YẾN LAN: TUYỂN TẬP TỨ TUYỆT YẾN LAN (V)

NHA-THO-YEN-LAN-THO-VIET-NHO-TRUONG

 

 

Tiếng dế

Tiếng dế vang lên ấm góc nhà
Lửng lơ pha loãng điệu tình ca
Thương ai lẻ chiếc trong đêm vắng
Lòng mãi chao nghiêng bóng nguyệt tà
13/2/1998

 

Trưa đồi

Thôn nhỏ, đồi trưa cản gió nồm
Không gian lãng đảng một mùi thơm
Cau chưa nứt bẹ, cam chờ bói
Đàn sẻ đâu về sục đống rơm
10/1982

 

Tiễn đưa

Nhành liễu xưa thường vẻ trong thơ văn
Tôi đang nhận bên bờ hồ thủy điện
Vệt nắng đọng trên bàn tay đưa tiễn
Lung linh thành một giải sông Ngân
08/4/1991

 

Từ giã Hà Tiên nhớ Đông Hồ

Qua cầu Rạch giá khuất tầm trông
Đành gửi sau xe mấy đoạn lòng
Từ bấy quê hương liền xứ bạn
Mỗi câu non nước gợn Hồ Đông

 

Tình ca quanh hồ

Hóa ra em đó, giữa liên hoan
Cô gái thợ xây rót giọng vàng
Trộn với tình thương đêm hát tiễn
Tình ca tím cả góc không gian

07/8/1992

 

Trông chừng

Trăng chếch đầu non, chó sủa dưng
Nồm phăng lá trúc lọt rèm sương
Động tình quả phụ đêm tàn muộn
Chẳng có quen thân vẫn ngóng chừng

05/6/1992

 

Thung lũng mưa

Thung Nam mây, thung Bắc cũng mây
Gió tiếc thung Đông cát sỏi bày
Tiếng mỏ trâu đàn khua tán loạn
Cơn mưa vần vũ ở thung Tây

08/10/1990

 

Thơ bên giường bệnh

Thoáng vọng quanh vườn mấy tiếng quyên
Lánh la như nén tự lòng đêm
Ân tình vướng víu chưa đi vội
Nợ đất trời mang chửa kịp đền
24/5/1997

 

Tiếng khèn đám ma

Bi thảm kèn đồng khóc đám ma
Lắng như mời mọc lúc gần xa
Xoắn tay người sống chưa bồi trúc
Nhà bốn tầng cao vẫn lạ nhà
21/2/1998

 

Tiếng khua đêm

Xóm nhỏ nhà tranh đôi mái sương
Cây rơm đống mạ cúi nhìn mương
Canh ba chưa kịp mang hồi mỏ
Tiếng gậy lùa dê đã mở đường
27/2/1998

 

Thơ không rời rạc

Bấm tay mình đã tám mươi hai
Ước được theo thơ dạo xóm ngoài
Bút chẳng hề ngưng dòng cảm khái
Tình quê về hiện giữa sương mai
07/6/1997

 

Tung và hứng

Quả bóng người tung, kẻ hứng chuyền
Trò chơi thành một cuộc giao duyên
Em trong song cửa, anh ngoài cửa
Bốn mắt dè nhau hỏi ước nguyền

10/1993

 

Trả công

Hàm tiếu hay là nụ bán khai
Ước hoa trước hết nở cho ai
Hỏi người cần mẫn chăm hương sắc
Phong cách cần nơi trọng đức tài
12/9/1997

 

Thu tàn

Chuyên tay ta rót chén hoàng hoa
Vị đắng mùi thơm hợp tuổi già
Ngày tháng không vì người chậm lại
Thu tàn cúc đã héo năm ba
05/6/1998

 

Thổn thức

Tội nghiệp bài thơ đọc nửa chừng
Toàn câu tâm sự nét rưng rưng
Đêm nay tôi, bạn không ai ngủ
Có nói nhau thêm cũng ngập ngừng
12/12/1997

 

Thơ không cùng

Ngày tháng soi chung gương chẳng mờ
Bút xoay vần nối rộng hồn thơ
Chỉ thương mái tóc dài vô vọng
Vén mãi chưa thành chuyện ước mơ
22/9/1997

 

Tiếng chuông ngày cũ

Tám tư về lại ở An Nhơn
Phố cũ người xưa chẳng mấy còn
Đêm đến nằm nghe cành liễu phất
Còn nhìn quen thuộc tiếng chuông bon
03/6/1998

 

Thư ngắn

Con về cô bác có vui không
Chài lưới hay đây đất cấy trồng
Giặc tiến giặc lùi thơ chẳng nói
Chỉ nghe bổi hổi một dòng sông
4/1974

 

Thăm nhà sơ tán cũ
Nhớ nơi sơ tán tạt về thăm
Giống mới vun cao chỗ cũ nằm
Mới biết lương nhà nông cũng rộng
Cho thơ xây tứ, hạt lên mầm
Hà Tây, 01/1974

 

Tít tắt

Sáng ra tu hú gọi qua nhà
Có khách Tây nguyên đến biếu trà
Cảm chút tình thâm không nở chối
Gọi con đun nước chóng đem pha
07/9/1998

 

Trò giữa chợ

Chen chúc đám đông nhìn
Múa may đoàn mãi võ
Cái giá của niềm tin
Hạ dần theo buổi chợ

 

Trăng chín

Đò trôi lấy bẩy nước xuôi dòng
Trăng bỏ đầu cành rụng xuống sông
Đôi tiếng ếch kêu từ gốc bẹ
Đáp vào rung lạnh mái chèo cong

 

Thanh minh

Mười tám năm xa phần mộ mẹ
Chị gần sức yếu khó tìm thăm
Cậy dành bụi chuối lâu không phát
Gọp hộ nhành gai phủ bóng dâm
03/7/1974

 

Trụ lại

Lều dựng bìa thôn, bến nước đầy
Chiều con én liệng, sớm cò bay
Bèo trôi ra biển, mây rời núi
Phiền muộn sao còn trụ mãi đây.

 

Trải lá

Trải lá lòng ta ngút nhớ thương
Đón xa vời vợi nết hoa hương
Động cảnh nhạc cũ-thay cung bậc
Ý mởn rung rinh khắp nẻo đường.

 

Tiếng võng ru

Ai giải dùm ta tiếng võng đưa
Của bao người mẹ tự bao giờ
Những chiều năm xửa, năm xưa ấy
Trong lúc ngoài trời lén đổ mưa.

 

Trăng lối cũ

Xe hoa hư ảnh khuất bên tường
Trở lại tiền–thân- nét phấn hương
Men rượu quan hà, sương kỵ mã
Thôi còn hoen ố nụ văn chương

 

Trong xóm nhỏ

Xóm nhỏ, nhà xưa, mấy khóm tre
Đường cong phưng phức nụ hoa chè
Cốm rang trong bếp giòn như pháo
Em đến xua gà chị chẳng nghe


Trong vườn cam

Nghe gió, phong lan bóng rượu đào
Ngưng cung đàn nguyệt, én bay cao
Trong thôn trống giục-trăng vào hội
Rộn giữa vườn cam-đỏ tiếng chào.


Tiếng chuông xóm núi

Ghé thăm chùa cổ, gặp sư già
Nhận khách đồng hương hỏi chuyện nhà
Xóm núi chiều nay kinh kệ vắng
Lòng sư còn bận nhớ quê xa.

 

Tháng ba bến cảng

Tháng ba, bến cảng ráng mưa vàng
Tàu phía trời Âu đến đổi hàng
Chiếc cẩu hiểu sâu lòng đất Việt
Xúc đầy tiếng hát trộn trong than.

 

Thăm nhà bảo tàng Tây Sơn

Bảo hộ liệt vào phường giặc cỏ
Nam Triều lên án chém Quang Trung
Tây Sơn vẫn trải dày biên sử
Tụ lại hôm nay tượng khí hùng.
1.1979


Tiễn bạn vừa gặp lại

Mấy đêm tâm sự nói cho vừa
Mới đó mời chào đã tiễn đưa
Giá được sớm nay làm gió bấc
Đẩy anh mau tới quãng đường khô.

 

Thăm Vật Lại

Thăm cây đa Bác, người trung du
Xuống Nhổn tìm ao cá Bác Hồ
Từng tất đất son, tình gắn bó
Bóng cây, con cá Bác dành cho

 

Thiếu sáng

Điện cắt rồi, ngồi nán lại trong đêm
Đi mò mẫm e va vào ghế tủ
Ta ở đâu, thơ ắt biết chỗ tìm
Chỉ lo giấy bỏ lọt ngoài con chữ.

 

Tin tưởng

Lần trước thăm em đậu mới lên giàn
Lần này đậu đã sai oằn trước gió
Anh không kịp ngắm hoa vàng đậu nở
Vẫn tin em kết đậu đất khô cằn


Tua rua

Tựa hiên cắn chắt hạt đầu mùa
Sân chất đầy rơm vụ lúa thu
Làm ánh sao mai anh đợi mãi
Tình em nhấp nhánh với sao rua
20.9.1993

 

Trà Thái Nguyên bán ở vỉa hè Hà Nội

Trà Thái xuôi về bán dọc hè
Kẻ pha, người nhấm, lắc đầu chê
Xót thay phẩm chất đầu hương vị
Bị tước danh truyền bởi đám “phe”

 

Thư vội

Ngày tháng không đề, địa chỉ không
Nửa trang chữ đọc rõ đôi dòng
Biết con, chữ viết trong mưa núi
Mà ấm lòng cha suốt tiết đông.
8.1972

 

Trẻ con xem trăng

Trẻ xem tranh cá đớp trăng vàng
Đớp mãi mà trăng vẫn cứ trăng
Ơi cá, nghĩ gì không quẫy nước
Sục lên bùn nhớt lấy mồi ăn.


Tiếc một ấm trà

Ấm nước chưa sôi lửa đã tàn
Bình trà pha loãng ngái mùa trăng
Tiếc ai Việt Bắc quà ngon tặng
Đâu nghĩ rừng già kiệt củi than.
11.1987

 

Trời hạn

Chống hạn đào mương xẻng cuốc quằn
Đất cằn thêm nẻ nếp da nhăn
Phải chi sấm chuyển cơn giông đến
Con cóc gào mưa đỡ nghiến răng.
10.1989

 

Trưa bệnh viện

Lầu hai bệnh viện gió thu quàng
Dừa quyệt bao lơn động khẽ khàng
Khu nội thở đều trong giấc ngủ
Bóng tà áo trắng trực chân thang.


Thềm nhà phía Nam

Ngấp nghé hiên Tây mấy khóm hồng
Nhài đơm giậu Bắc, lựu tường Đông
Yêu hoa há để thềm Nam trống
Đêm mộng mai vàng đến trổ bông

Tránh rét

Mỗi bận vào đông mở cửa nhìn
Vẫn hồi gió bấc tạt vào hiên
Nửa toan tránh rét nhà quay hướng
Nửa ngại cô đơn bạn láng giềng.
10.5.1982


Tỉa mai

Vạch lá đầu mùa để đón hoa
Biết trong chồi biếc sắc vàng pha
Bao nhiêu đau đớn cành mai chịu
Đợi với trời xanh rực bóng nhà.
14.2.1998


Tu hú

(Tiếng tút tút của con tu hú gọi hè
Rắc hoa gạo rừng đỏ khắp lòng khe
(Trích thơ Lâm Huy Nhuận)

Cùng chim tu hú hẹn bao giờ
Tuổi nhỏ con chưa rời Thủ Đô
Nay chiến trường xa tìm đến gặp
Rắc màu hoa gạo đỏ trong thơ.


Trên bờ Hắc Hải ở Pitxunđa

Tuyết lạc vài bông đậu cánh màn
Hải đăng từng vệt quét rừng dương
Dọc bờ biển xám lau xơ xác
Tiếng sủa mơ hồ lũ chó hoang.
20.4.1990

 

Tiếng chim báo khách

Chim khách không còn báo khách xa
Đã nên thường lệ đậu bên nhà
Sáng bên ấy lại, chiều ta đến
Giờ biết chờ ai bạn thứ ba.
10.1993


Tổn thương

Cây dó bị tổn thương
Chữa lành ra trầm hương
Con người cơn tự ái
Cuộn mình trong cô đơn.
10.1994

 

Tìm con

Chiều qua gió dập tổ chim non
Mẹ mải tìm mồi để mất con
Tối đến nương sao bươi cát sạn
Nhặt từng mảnh vụn của hoàng hôn.

 

Tơ đàn

Người nghệ nhân theo nấc tiếng đàn
Rải cùng chợ búa bước lang thang
Nửa đêm tỉnh giấc đầu hiên quán
Sờ lạnh đường tơ một ánh trăng.

 

Tuyết ở Dresden

Tuyết đang mùa, vội vã tuyết bay
Hàn lên mái phố, nén vào cây
Chúa Đông như dốc toàn uy lực
Dìm trọn dân gian dưới tuyết dày

 

Uống trà trên Đảo

Nương cánh thuyền thư ghé ngọc vừng
Chuyện xưa, pha cạn trọn gói chè Vân
Vẳng nghe “Sát thát” hô đầu sóng
Nhắp giọng nghe nồng vị đại dương
11/1970


Uống trà thức đêm

Trà đậm kéo đêm dài
Lòng không bận nhớ ai
Lắng chừng bên hàng xóm
Đom đóm rọi vườn mai


Vọng Phu

Đi đến đâu nghe có tích vọng phu
Thương mảnh đất không dưng thành góa bụa
Người đã chết có bao giờ về nữa
Người đã không về ước vọng hóa phù du
2/1990

 

Về một đế hoa đào

Ngựa hý rừng thông rụng hạt châu
Từ xa, Đà Lạt vẫy hoa chào
Ô hay, vẫn đấy đào xuân thắm
Ra Bắc, về Nam vẫn có nhau
6/1980

 

Viếng chùa Linh Sơn Phù Cát

Vạch gai tìm lại dấu chân nhân
Ráng đọng chiều vương lớp bụi trần
Con suối ngày xưa doanh điện Phật
Luồn mây hòa xuống xóm ngư dân
12.1989

 

Vô đề (1)

Nuối tiếc làm chi chiếc gậy tà
Tám mươi đâu ngại phải đi xa
Ghé chân bên giậu anh hàng xóm
Chẳng lẻ mình ta dắt lấy ta

 

Vào hè

Nắng thâu dần ngắn bóng lùm tre
Con cuốc đâu đây vẳng tiếng hè
Xếp mảnh chăn bông chưa cất vội
Sự đời đêm ngẫm dạ còn se

 

Vắng mèo

Nhà thiếu thức ăn chuột chạy quàng
Tranh nhau một mẫu nhỏ khoai lang
Nền nhà bỗng hóa nơi tranh chấp
Mới vắng vài hôm chú mẻo vào
10/7/1998

 

Viết ở Sa Thầy

Mưa tạnh, cây bày, trời sắp quang
Ngầm sông, đây lúc lũ nguồn dâng
Xe đi hướng khác rền sau núi
Biết vậy tin nhà vẫn ngóng sang
07/6/1992


Vững bước

Cố gắng vươn lên nống bước lùi
Ngày thường hữu sự sống càng vui
Văn chương thường vốn ưa lưu biệt
Những muốn mang lên góp sổ trời
14/8/1998

 

Về lại quê sau giải phóng

Khó trụ vườn xưa để đợi mình
Chồi lim gốc mít lẫn gio tranh
Chỉ riêng phảng phất hương thời trẻ
Theo bước dè trên đám miểng sành
6/1975

 

Vườn hoang

Trán lựu thâm nghiêm pho cổ tích
Má đào trơ trẽn nét xuê xoang
Xe săn liễu nối dòng bạc mệnh
Buông rụng mai bày cảnh phế hoang
1949

 

Vô đề (2)

Người đi én nhạn khép khoang thuyền
Quê lạ, sông buồn lắng trăng nghiêng
Lỡ hẹn nghìn xuân lay sắc cũ
Khua rung ướm dậy tiếng chim quyên.

 

Vô đề (3)

Gió về đâu đó bước khoan thai
Trở nhẹ cành sương mở búp nhài
Một án hương đưa vừa đủ lọt
Kẽ bàn tay ấy lướt ngang cây.
1942

 

Vô đề (4)

Trên đường về vũ trụ
Một mình ta bơ vơ
Xa cành hoa khó nụ
Để dâu tằm chẳng tơ.

 

Vô đề (5)

Tôi đi giữa những hàng gòn thẳng tắp
Ôm trong lòng biển lón vỗ non cao
Bóng rụng xuống mái đầu nghe ấm áp
Ngỡ mái đầu lót tổ đón chim sao.


Vô đề (6)

Sông vắng lặng, trăng không thuyền
xuống bến
Ghé lòng xanh thẳm trúc bên cầu
Xứ thương nhớ nghìn đời e khó đến
Ngựa mỏi rồi nào nỡ thúc đi mau.
1936

 

Vô đề (7)

Chiều nay buông lỏng then cài
Bình hoa ý thức lộ ngoài song mưa
Lăn tăn giọt mát thấm vừa
Thơ buồn kết tứ-bỏ bùa cho đêm.

 

Về quê ngoại sau hai mươi năm

Tiếng tu hú gọi theo mùa lúa sạ
Dòng sôn g nước loáng khỏa ra hồ
Xóm giền g lẩn dạng theo mưa nắng
Xót bát rau cần vị tuổi thơ.

 

Văng vẳng chiến khu

Bàn trà, kệ sách, giá bình phong
Đan ghép nhờ ai khéo tỉa công
Đỡ nhớ chiến khu ngày chống Mỹ
Tiếng chim về vẳng giữa mây song.

 

Vô tình và hữu tình
(Tặng Quách Tấn)

Nhớ bạn nhiều hôm da diếc nhớ
Lại đành không tiện, viết thư thăm
Ngại trao tâm sự cho tờ giấy
Đè nặng thêm tay kẻ nhận cầm.
12.1982

 

Vịnh non bộ nơi nhà bạn

Cành san hô gắn trên nền đá chẻ
Đỡ nhành tùng làm đỉnh núi chon von
Vốn là chất vôi trầm nơi đáy bể
Giớ trăng chơi mấy chốc cũng tiêu mòn.
12.1987

 

Ven Đà

Nắng rẽ sông Đà hai dải sáng
Tối sầm non Tản bóng mưa mây
Bên kia theo cá, thôn chài vắng
Bò giỡn non tơ cỏ phía này.
10.1972

 

Vắng trúc

Đất mới trồng vườn bỏ trúc tre
Võng trong, cỏ xén tiện đường về
Thu vầy nhạn bách, xuân oanh liễu
Con cuốc hờn chi chẳng gọi hè.

 

Vắng vẻ

Nhớ kẻ trồng hoa đã khuất vời
Tùng khô , hạn héo, khóm mai còi
Quyên về không dám khua vang góc
Sợ đốt thêm cành, lụy tiếng rơi
3.1982


Về quê mẹ sau giải phóng

Khó trụ vườn xưa để đợi mình
Chồi lim, gốc mít lẫn gio tranh
Chỉ riêng phảng phất hương thời trẻ
Theo bước đè trên đám miểng sành

7.1977

 

Về xóm mới

Lấy vui hàng xóm tạm khuây nhà
Khay nhỏ dồn thêm, mấy chén trà
Giếng mới chứa chan lòng ấm cũ
Hương gần pha đượm vị hương xa.
12.1977

 

Vóc mai

Hăm mấy năm xa, trông nhớ mai
Về đây nỗi nhớ vẫn không khuây
Mai ơi, nở đó mà thưa thớt
Phẩm chất thanh u trĩu nhánh gầy

 

Vì thơ vì hoa

Bạn cũ mang cho khóm thạch lan
Nhà không non bộ, bếp chèn sân
Bón chăm nếu chẳng vì thơ, bận
Dành trọn cho hoa gốc gió trăng.

 

Xuân lạnh

Lạnh lẽo ngàn xanh, mưa rả rích
Bến bờ thiên cổ khóc hoa hương
Hồn xuân run rẩy muôn cành bích
Chắc nẻo thời gian-vạn trái buồn.
1949 (trich kết giao)

 

Xuân hoài

Quả son phản phất vị gừng phai
Lá bạch đàn buông đọng nắng mai
Nghĩ tiếc xuân qua riêng cảm cảnh
Ngồi nhàn năm tháng sớt cho ai

Xuân tảo

Gió đêm chuốt nhọn bút mai đề
Chợt bóng hoa xuân sớm hiện về
Lắc chiếc lọ sành còn rượu nhín
Vọng lên đỉnh núi cụng vài ly
08/2/1991

 

Xâu chuổi

Ai lần chuỗi bồ đề
Mà quên điều xấu tốt
Việc dở dìm bến mê
Việc hay luồn hạt ngọc
18/2/1998

 

Xào xạc lá đa

Xào xạt hiên chùa rụng lá đa
Tuổi thơ như thể đến tìm ta
Tiếng trong tiếng đục nhòa nhân ảnh
Tô thếp bao nhiêu vẻ nhạt mờ
SN 80 tuổi 02/3/1998

 

Xóm cũ Sơn Tràng

Ba năm trở lại đất Sơn Tràng
Bèo động ven mưng sắn thẳng hàng
Trong bếp, lửa rơm reo lép bép
Nhịp chày thay nhịp búa âm vang

Xẻ tặng ân tình

Nếu em xẻ nửa cái ân tình
Mảnh tặng cho anh, mảnh để dành
Mảnh tặng xin đừng đem ướp lạnh
Nửa dành bữa bữa nhớ phơi phanh
10./11/1994

 

Xa Lai Châu

Lẫn trong sương khói núi hai bờ
Thuyền thả sông Đà trôi lững lơ
Mới đó Lai Châu thành nỗi nhớ
Hút theo nhạc ngựa bóng đêm thồ


Xuân muộn

Vụng sắm cành đào không kịp tết
Ra giêng chợt hé một vài bông
Xuân người lả tả bay đi hết
Ngoảnh lại xuân ta mới chớm hồng .
2/1982

 

Xuân cách

Đây cúc, kìa mai, nọ hải đường
Cùng mai hoa tụ nhóm thiên chương
ấm trà mạn hỏa lai rai rót
phảng phất hương thầm bạch ngọc lan.
8.2.1991

 

Xuân lạnh

Lạnh lẽo ngàn xanh, mưa rã rích
Bến bờ thiên cổ khóc hoa hương
Hồn xuân run rẩy muôn cành bích
Chắc nẻo thời gian-vạn trái buồn.
1949 (kết giao)

 

Xuân biệt

Khói giăng như mộng vướng cành mai
Thưa thớt đường lê mấy dấu giày
Xuân đã ra đi còn luyến gửi
Lời oanh thỏ thẻ vọng bên tai.

 

Xanh

Ngày Bác về thăm đồi Vật Lại
Tết cổ truyền thêm tết trồng cây
Nắng xanh khắp núi rung nương bãi
Phủ cây đời xanh tới tương lai

 

Xuôi dòng

Tháng chạp bè xuôi nước tỏa dòng
Nửa đêm sương muối xuống mờ sông
Đồi xa chợt lửa khai hoang đỏ
Hơi ấm chuyền theo đến rạng đông

 

Xuân trên bản H’Mông

Vợ điệu con xem chồng thử kèn
Gò cương chiến sĩ ghé bên hiên
Nắng thu còn ửng đường qua bản
Ngựa nhận thầm hương cỏ tháng giêng
1968

YẾN LAN

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com