yên ả của một vùng quê đất Quảng. Đến bây giờ, tôi vẫn còn thấy:

Những mái ngói phơi trong nắng mai

Chim chóc bay về làm tổ

Hót ríu ran vườn cây nhà ông ngoại

Ngày giỗ chạp mẹ tôi về lại

Thắp nén nhang thơm ngát tuổi thơ tôi.

Trong tuổi thơ, chỉ một lần tôi được nhìn thấy ba tôi cười như trẻ thơ. Đó là lúc ông nhận được thư của họ hàng từ miền Bắc gửi vào. Lá thư ấy được ông khoe khắp xóm. Rồi cải tạo công thương nghiệp - những sóng gió đi ngang trên mái nhà, xáo tung tất cả. Gương mặt ba tôi rắn lại như một thanh sắt nguội. Trước ngày tôi lên đường đi bộ đội, ông trầm tĩnh: “Rồi người ta cũng sẽ hiểu mình”. Tôi nghiệm thấy điều này đúng.

Sau này, lao vào trường văn trận bút với biết bao hăm hở đầu đời, tôi đã vấp ngã tưởng chừng không đứng lên được. Bởi lẽ tôi quan niệm viết văn, làm thơ không phải để nổi danh. Danh vốn bọt bèo và nhiều đố kỵ. Mà để làm vui lòng ba mẹ tôi. Từ năm 1989, tôi bắt đầu in những tập thơ: Trong cõi chiêm bao, Ngày mai còn lại một mình tôi, Tôi vẽ mặt tôi, Nếu không còn cổ tích, Thơ tình rồi in tiểu thuyết Sân trường kỷ niệm, Hoa cúc không phải màu vàng, Về nơi nào để nhớ, Thời của mỗi người, Xin lỗi ông là ai? Và trước đó, từ năm 1985, tôi đã đoạt giải nhất thơ nhân kỷ niệm 10 năm thành lập lực lượng Thanh niên xung phong, giải thưởng thơ của Hội nhà văn TPHCM… Chỉ tiếc ba tôi không thấy được sách của tôi đã in, mẹ tôi không đọc được những gì tôi đã viết hoặc người ta viết về tôi vì bà mù chữ.

Rồi tôi vấp ngã với tiểu thuyết “Xin lỗi ông là ai?”. Qua năm sau, tập thơ Tôi vẽ mặt tôi vừa phát hành đã bị phê phán trên báo chí từ Nam chí Bắc. Tôi ngã lòng. Nếu thi sĩ Phùng Quán tự nhủ: “Lúc ngã lòng tôi vịn câu thơ mà đứng dậy” http://www.leminhquoc.vn/lmq/tho/tap-tho/672-toi-ve-mat-toi.html. Vịn vào thơ tức là vịn vào cõi tâm linh của chính mình. Tôi không có đủ bản lĩnh ấy, tôi chỉ biết vịn vào câu nói của ba tôi: “Rồi người ta cũng sẽ hiểu mình”. Tôi đứng dậy với một loạt tiểu thuyết lịch sử: Nguyễn Thái Học, Tướng quân Hoàng Hoa Thám, Nguyễn An Ninh - dấu ấn để lại do NXB Văn học ấn hành và liên tiếp được tái bản với iết bao lời khen thưởng. Không dừng lại đó, tôi tiếp tục thực hiện Tủ sách danh nhân Việt Nam dưới hình thức truyện tranh, và bây giờ tôi đang tiếp tục viết bộ sách nhiều tập Kể chuyện danh nhân Việt Nam (NXB Trẻ). Nhiều bạn văn nhụt chí sau những lần bị phê phán đã hỏi làm sao có thể viết tiếp được như thế? Tôi nhắc lại lời răn dạy của ba tôi. Câu nói ấy, tôi gìn giữ làm hành trang đi trên đường dài của đời mình và lấy đó làm phép ứng xử khi va chạm với hỷ, nộ, ái, ố… trên trần gian muôn mặt này.

LÊ MINH QUỐC


(nguồn: báo Thể thao & văn hóa ngày 13.4.1999)

 

VỀ QUÊ ĂN TẾT

Tôi đi giang hồ từ năm mười sáu
Còn quay đầu nhìn lại Ngũ Hành Sơn

Trong những ngày cuối năm, gió rét tràn về, lá vàng bắt đầu lãng du trên mặt phố Sài Gòn thì tôi lại nhớ đến câu thơ đã viết. Nhớ, vì đó là lúc tôi chuẩn vị quay về quê nhà Đà Nẵng. Ngày Tết, ai cũng có một quê nhà để về, không về được thì bức rức không nguôi. “Về quê ăn Tết” chỉ bốn từ bình dị như sắn, như khoai nhưng gợi trong tâm tưởng của bao người một âm vang da diết. Đôi lúc tôi lẩn thẩn tự hỏi, sao cứ phải là ăn Tết? Chẳng lẽ trong 365 ngày của một năm có lúc nào ta không ăn? Nghĩ như  thế quả là... ngốc. Tôi đã trách tôi như thế. Ăn trong ngày Tết, không chỉ đơn thuần là bửa ăn của những người đang sống trên dương thế. Mà còn là dịp cùng ăn với người quá cố, với Tiền nhân khuất bóng.

Ý nghĩa thiêng liêng của ăn Tết là chỗ đó.

Nhà văn hóa Phạm Quỳnh hoàn toàn chinh phục được cái suy nghĩ lẩn thẩn của tôi khi ông viết: “Tết không chỉ là ngày lễ của người sống; nó còn là, chủ yếu là ngày lễ của những người chết. Chính trong ba ngày Tết những người đã chết thực sự tham gia vào cuộc sống của gia đình và con cháu mình. Ngày hôm trước đó, bằng một lễ nhỏ người ta thỉnh rước tất cả họ về cùng dự Tết với gia đình. Rồi mỗi ngày hai lần người ta mời họ dùng hai bữa cơm chính, chưa kể các cuộc dâng trà, hoa quả, bánh trái. Cuối ngày thứ ba hay thứ tư, là lễ lớn tiễn đưa, và các linh hồn được coi như trở về thế giới bên kia, mang theo những lời chúc tụng và những lời tâm sự của người thân mà họ vừa chia sẻ cuộc sống trong mấy ngày và bây giờ họ để lại thế giới bên này, nhưng vẫn luôn theo dõi, ban phúc, bảo bọc”.

Ăn tết còn là dịp để bày tỏ lòng biết ơn. Thật lạ, ông bà ta luôn dạy con cháu phải biết ơn những gì, những ai đã giúp mình dù ít, dù nhiều trong quá khứ. Hãy nghe: “Giã ơn cái cối, cái chày/ Nửa khuya giã gạo có mày có tao”. Cứ nghe như  một lời thủ thỉ tâm sự. Cái chày, cái cối kia không còn là vật vô tri vô giác mà nó đã là người bạn của những lúc “tối lửa tắt đèn” có nhau. Xã hội Việt Nam thuở xưa sống bằng nghề nông, thường ngày “Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” thì ngày Tết “con trâu là đầu cơ nghiệp” cũng... ăn Tết. Chiều ba mươi Tết chuồng trâu, bò được dọn sạch sẽ và chúng được nghỉ xả hơi. Qua ngày mồng bốn, chúng được đưa ra đồng với cái lễ vui vẻ có cả bánh tét, bánh chưng hẳn hòi. Sau khi khấn vái, người ta dán giấy vàng mã lên sừng trâu bò, còn con nghé thì được dán giữa trán - như lời cầu chúc cho chúng luôn khỏe mạnh, không ốm đau. Cúng xong, bánh trái ấy được phân phát cho trẻ mục đồng. Ấy cũng là một cách bày tỏ lòng biết ơn với gia súc đã quanh năm gắn bó với mình “trên đồng cạn dưới đồng sâu”.

Thuở sinh thời nhà văn Sơn Nam có kể cho tôi biết về một “truyền thống” tốt đẹp trong làng báo Sài Gòn vào dịp Tết. Rằng, ấn phẩm báo Xuân, báo Tết thời trước ra đời ở trong Nam chính là từ tấm lòng “chịu chơi” của các vị chủ báo. Vào dịp cuối năm, sau khi quyết toán xong sổ sách trong một năm, chủ báo cho thực hiện ấn phẩm đặc biệt này và giao cho ký giả, công nhân in, tạp dịch trong tòa soạn được quyền in ấn, phát hành rồi chia nhau hưởng lợi. Nói nôm na ấy là cách thưởng “lương tháng 13” của chủ báo dành cho những người cộng sự đắc lực của mình trong suốt một năm cộng tác gắn bó. Từ đó, báo xuân được duy trì mãi cho đến nay.

Ít ai ngờ rằng,  ngay cả giếng trong nhà cũng... ăn Tết.

Tuổi thơ của tôi có những vạt mây trắng. Mây bay trên trời xanh lồng lộng bây giờ đã chìm khuất đâu đó trong trí nhớ, nhưng vạt mây từng soi bóng dưới giếng chắc vẫn còn. Giếng nhà ông ngoại. Cái giếng cũ kỹ ấy là một thời kỷ niệm khó quên. Nước trong vắt. Mỗi chiều, bà con láng giềng thường đến múc nước. Tình làng nghĩa xóm thân mật và gần gũi lắm. Trong tôi vẫn còn nghe vọng lên âm thanh của những chiếc gầu va vào thành giếng. Âm thanh của tuổi thơ nhiều mộng mị xa vời.

Lớn lên, có lần đọc một khúc dân ca của người Kampuchia, tôi nghĩ, đã có những cuộc tình bên cạnh giếng. Tại sao? Vì biết đâu trong đám trai làng ngày ấy, chắc rằng đã có lúc, có người tần ngần nhìn xuống giếng sâu và thì thầm trong tâm tưởng:

Anh đi ra giếng một mình

Chiếc bóng dưới nước long lanh đâu rồi?

Chỉ nhìn thấy bóng em thôi

Lúc em tắm để quên nơi giếng này

Tôi tạm dịch như thế. Và thích tứ thơ này. Khi người con trai thất tình, không thấy bóng mình chỉ thấy hình bóng người yêu năm xưa. Diụ vợi đến ngậm ngùi đau đớn. Ấy là do tôi tưởng tượng, chứ cái giếng ngay trước nhà, làm gì có ai dám đứng tắm.

Lớn lên, đi xa nhưng mỗi lần nhớ về tuổi nhỏ, trong tôi vẫn luôn hiện lên hình ảnh cái giếng đó. Nếu biết nói, chắc nó sẽ kể cho tôi nghe nhiều thăng trầm năm tháng đã đi qua. Nó sẽ kể rằng, một ngày nọ, đã xa lắc xa lơ, khi trong nhà không còn một hạt gạo bỗng nhiên sáng mồng một Tết có người đến thật sớm. Đến “đạp đất” mừng tuổi ông bà ngoại tôi chăng? Không, họ đến để mượn chiếc đòn gánh. Mượn trong ngày đầu năm là điều tối kỵ. Mà lại mượn cái đòn gánh đã mòn trên vai mẹ tôi từng ngày kiếm sống. Lạ quá đi chứ? Nào ngờ đó là một phép lạ. Vì ra giêng ngày rộng tháng dài, bỗng gia đình ông bà ngoại tôi làm ăn phát đạt. Các cậu, dì mua may bán đắc đến diệu kỳ. Những tiệm vàng mang chữ “Vĩnh” như Vĩnh Châu, Vĩnh Phát, Vĩnh Thuận... lần lượt được khai trương - một thời lừng lẫy ở chợ Cồn.

Chuyện này, mẹ tôi đã kể tôi nghe trong một ngày đứng bên thành giếng nhà ông ngoại.

Khi tôi đi bộ đội về, việc làm đầu tiên của tôi là lên lại nhà ông ngoại đề tìm lại ngày tháng tuổi thơ. Kỷ niệm tốt tươi nhất trong đời tôi vẫn là ngày mồng một Tết, anh em tôi mặc quần áo mới chúc ông bà sống lâu muôn tuổi, để rồi được dì, cậu, ba mẹ “lì xì” những đồng tiền mới đựng trong phong bì đỏ chói. Nhưng rồi, tôi bàng hoàng nhận ra cái giếng ngày cũ đã không còn. Ngày tháng cũ đã mất. Chính vì thế, trong tập thơ “Yêu em, Đà Nẵng” có một đoạn tôi viết:

Em đi qua vườn bàn chân bước vội

Nén nhang thơm trên bàn thờ ông ngoại

Thơm hoài nỗi buồn về khuya...

Quay về tuổi thơ không còn ai

Chỉ gặp trên mái ngói tiếng chim  lăn dài

  Vì nhiều lý do, các dì, cậu đã bán một phần căn nhà cũ của ông bà ngoại và người mua đã lấp cái giếng ấy, lấy thêm đất dựng nhà. Kỷ niệm cũ của tôi đã chìm sâu dưới đất. Đã chìm sâu cả trò chơi của tuổi thơ:

Nào oẳn tù tì! Cái gì? Cái kéo

Cũng kéo co nhau ngày Tết đến rồi

Nồi bánh chưng cười con chim le lưỡi

Chơi trò chơi nhỏ em gọi Tết ơi!

Bây giờ cũng gọi Tết ơi! Nhưng lại thấy xa xăm quá đỗi...

Nay, tôi đã bước vào lứa tuổi biết “sợ Tết”. Bởi sợ thời gian đi qua nhanh quá đỗi. Dù vậy, giếng nước nhà ông ngoại vẫn còn trong văn vắt trong tâm tưởng của tôi. Tôi lại nhớ đến Tết giếng, chiều ba mươi tết bà ngoại tôi dán tờ vàng mã màu son rực rỡ trên thành giếng, trên đặt mâm quà Tết rồi khấn vái bà Thủy Long. Xong lễ, bà thả gầu xuống múc một gầu nước trong vắt để cúng đầu năm.

Làm sao có thể quên được câu thành ngữ: “Mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy”. Nhìn rộng ra, ta thấy, bao đời nay người ta dành ngày thiêng liêng nhất cho bên nội (cha), bên ngoại (mẹ) và thầy dạy nhằm thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” và “tôn sư trọng đạo”. Năm nay, tôi sẽ khai bút đầu Xuân như thế nào? Chưa rõ. Nhưng chắc chắn tôi tâm trí của tôi sẽ nhớ đến mấy câu thơ còn ghi trong gia phả:

Cây có gốc mới sinh ra ngọn
Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu
Người ta nguồn gốc từ đâu?
Có Tổ tiên trước rồi sau có mình
L.M.Q
(Tết năm Kỷ Sửu)

CÒN CHA GÓT ĐỎ NHƯ SON

Cha mẹ như núi Thái Sơn
Như nước trong nguồn nuôi con khôn lớn
Con lớn lên làm báo đời ngã ngớn
Làm kẻ tình si đi đứng giữa cõi đời

Đi đứng nghênh ngang huênh hoang tiếng cười
Con chạy rượt theo cuộc tình bạc bẽo
Ở quê  nhà cha già như trái héo
Cơn ho khan đục khoét hết đêm dài

Con vô tâm đi hết một đời trai
Trải vui buồn quay cuồng theo âm nhạc
Người tình phụ ném giọng cười khinh bạc
Con lại hào hoa đón nhận hết về mình

Lúc ấy cha nằm lắng đợi bước chân
Từng bước con về như thuở nào chập chững
Như lắng đợi từng phút giây linh ứng
Lìa khỏi trần gian nhắm mắt với xuôi tay

Con dửng dưng rượt đuổi cuộc tình dài
Nhan sắc đàn bà là đà qua trí nhớ
Quên bóng cha già kiệt dần từng hơi thở
Gọi con về gần trước lúc đi xa

Vĩnh biệt từ nay không còn gặp được cha
Con trở về nhà. Và lần đầu con khóc
Lần cuối cùng con rùng mình khi đọc
Câu ca thuở nào mẹ hát ru con:
Còn cha gót đỏ như son.

15.03.1991


MÙA XUÂN VỀ NHÀ CŨ


Trở về dưới mái nhà xưa
Chưa kịp chợp mắt cũng vừa chiêm bao
Tôi hiền như khói thuốc lào
Tan trong nhà cũ tôi chào tôi đây

Chào tôi nguyên vẹn chân tay
Mắt môi miệng mũi mặt mày còn tươi
Quay lui vui tuổi lên mười
Bỗng tôi xa lạ mấy mươi tuổi mình

Đèn soi trên vách lặng thinh
Giữa khuya sao ánh bình minh chói ngời
Tôi nhìn tôi khép nép ngồi
Trên thềm rêu mọc học bài dưới trăng

Ai lướt thướt bước trước sân
Không ai. Chỉ có bàn chân dế mèn
Vào phòng chào bức tường quen
Bàn tay tôi vịn nám đen đến giờ

Cúi đầu chào những giấc mơ
ôi về nhà cũ không ngờ gặp tôi
Gặp lại thơ ấu mừng vui
Cớ sao giọt lệ ngọt bùi ứa ra?


THƠ CỦA MẸ

Mẹ đã đi chợ về
Hồng tươi con cá quẫy
Như câu thơ ngũ ngôn
Nhịp nhàng và mềm mại
Kìa bài thơ thất ngôn
Là chùm đào trĩu trái
Tôi cầm đưa môi hôn
Nhớ quê nhà xa ngái
Kìa thơ tình cỏ dại
Là những bó rau xanh
Nằm trên bàn tay mẹ
Lem luốc bụi thị thành
Kìa vần thơ lục bát
Là những ký gạo ngon
Hạt ngọc từ xứ Quảng
Phiêu lạc đến Sài Gòn
Kìa bài thơ tứ tuyệt
Là nước mắm đậm đà
Từng giọt thơm điếc mũi
Sực nhớ lắm quê nhà
Mỗi ngày mẹ đi chợ
Đem về vô số thơ
Qua bài tay nội trợ
Cưu mang con từng giờ
Từng ngày trôi mải miết
Sống trọn vẹn với thơ
Nhưng thơ con  bất lực
Dù nuôi mẹ trong mơ
Trăm năm như chớp mắt
Mẹ đã đi chợ về

TẾT CỦA TUỔI THƠ

Tuổi thơ tôi đầy nắng
Mẹ dẫn đi chợ xa
Không qua sông lau trắng
Nhưng âm vang tiếng gà
Người đi như trẩy hội
Í ới gọi tên nhau
Cá tôm giẫy đành đạch
Bộn bề hoa với rau
Tôi lon ton theo sau
Mẹ tôi nhanh chân bước
Có mấy o tiểu thư
Mời mẹ mua gương lược
Không ven sông cỏ ướt
Sao lại gọi Chợ Cồn ?
Mời bà con mua “gộ” (*)
Tiếng rao nghe rất ngon
Nước mắm Nam Ô thơm
Khiến tôi thèm điếc mủi
Có ông ăn xin mù
Luộm thuộm cầm sáo thổi
Chạy theo mẹ chân mõi
Tôi đòi đến hàng chè
Đậu đen hay đậu ván ?
Ngọt lịm “ngậm mà nghe”
Phong bì Tết đỏ hoe
Bánh thuốc rê Cẩm Lệ
Hoa vạn thọ tròn xoe
Sao lại nhiều đến thế ?
Sợ trưa về nhà trễ
Mẹ nắm lấy tay tôi
Ngồi xích lô về ngoại
Nắng vàng lững thững rơi...
Tuổi thơ đã xa xôi
Bây giờ đi chợ Tết
Tôi lại dẫn mẹ tôi
Mua hàng trong “cốp-mắc” (**)

 

(*) gộ : gạo- phát âm theo kiểu của người dân Quảng Nam
(**) cốp-mắc : CO-OP mark


MẸ


Níu giữ anh ở lại với cuộc vui chỉ có thơ ?
Thơ viết viết hoa thì may ra
Chứ thơ viết thường cũng chẳng là gì cả
Nhưng anh là thi sĩ ?
Thi sĩ là ai quái quỷ ở cõi đời
Huống gì anh là kẻ lạc loài

Em ạ,
Níu giữ anh chỉ có thể bằng tiếng hát
Giai điệu dịu êm kỷ niệm thuở trai tơ
Anh lắng nghe với bao tà áo xanh đây mùa thu
Anh thổn thức lòng ta dăm con hạc gầy vút bay
Xòe ra mười ngón tay
Anh vuốt mặt và nghiêng chai xuống rót
Giọt rượu giọt bia giọt ái tình giọt đớn đau phiền muộn
Nốc cạn niềm vui lẫn lộn nỗi buồn
Anh ngồi lại mơ hồ tay vuốt mặt
Rưng rưng chiếc ghế cái mặt bàn ngổn ngang ly chén
Anh ngồi yên nghe từng nhịp đồng hồ
Trên đỉnh trời ngôi sao mọc như thơ
Chẳng là cái quái quỷ gì chỉ còn âm nhạc
Nhưng anh phải về
Chẳng có gì níu kéo anh rời khỏi cơn mê
Ngoài một điều duy nhất
Mẹ
Vâng, mẹ tựa cửa mẹ hiền lành mẹ nhẫn nại như đất
Chờ anh về từ lúc chiều đã khuất...

 

MẸ TÔI

Có những điều dễ nhớ lại mau quên
Đã cưu mang tôi sung túc ấm êm

Từng sống một thời trong nhung lụa
Có bao giờ biết mơ về về hạt lúa?

Hạt lúa to bằng cả bầu trời
Lại bé tẹo như chân lý mà thôi

Tôi đã lãng quên khi đầy đủ nhất
Hạt lúa giấu mình bình thường như sự thật

Tôi đã nhớ nhung lúc đói rã rời
Hạt lúa hiện về như một con người

Mỗi lúc cầm trên tay hạt lúa
Là tôi nghĩ đến mẹ tôi góa bụa


VẪN CÒN CÓ MẸ

(Tặng anh Bùi Nguyễn Kha, Khiêm và Tú)

Không gì bất hạnh hơn khi ta cài trên ngực đóa hồng
để suốt đời nhớ mẹ
dù thế nào ta cũng là đứa trẻ
một đứa trẻ cô đơn
suốt đời cô đơn
khi đã xa vòng tay của mẹ
lời kinh Phật là lời chia sẻ
nén nhang thơm đến tận cõi niết bàn
hương huệ thơm mênh mang
khiến ta buồn muốn khóc
mẹ tảo tần suốt một đời cực nhọc
để nuôi ta hoàn thiện trở thành người
trên đường đi, ta đã gặp hoa tươi
gặp tiếng cười, gặp niềm vui hạnh phúc
là lúc ấy mỗi ngày mẹ bạc tóc
âu lo nhìn theo mỗi bước ta đi
ta lớn lên xa vòng tay của mẹ nhu mì
ta xa những ngày mẹ một mình tựa cửa
ta đâu biết trong từng hơi mẹ thở
vẫn trái tim độ lượng gọi ta về
vẫn ân cần giọng nói
gọi tên ta ngay cả lúc ngủ mê
vẫn từng đêm chờ đợi
đợi ta về...
lúc ta quay về, mẹ đã đi xa
mẹ về hư không, mẹ về mây trắng
ta đã khóc bởi trong lòng trĩu nặng
muốn gọi mẹ ơi nhưng gọi đến bao giờ?
mẹ vẫn về trong mỗi lúc ta mơ
chở che cho ta trong đời thường mệt nhọc
đêm nay uống từng lời kinh Phật
ta ngước lên trời thấy từng giọt mưa rơi
giọt mưa rơi trên môi
mặn như nước mắt
ta đã nhủ lòng ta đừng khóc
sao vẫn còn đau nhói phía trái tim?

xin mẹ ngủ bình yên
trong cuộc đời ta vẫn còn có mẹ

 

MẸ

Khi con chim chích chòe hót vang ngọn cau
mẹ thức dậy ngồi bên bếp lửa
mùa đông xô vào cánh cửa
gió lạnh lẽo xẻo buốt xương
những cơn ho đục khoét hết đêm trường
mẹ trơ trọi biết lấy gì chống chọi?
giông bão đi qua
hằn vết nhăn trên trán mẹ già
con thơ dại trèo lên cây bưởi hái hoa
đỏng đảnh bước xuống vườn cà
đâu thấy bóng mẹ run lẩy bẩy
như một tàu chuối khô
cha con đã mỏi mệt bước giang hồ
trang sách đặt trên tay nghĩ ngợi
điếu thuốc lào lập lòe đêm tối
cát bụi cũng quạnh hiu
những đêm mưa ủ dột tiếng chim kêu
mẹ ru hời khắc khoải
mười tám tuổi con xa nhà đi bộ đội
đêm ngủ còn nghe mẹ gọi trong mơ
tiếng súng gầm lên trên trời Danrek
khúc dân ca rách nát
đồng đội con có người đã chết
còn há mồm để được gọi mẹ ơi!
đêm đêm con thắp ngọn sao trời
hỏi gà gáy ven sông
mẹ dậy lúc nào khi trời chưa kịp sáng
bếp lửa nhen lúc nào mà bây giờ còn ấm?
con hỏi chõng tre
từ lúc nào mẹ cựa mình thức trắng?
tưởng tượng một ngày kia
trăng treo trên vòm trời Đà Nẵng rất khuya
mẹ khỏe mạnh giã gạo
hương cau thơm rụng đầy sân nhà ông ngoại
thuở ấy mẹ mới về với cha
mới nghĩ vậy thôi con sung sướng khóc òa
một niềm vui vĩnh cửu...
 

GIẤC NGỦ CỦA MẸ

Có bao giờ mẹ ta ngủ hồn nhiên
Thanh thản nằm trên chõng tre sau bếp
Gió thổi nhức xương cuối mùa mưa rét
Mẹ cựa mình thao thức với chiêm bao

Mẹ ta nhớ nhiều cổ tích với ca dao
Dù chữ cắn đôi mẹ không biết đọc
Ta chưa thấy mẹ cười, chưa nghe mẹ khóc
Gương mắt dăm chiêu ngay lúc ngã lưng nằm

Ta lớn lên như cá lội biệt tăm
Xuôi ngược giữa dòng đời cay nghiệt
Có bao giờ mẹ được nằm trên bài thơ ta viết
Với những hương hoa phù phiếm ở trên đời

Ta cầm hương hoa đem vung vãi khắp nơi
Cho mối tình đầu, tình sâu, tình cuối
Thì lúc ấy mẹ ngồi trong bóng tối
Tựa cửa một mình chồng chọi với mùa đông

Ta lớn lên thắp triệu ngọn lửa hồng
Sưởi ấm trái tim bao tình-nhân-hóa-đá
Thì lúc ấy mẹ còng lưng quét lá
Khi đốt cháy lên không đủ ấm bàn tay

Đêm mẹ nằm co - ta nhớ cái cò gầy
Lặn lội bời sông, đầu ghềnh, cuối bãi
Đêm mẹ nằm nghiêng- ta nhớ dòng suối chảy
Lặng lẽ trôi qua giữa nóa động ồn ào

Bất chợt ta nhìn hai hố mắt mẹ sâu
Đã thấy sự lo toan, buồn phiền, mệt mỏi
Mẹ chỉ âm thầm và suốt đời lặng lẽ
Gương mắt đăm chiêu ngay lúc ngả lưng nằm

XUÂN AN MAY

DSCN0585b

(An May - Con gái út của em trai út)

Tuấn út nhà mình quả thật ngon,
Một chồng một vợ lại hai con.
Lương Thiện giữa trời như rừng thẳm,
Tâm Thảo trong nhà tựa núi non.
Trăm năm thân thế phù du mất,
Nghìn thuở gia phong vĩnh viễn còn.
Ân huệ trời cho An May đến,
Châu ngọc reo vang tiếng cười giòn.

LÊ MINH QUỐC



Sửa nhà ông ngoại (2013)

sua-nha-1

sua-nha-2

sua-nha-3-jpg

sua-nha-4

suanha-5

suanha-6

suanha-7

(Nguồn: Ảnh LÊ MINH TÂM)

"Căn nhà của một thời tuổi nhỏ sắp sửa biến mất. Mới đây coi hình đám giỗ còn thấy mấy hoa văn trên cửa sổ, cửa phòng lồi rất quen thuộc. Cái vườn căn nhà mới trùng vào cửa sổ bếp ngày xưa thông ra cây khế nhà bà Năm Lý. Chắc bà Năm Lý, cây khế và căn nhà tranh lụp xụp cũng biến mất lâu rồi".

(LÊ MINH TÂN - 13.III.2013)



* Nghi lễ đời người

Tôi vừa về Đà Nẳng dự tang lễ của cậu Lương Văn Thuận, em ruột mẹ tôi. Sau đây tôi post vài tấm hình liên quan đến "nghi lễ đời người" tại xứ Quảng. Hình ảnh này do anh Lê Minh Tâm cung cấp.

 

1.

Trong đám tang thường có hoa và liễn của người đi phúng điếu. Theo tôi, trong quan hệ dòng tộc, họ hàng, anh em... điều quan trọng là dòng chữ gì được chọn ghi lên tấm liễn đó? Bởi lẽ điều này sẽ nói lên tình cảm dành cho người đã khuất; cũng có thể là sự ghi nhận, đánh giá về người vừa về suối vàng.

Khi sống, ham hố, xông pha trên đường đời con người ta ít nghĩ đến điều này. Nếu nghĩ chu đáo, ta lại nhận ra đó là sự ràng buộc, sự nhắc nhở dẫu vô hình nhưng mình phải sống thế nào cho phải đạo làm người. Sự nhắc nhở này, đôi khi còn mạnh mẽ hơn cả một hệ thống pháp lý, văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước. Tại sao? Sự đánh giá, ghi nhận của một dòng tộc không chỉ dành cho người quá cố mà còn là con cháu họ nữa, qua cả đời sau. Nhân đây tôi lại sực nhớ đến câu chuyện của người bạn làm văn nghệ. Anh đã mất. Lúc còn sống, anh cũng tham gia đóng vài bộ phim, vai linh mục phản diện, bêu xấu đạo của mình. Khi mất, các cha xứ dứt khoát không cho an táng trong nghĩa địa của xứ đạo ấy. Với gia đình anh đây là sự đau đớn, tủi nhục nhất mà họ phải gánh chịu. Nó còn nặng nề gấp triệu lần cái án hữu hình của nhà nước. Chỉ còn bỏ xứ mà đi.

Thì ra, cái ràng buộc từ trong tâm thức, đời này qua đời nọ và trở thành nếp truyền thống của văn hóa thì sức mạnh của nó ghê gớm biết chừng. Chính nét văn hóa ấy đã giữ giềng mối cho đạo đức, sinh hoạt của một dòng tộc, nói rộng ra là cho cả một cộng đồng người trong một vùng lãnh thổ. Nói như thế vì con người ta, mọi thanh viên trong một gia đình, một dòng tộc phải tự giác tuân theo, làm theo quy ước chung. Chỉ có thể bằng một sự tự giác, chứ không phải do ràng buộc hoặc vì chế tài mà hệ thống pháp lý đã có văn bản quy định...

Với cậu Lương Văn Thuận, tộc Lương ở thôn Đông Tây (Hóa Đông), xã Đại An, huyện Đại Lộc (Quảng Nam) đã chọn câu liễn thống thiết: "Huyết thống đồng bi". Thế mới biết, người đã khuất được quý mến, yêu thương như thế nào.

 

HUY-T-TH-NG--NG-BIRR

Câu "Huyết thống đồng bi" của tộc Lương

 

Về phía gia đình tôi, mẹ tôi là chị ruột của cậu, chúng tôi có câu: "Cốt nhục tình thâm" thật là sự chan hòa máu thịt, vẹn toàn tình cảm như bát nước đầy.

 

cot-nhuc-tinh-thamRR

Câu "Cốt nhục tình thâm"

 

2.

Tương tự như trong đám tang của chị tôi, Lê Thị Ái cũng có đội khóc đưa tang đến, người dẫn đầu gọi là ""ông công". Trong những ngày "tang gia bối rối", tang chủ chọn thời khắc phù hợp và mời họ đến. Họ thành kính nhang đèn, hương khói rồi ngân nga ngâm, đọc một bài dài có câu có cú, có vần có điệu  khóc thương người đã khuất. So với lúc ông ngoại tôi mất cách đây chừng nửa thế kỷ thì sự ăn mặc, trang điểm của họ cũng giản đơn hơn nhiều. Tôi nhớ thời đó, ngay cả đôi giày của "ông công" và những người trong đội phải là đôi hia như diễn viên trong gánh hát bộ. Chiêng, trống... nhiều hơn; điệu bộ, động tác... đi đứng cũng phức tạp hơn v.v....

 

ong-cong-2

Hình ảnh "ông công" trong tang ma của người Quảng Nam - Đà Nẵng

 

Tôi không ghi lại bài than khóc này. Bởi lẽ, riêng tôi, tôi cảm nhận lời lẽ ấy đớn đau, buồn bã, bi đát, thê thảm quá... Ai mềm lòng, khi nghe sẽ sùi sùi khóc theo thôi. Tôi trộm nghĩ, liệu người còn sống có nên bi lụy vậy không? Trở về cát bụi, nghĩ cho cùng cũng là một chuyến ra đi cuối cùng, có điều chẳng một ai biết sẽ đi về đâu. Một khi đã không thể níu kéo được nữa, tôi nghĩ, cứ nhìn sự việc ấy nhẹ nhàng thì vẫn hay hơn. Ít ra là cho người đang sống vì vẫn phải tiếp tục sống; biết đâu còn hay cho cả người đã khuất vì họ đã nhẹ nhàng lui gót sau mấy mươi năm bươn chãi trên cõi trần này rồi. Được lui gót nghỉ ngơi, há chẳng phải là điều nhẹ nhàng cho "người đi kẻ ở" đó sao?

 

3.

Khi đưa xe tang sắp vào đến địa phận sẽ an táng người đã khuất, tất cả dừng lại và làm lễ "tế đầu trung". Ta có thể hiểu nôm na là lễ báo cáo với sơn thần, thổ địa cho người đã khuất được "định cư" tại vùng đất mới. Người thay mặt gia đình làm việc này cũng là "ông công". Lúc ấy, bàn thờ đặt bên lề đường, cũng có hoa quà, bánh trái, trà rượu... Tôi không rõ, lúc ấy "ông công" đã khấn những gì, nhưng quan sát thấy lễ này hết sức trang nghiêm. Thân nhân người khuất lần lượt thắp nhang và quỳ lạy thành kính. Sự việc này chỉ diễn ra chừng mươi phút, sau đó tất cả tiếp tục vào nghĩa trang.

 

DSCN0106-cu-thuan-1

Lễ tế đầu trung tại Quảng Nam - Đà Nẵng (2003)

 

4.

Lúc vào nghĩa trang, "ông công" vẫn tiếp tục giữ vai trò cần thiết lúc hạ huyệt. Tôi hiểu, sự khấn vái của ông ngoài phần nghi lễ còn nhằm mục đích giúp các tay đòn thực hiện các động tác nhịp nhàng. Nói cách khác đó là "khẩu lệnh" để các tay đòn tập trung cao độ và ăn ý với nhau.

 

DSCN0117Tthuan-2

Vai trò của "ông công" lúc bắt đầu hạ huyệt

 

5.

Cùng với lúc các tay đòn bắt đầu hạ huyệt, tôi quan sát thấy ngay sát với huyệt còn có một lễ khác, tuy phẩm vật sơ sài hơn lễ "tế đầu trung" nhưng cũng không kém phần trang nghiêm. Trên vuông chiếu, một người đàn ông khăn đóng áo dài, quỳ xuống và khấn. Tôi hiểu, đây cũng là một hình thức báo cáo với sơn thần, thổ địa, thành hoàng bổn xứ... cho người đã khuất được phép an cư tại nơi này.

Đọc kỹ bài khấn này, ta thấy không chỉ là xin thần linh, mà còn xin cả tiền nhân, người trần mắt thịt của bao đời trước đã đã có công khai khẩn vùng đất và cũng vùi thây tại nơi này. Tôi hiểu rằng, gọi như từ ngữ thời @ này, đó chắc chắn là lễ xin cho người đã khuất được "nhập hộ khẩu". Hiểu như thế để thấy dù cách biệt, nhưng dẫu "dương" hoặc "âm" thì vẫn có những quy định cụ thể... Bài khấn này đứng tên con trai đầu của người đã khuất. Đọc xong thì đốt. Toàn văn như sau:

 

DSCN0112-Thuan-3

Khấn thành hoàng bổn xứ trước lúc hạ huyệt

 

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Tuế thứ Quý tỵ niên

Đà Nẵng thành, Hòa Vang huyện, Hòa Sơn xã

Ngày 4 tháng 4 năm 2013 Quý tỵ niên

Tín chủ Lương Thạch Vũ

Cẩn dĩ kim ngân

Nhang đăng thanh chước

Hoa quả trà nước

Phù lang tửu

Chi lễ cung nghinh

Khai hoàn đại đế

Hậu thổ nguyên quân

Thổ địa phước đức chánh thần

Kim ngân hành khiển

Hành binh tôn thần

Ngũ phương thổ công

Tiền khai khẩn

Hậu khai canh khai cư

Thần long mạch

An thần dương thôn

Nhơn thần hương linh Lương Văn Thuận hưởng thọ 76 tuổi, chánh quán xã Đại An, huyện Đại Lộc (Quảng Nam), trú quán nhà số 17 Triệu Nữ Vương, quận Hải Châu 2; giờ hạ huyệt: 9 giờ ngày 4.4.2013 (nhằm ngày 24.2 Quý tỵ niên).

Xin cáo Thần hoàng bổn xứ : Xin gửi hương linh tại Nghĩa trang xã Hòa Sơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Bài này, dù chép lại đúng nguyên văn nhưng tôi ngờ rằng vẫn có một đôi chữ sai lệch. Lý do: Văn bản được truyền miệng từ đời này qua đời khác, tùy theo trí nhớ của người viết, người đọc. Chẳng hạn, câu "Thần hoàng bổn xứ" mà đúng ra phải là "Thành hoàng bổn xứ".

Thế nào là Thành hoàng? là thần chủ được tôn vinh theo tín ngưỡng thờ thần của cộng đồng dân cư làng xã Việt Nam truyền thống. Có Nhân thần (người thật được suy tôn), Nhiên thần (nhân vật huyền thoại được suy tôn) lại có cả Phúc thần... Tóm lại: "Đức Thành hoàng là "vị chỉ huy tối cao" không chỉ trong lĩnh vực tâm linh mà còn trong cả lãnh vực đời sống thực của cả cư dân làng xã truyền thống. Ngày nay, nghi lễ thờ cúng các Đức Thành hoàng gắn với truyền thống tốt đẹp của dân tộc vẫn được duy trì và là một nét đẹp trong bảo lưu các giá trị của nền văn hóa Việt Nam (Từ điển Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa - 2005 - tập 4, tr.155)

6.

Khi đã hạ huyệt, các nhà sư vẫn tiếp tục tụng kinh. Bấy giờ trên hòm có đặt lá phướng dài và hai đầu có hay tay đòn ngồi giữ lấy. Theo lệnh của nhà sư họ lần lượt lật úp, ngửa lá phướng ấy nhiều lần. Cụ thể là mấy lần? Tôi không biết rõ nhưng có thể đoán rằng con số ấy phụ thuộc theo quan niệm về vía của người Việt Nam chăng? Theo đó, đàn ông 7 vía, đàn bà 9 vía. Sau đó, lá phướng này cũng đốt đi. Mọi việc xem như đã hoàn tất.

Lẽ ra, tôi phải cung cấp cho mọi người biết, những dòng chữ gì ghi trên lá phướng đó. Do không đọc được chữ Hán nên tôi đành chịu. Đành mong các bậc cao minh bổ sung cho.

 

DSCN0128-Thuan-5

 

Sau khi đã mồ yên mả đẹp thì có lễ mở cửa mả. Phong tục này, các vùng miền khác, cũng tương tự.

 

DSCN0133.Thuanjpg

Toàn cảnh nghĩa trang Hòa Sơn (2013) nhìn từ phần mộ ông Lương Văn Thuận

 

L.M.Q


Bổ sung:

Về thắc mắc: "Lẽ ra, tôi phải cung cấp cho mọi người biết, những dòng chữ gì ghi trên lá phướng đó. Do không đọc được chữ Hán nên tôi đành chịu. Đành mong các bậc cao minh bổ sung cho", nay bổ sung như sau:

"Trước khi tâm liệm ông Thầy (nhà sư) viết một lá triệu trên giấy đỏ, dùng phấn trắng để viết. Câu triệu viết bằng chữ Nho, dịch ra Quốc ngữ là: "Nam Mô Tống Dẫn Đạo Sư A di Đà Phật Pháp Quang Tiếp Độ Phật Tử (...) Pháp Danh (...) Hưởng Thọ (...) Chi Linh Cữu".


LAM-TUAN-C-U-THUAN-R

Lễ làm tuần tại Quảng Nam - Đà Nẵng

 

Lá triệu này trước treo trước linh cữu suốt đám tang. Khi đi chôn, ông Thầy sẽ đọc 3 lần. Sau đó người phụ việc rút ra phía đằng chân và đem vò vất đi.

Chú ý: Trước khi hạ huyệt ông Thầy dùng cây phương trượng viết 3 chữ Nho dưới đáy huyệt đã được rải một  lớp cát trắng. Ba chữ đó là Án Dạ Hồng và đọc một câu kệ, câu kệ đại ý làm phép trừ tà ma, những vong linh khác không vào chiếm cứ huyệt mộ .

Sau đám ma của mỗi tuần làm một lễ cầu siêu, lễ vật dâng 2 bàn:

Một mâm cơm chay, có một bình trà ở bàn thờ người quá cố. Con trai trường đội sớ (viết bằng chữ Nho), nội dung như sau: "Gia đình nam nữ đại tiểu đẳng cầu xin cho hương hồn ông mau siêu thoát". Đọc xong sớ, ông Thầy cho đốt lá sớ. Gia đình lạy 4 lạy .

Một mâm 2 tầng, đặt ở phía trước nhà. Tầng trên gồm chè xôi trà rượu và quà vật từ đất để cúng thổ thần đất đai. Tầng thấp hơn dành cho âm hồn lang thang vất vưởng và lễ vật phóng sinh (chim sống).

Đốt giấy tiền vàng mã, rải hột nổ, muối gạo. Gia đình lạy tạ 4 lạy.

 

tuamR

Làm tuần cậu Lương Văn Thuận tại Đà Nẵng, chú ý ta thấy có hai bàn cao và thấp

 

Làm 7 tuần:

Toàn gia nam nữ quỳ trước bàn thờ Thầy đọc sớ (con trai trưởng đội sớ).

Con trai trưởng dâng sớ trước bàn thờ thổ thần (cao) và âm hồn vất vưởng (thấp), thùng giấy có chứa chim phóng sinh.

Bài sớ dâng lên nội dung cầu xin cho vong hồn người quá cố mau siêu thoát .


LÊ MINH TÂM



Thiết lập bàn thờ tổ tiên tộc Lương tại Đà Nẵng

NGÀY 12 THÁNG 3 ÂM LỊCH (21.4.2013) , SAU 40 NGÀY LÀM XÂY CẤT. GIAN THỜ ĐÃ HOÀN TẤT, ANH EM, BÀ CON, HỌ HÀNG CÙNG NHAU THIẾT ĐẶT LẠI BÀN THỜ TỔ TIÊN HỌ LƯƠNG (BÊN NGOẠI ).

ban-tho-truoc-khi-xay-nha-moi

Bàn thờ Tổ tiên tộc Lương tại Đà Nẵng trước khi xây mới

ngay-ky-to-tien

ngay-ky-to-tien-2

 

Thông tin về ngày giỗ kỵ Nội và Ngoại của dòng tộc Lương tại Đà Nẵng

 

mm-cng-th--thn

Mâm cúng thổ thần đất đai lúc làm lễ thiết lập bàn thờ tộc Lương tại Đà Nẵng

 

nha-su-doc-kinh

Nhà sư Thích Thiện Tâm đọc kinh, dâng sớ thỉnh cầu tổ tiên theo nghi thức

 

so-cung

Lương Thạch Viễn - con út của cậu Lương Văn Thuận cầm sớ

 

so-cung-tho-than

Lê Minh Tâm cầm sớ điệp thỉnh cầu tổ tiên

 

van-bnan

Văn bản sớ điệp thổ thần và thập loại chúng sinh

mi-u-tho-ba-co-R

Am thờ Bà Cô tại nhà thờ tộc Lương ở Đà Nẵng

Ảnh: LÊ MINH TÂM


Giỗ tộc Lương tại Quảng Nam

 

Hằng năm vào ngày 20 Âm lịch, toàn tộc họ Lương tại thôn Hóa Đông, xã Quảng Huế, huyện Đại Lộc (Quảng Nam) tổ chức đại hội tộc. Có mấy điều ghi nhận sơ lược như sau:

Các vị bô lão trong họ cho biết, nhằm không gây khó khăn trong cuộc sống thường nhật của con cháu các nơi, Hội đồng gia tộc quyết định 3 năm/ một lần tổ chức lớn, có tính chất đại hội. Nghi lễ chung là cúng tế trong 2 ngày để con cháu các nơi có thời gian trở về sum họp đông đủ. Dịp này, các phụ nữ dâu con tự giác về quê trước một ngày, cùng chung tay gánh vác chuyện bếp núc.

Các bô lão đại diện các chi phái, khăn đóng áo dài tế trước bàn thờ tổ tiên theo nghi lễ, có tiếng trống, chiêng và dàn nhạc bát âm. Ông trưởng tộc là chủ tế.

Ngoài con cháu tộc Lương, Ban Tổ chức còn mời thêm một số quan khách gồm chính quyền địa phương, những tộc họ bạn... Con cháu cũng có thể mời bạn bè về cùng chung vui với tộc mình .

Những năm kế theo sau, tất nhiên cũng có đại hội tộc nhưng chỉ là tiệc vừa, nhưng thực tế vẫn mâm cao cổ đầy.

Năm tổ chức đại hội được quy định là những năm: Thìn - Mùi - Tuất - Sửu. Chẳng hạn, năm Giáp THÌN (2192) đại hội thì ba năm sau, năm Ất Mùi (2015) sẽ tổ chức lại.

Có một điều lý thú ở tộc Lương là trong những ngày tổ chức giỗ tộc, các con cháu bên ngoại có phần được "ưu tiên" hơn, quan tâm hơn, bởi quan niệm đã là dâu, rể cũng là ruột thịt, con cháu thuộc dòng tộc nên không có sự phân biệt đối xử. Chính quan niệm cởi mỡ này đã tạo mối liên kết của các thành viên trong gia tộc luôn gắn bó, yêu thương, chia ngọt xẻ bùi...

Đến nay, ngày giỗ tộc Lương vẫn duy trì tổ chức đều đặn hằng năm với tình thâm ấm cúng từ trong tộc và tạo được tình đoàn kết với các tộc họ khác trong cùng địa phương.

SAM_0815

Nhà thờ tộc Lương tại Đại Lộc (Quảng Nam)

SAM_0803

Gian thờ chính tại Nhà thờ tộc Lương ở Đại Lộc (Quảng Nam)

SAM_0779

Phần mộ Tiền hiền tộc Lương tại Đại An, Đại Lộc (Quảng Nam)


anh-nay-_0789

Lương Thạch Viễn (cháu nội) & Lê Minh Tâm (cháu ngoại) trước mộ Tiền hiền tộc Lương

 

LÊ MINH TÂM


Trùng tu nhà thờ tộc Lê tại thôn Kỳ Vỹ - Gia Khánh - Ninh Bình (này xã Ninh Nhất -TP. Ninh Bình)


nha-tho-toc-LeR

Nhà thờ tộc Lê tại Ninh Bình

tay-phaiR

Từ ngoài nhìn vào - phía tay phải

tay-traiR

Từ ngoài nhìn vào - phía tay trái

an-tho-chnh-trong-nha-tho

Bàn thờ chính

bia-trog-nha-tho-1895-R

Tấm bia cổ từ năm 1895 tại nhà thờ tộc Lê

liet-si-R

Bia thờ Liệt sĩ trong nhà thờ tộc Lê

thay-cung-le-nha-tho-R

Nhà sư cúng trong ngày lễ trùng tu nhà thờ tộc Lê

mobato-co-R

Mộ Bà Tổ Cô ở Ninh Bình

moongnoiR

Mộ ông nội

mo-ba-noiR

Mộ bà nội

nha-tho-toc-le-LMT

Lê Minh Tâm tại bàn thờ chính ở nhà thờ  tộc Lê ở Ninh Bình (5.2103)


Đám tang mợ Lý 

 

11150955_753224691442596_2138875516630121264_ndamtang-mo-L

 

Chồng Cô vợ Cậu chông Dì
Ba người ấy chết ta thì không tang .

Sao Mợ Lý chết con và anh Lương phải vào để tang cho Mợ hả mẹ ?

"Bọn bây lớn già rồi nhưng không hiễu hết đâu, để Mẹ nói cho mà nghe . Hồi lấy nhau Ba Mẹ mới lấy nhau cực lắm . Ông Bà Ngoại hồi cư về Đà Nẵng mua được miếng đất xóm Tân Thành bây chừ đó . Ông Cửu bên Phổ Đà - Phan Châu Trinh , dở nhà làm nhà gạch, kêu ông ngoại qua cho cái xác nhà tranh. Mấy Cậu và Ba bọn mi rủ thêm mấy người qua khiêng về. Ông ngoại mua thêm tranh phên lợp lại gia đinh mình tá túc". " Mẹ nói sao chứ đường đâu mà khiêng cái nhà to đùng về được?". "Bon con không biết hồi mới hồi cư về nhà cửa thưa thớt lắm, xa xa mới có cái nhà, đâu khoảng 1955 - 1956. Ông Ngoại, Ba mi và mấy Cậu xúm khiêng cái nhà băng qua đất trống về".

Tôi mường tượng được Đà Nẵng 60 năm về trước còn hoang vắng hơn những xóm nhà ở Hoà Phú - Hoà Ninh - Hòa Vang bay giờ.

"Mẹ, ba giờ sáng đã xuống chợ Hàn mua rau hành củ quả , cùng dì Ba dọn ra bán lẻ .Em, đứa nào cũng còn nhỏ chưa làm nên cơm cháo chi . Mẹ và Dì Ba phụ ông bà Ngoại nuôi mấy dì và mấy Cậu. Ba mi biết hớt tóc, hằng ngày xuống bờ sông Hàn che bạt kê ghế hớt tóc bình dân, cũng kiếm được tiền. Lần hồi khá giả lại chuyễn qua làm thuốc. Hồi ấy đói ăn đói thuốc, người ta bệnh nhiều. Ba mi có nghề y tá học được khi vào lính . Ba mi là y tá trưởng phụ mổ bác sỉ nên nghề nghiệp cũng uy tín. Hằng ngày đi tiêm thuốc chửa bệnh cho người ta lấy thù lao. Mẹ thử hỏi 3 người làm để nuối cả nhà lấm sao dư dả được?.

Cậu Bảo cũng vừa lấy vợ , Mợ Lý theo Mẹ (Bà Khoá) buôn bán ở Tam Ký  Cậu Bảo vào làm trong nhà máy đèn Quảng Ngãi. Cậu làm thợ máy, sửa những cái máy nhà đèn to như chiếc xe hơi. Chồng một nơi vợ một nẻo.

Những ngày về thăm ông Ngoại thấy tình cảnh gia đình nhà ông Ngoại, Cậu Mợ nhận 2 đứa bây vào nuôi . Nhưng Ba bây chỉ gởi anh Lương đi thôi. Còn mi ở nhà với cha mẹ và mấy em...

Mợ Lý là một người phụ nữ tuyệt vời, được sinh trưởng trong gia đình nho giáo. Mẹ nghe ông gia Cậu Bảo hay chữ lắm. Người ta không gọi tên thật mà gọi là Ông Khoá bà Khoá. Ai cũng cung kính nể vì. Khi về với Cậu ở Nhà đèn cậu lên chức cai thợ máy. Ổng coi tới hơn thợ máy lận , nên lương cao . Chính phủ cho nhà ở trong Nhà máy đèn luôn. Điện nước miển phí .

Mợ nấu ăn rất ngon . Mợ tổ chức nấu cơm tháng cho nhân viên độc thân ở nhà máy. Hồi ấy quanh nhà máy có lính gác. Mợ cũng nhận nấu cơm cho mấy cậu lính này. Rồi nấu bún, bánh canh, bánh bèo, bánh ướt, bún suông... bán điểm tâm. Nhà bếp của Cậu Mợ giống như một câu lạc bộ. Bia, thuốc lá, nướt ngọt . mấy cậu ấy vào khi nào cũng được phục vụ. Giá lại rẻ hơn bên ngoài. Nên Mợ ngoài công việc lo cơm nước cho chồng con, cũng dư dả hơn Mẹ và dì Ba ngoài này .

damtang-mo-Ly-RTừ trái: Dũng, Tuyết, Nguyệt, Hùng và Lương

Không những Cậu Mợ nuôi anh Lương mà còn nuôi Sơn và Long con chị Xáng của Mợ nữa" .

"Mợ có nuôi con không?". "Có đó - gián tiếp nuôi mà con không biết . Những lần thăm ông Ngoại Cậu Mợ dấm dúi ít tiền giúp Ba Mẹ nuôi con. Làm sao con biết được nếu Mẹ không nói ra. Con ăn học trường tư tốn kém lắm".

"Con chỉ nhở hồi nhỏ vào dịp hè được Cậu gởi xe xăng hay đổ dầu trong nhà máy chở vào. Chú Mãi xe xăng như người nhà mỗi lần đi là ghé nhà đón. Ôi những ngày hè tuyệt vời của con trong Nhà Máy Đèn. Ăn uống không thiếu món chi. Chơi rông,  ra tắm hồ nước nóng giải nhiệt của nhà máy. Phơi xà lỏn trước cái quạt to đùng của mấy cái máy làm nguội bằng gió... Những lần Cậu chở đi chơi không thể nào quên. Thiên Ấn niêm hà - La Hà thạch trận - Cổ Luỹ cô thôn ... Đầu óc non nớt của cậu học trò lớp thất lục của con hồi ấy rộng mở hơn ngàn trang sách... Những lần đi chơi về là được Mợ cho ăn một món. Món nào đối với con cũng là cao lương mỹ vị. Bánh canh cua... Bún suông cá thu ... Bánh bèo nhân tôm chấy  Ở nhà làm chi có ngoài xôi và cơm...!

Con còn nhớ khi lớn khôn mỗi lần vào thăm, Cậu Mợ cũng được Mợ tự tay đi mua mang về những tô Don nóng hổi cay xè, ăn với bánh tráng bẻ vụn. Bây giờ đôi lúc cũng ăn lại món này nhưng cái vị của hàng quán nó nhạt nhẻo làm sao chắc là không có bằng tay Mợ bưng vào.

Những lỗi lầm sai trái non dại của con ở Quảng Ngãi cậu Mợ chẳng bao giờ nói đến như làm lơ đi, nhưng thật ra những lần gặp mặt Mẹ, Mợ nhắc lại để Ba Mẹ dạy dỗ con. Con chợt tỉnh ra và nhớ mãi đến bây giờ lối giáo dục của Cậu Mợ nó êm dịu và càng ngẫm càng thương Cậu Mợ và càng khôn hơn...

Những năm tháng khổ cực rồi cũng qua, Ba Mẹ làm ăn dần đàn khá. Anh Lương về lại Đà Nẵng  Gia đình Cậu cũng đông con... Năm tháng dần qua ... Tình nghĩa càng gắn chặc .

Cậu qua đời sớm , Cậu không nhìn thấy những đứa em con thành đạt. Kỉ sư bác sỉ, giáo viên, hoạ sỉ... Các em con được nên người chắc là nhờ sự giáo dục " Êm Đềm " - con cho là vậy - của Cậu Mợ. Chúng con ngoài này ít thành đạt hơn nhưng không bao giờ làm hổ thẹn đến thanh danh gia đình.. Cậu Mợ

Con nghe lời Mẹ vào phục tang cho Mợ đây .

damtang-mo-Ly2-R

Một đứa Cháu không máu mủ ruột thịt vào Quảng Ngãi để tang cho Mợ, thay lời cầu nguyện Mợ được sớm thanh thản nhàn du tiên cảnh .

LÊ MINH TÂM

 


Chia sẻ liên kết này...


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

may tinh bang-dien thoai vo go-sửa nhà

máy tính bảng-vỏ gỗ-sửa chữa nhà