THỂ LOẠI KHÁC Biên Khảo Lê Minh Quốc - DU LỊCH CỦA NGƯỜI CÂM

Lê Minh Quốc - DU LỊCH CỦA NGƯỜI CÂM

Mục lục
Lê Minh Quốc - DU LỊCH CỦA NGƯỜI CÂM
Số 1
Số 2
Số 3
Số 4
Số 5
Số 6
Số 7
Số 8
Số 9
Số 10
Lời Bạt
Tất cả các trang

IMG_0030m

LỜI TỰA

Khi nhà thơ Lê Minh Quốc đi du lịch Hà Lan trở về, tôi đã gặp anh và hỏi một vài chuyện: Có xem tranh của họa sĩ Van Gogh ở Viện bảo tàng Amsterdam? Có thấy hoa tulip đen? Hương vị Heineken sản xuất ở nguyên quán, có khác hương bị bia Heineken sản xuất ở Việt Nam? Lê Minh Quốc cười, lắc đầu: Anh đợi đấy. Tuần sau tôi sẽ trả lời. Và một tuần sau, anh đưa tôi tập bản thảo Du lịch của người câm.

Tại sao là người câm? Lê Minh Quốc thú nhận: “Biết thêm một ngoại ngữ là sống thêm một cuộc đời nữa. Nhưng than ôi! Tôi chỉ là người “câm” vì không rành một ngoại ngữ nào! Khổ thế!”. Không biết ngoại ngữ để có thể trò chuyện trực tiếp với người Hà Lan, đấy là một khuyết điểm đối vói người du lịch, nhưng Lê Minh Quốc đã biết biến khuyết điểm đó thành ưu điểm. Vì không mải mê nói chuyện với người khác, nên anh tập trung quan sát cảnh vật, con người, tập trung lắng nghe những tiếng động ở một thành phố lạ, chẳng hạn: “Một ngày ở Amsterdam, nếu bình tâm ta sẽ nghe nhiều hồi chuông vang lên nhịp nhàng. Khi dài, khi ngắn, khi mơn trớn, khi gióng giả... Có lẽ tùy theo đó mà người ta có thể đoán giờ hoặc những hồi chuông ấy mang theo một tín hiệu nào đó cần thông báo đã được quy ước trước trong cộng đồng chăng? Mỗi một ngày được nghe những hồi chuông của sự khoan dung thì lòng ta sẽ nhẹ nhàng hơn. Khi hỉ nộ ái ố níu lấy tầm hồn ta để nhấn chìm xuống bụi bặm thì tiếng chuông sẽ kịp thời vọng đến để thức tỉnh. Nghĩ như thế tôi cảm tình với những hồi chuông lãng đãng thỉnh thoảng vọng đến và chờ đợi lắng nghe...”

Khi đến thăm một nông trường nuôi bò sữa, các nhà báo biết ngoại ngữ đã tranh nhau phỏng vấn ông chủ nông trường về cách nuôi bò sữa, thì Lê Minh Quốc lại nằm lăn trên cỏ đẫm ướt sương, nhìn những con bò sữa nhởn nhơ nhai cỏ, và anh viết được câu thơ:

Nghe tiếng bò kêu dân dã quê mùa

Xứ sở lạ, cớ sao thân mật thế?

Cuốn du ký của Lê Minh Quốc đã trả lời tôi hai câu hỏi. Còn câu hỏi: Có thấy hoa tulip đen? Anh chịu thua. Chẳng trách anh được. Vì anh đến Hà Lan váo tháng 7, trong khi hoa tulip chỉ nở rộ vào tháng 3 và tháng 4. Những trang viết của anh về nguồn gốc hoa tulip ở Hà Lan, vè người thợ thủ công làm hoa tulip bằng gỗ để bán cho du khách làm quà lưu niệm, đọc rất lý thú. Như vậy hoa tulip đen đối với tôi (và anh) vẫn còn ở trong mơ, vẫn còn mời gọi chúng tôi ngày nào đó đến Hà Lan để chiêm ngưỡng.

Một tuần ở Hà Lan chỉ là “cỡi ngựa xem hoa”, khó mà hiểu biết sâu xa về con người và cảnh vật nơi đây. Lê Minh Quốc cũng biết vậy, nhưng theo anh: “Nhà thơ khi đi du lịch vẫn là kẻ  “có lợi” nhất, vì ít ra ngoài những sản vật, kiến thức đem về, anh ta còn có dịp tiếp cận một nguồn năng lượng mới để làm giàu cho kiến thức sáng tạo”. Tôi không là nhà thơ và chưa đi du lịch Hà Lan, nhưng đọc xong cuốn bút ký Du lịch của người câm, tôi cũng nói được một điều: Đây là cuốn sách sẽ tạo cho người đọc “cảm hứng sáng tạo” những câu chuyện kể thú vị, trong các buổi trò chuyện với bạn bè.

Nhà văn ĐOÀN THẠCH BIỀN

(Thành phố Hồ Chí Minh, 8.2005)


 

1.

Một cơn gió lạnh xộc vào mũi khi tôi vừa rời khỏi sân bay quốc tế Schiphol - Amsterdam. Trời xám. Mây xám. Buổi sáng. Đột ngột một kỷ niệm cũ tưởng đã lãng quên, bỗng thức dậy trong tâm tưởng. Một cảm giác lạnh lẽo, buốt lấy trí nhớ. Một cảm giác mơ hồ, không rõ nét. Một cảm giác của thời hoa niên năm mười tám tuổi trỗi dậy. Trước mắt tôi là núi đồi chập chùng, hiu quạnh của vùng biên giới Dak Lak như hiện ra trước mắt. Năm đó, chiến tranh Tây Nam đang đến và tôi chập chững đến với cuộc chiến tranh bằng tâm thế của một cậu học trò tâm hồn còn trong trẻo như những lá thư tình được viết nắn nót bằng những dòng mực tím, nhưng không dám gửi đi. Tôi nhớ Dak Lak bởi lẽ, xộc vào mũi tôi lúc ấy là không khí của sự tinh khiết thiên nhiên không hề gợn lên khói xe công nghiệp và bụi bặm phố phường. Thấp thoáng trước mắt tôi là những bông hoa dại nhỏ xíu, mọc li ti ven đường. Nó mở mắt ngơ ngác nhìn tôi và tôi cũng ngơ ngác nhìn nó. Chúng tôi lặng lẽ chào nhau. Mỗi bông hoa là một linh hồn của thiên nhiên độ lượng. Mỗi bông hoa là một con mắt nhìn. Câu thơ “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông” lại vọng về trong trí nhớ:

Nhân diện bất tri hà xứ khứ,

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Ám ảnh nhất, gợi cảm nhất vẫn chữ “tiếu”, nghe ra có một chút gì đau đớn, ngậm ngùi quá đỗi. Nhưng trước đó, nếu bên hoa đào không có một nhan sắc để tình si chùng xuống, lắng lại thì liệu “đào hoa” có thể “tiếu đông phong” không? Chắc có, nhưng tôi tin rằng Thôi Hộ không thể cảm nhận được chữ “tiếu” một cách tài tình được như thế. Thì ra, hoa đẹp, ta cảm nhận được nó đẹp bởi nó luôn gợi nhớ đến một bóng hồng đã từng lẩn khuất đâu đó trong trí nhớ của ta. Nhưng khi tôi đến đây, không có ai để nhớ, tôi vẫn thấy hoa đẹp. Nó đẹp bởi nó bé bỏng và mọc ven đường như khép nép, như hồn nhiên và muốn nói rằng, trong đời sống dù tất bật ngược xuôi  nếu tĩnh tâm một chút, một chút thôi, ta sẽ thấy sự an nhiên vẫn tồn tại ở cõi đời này.

Và cứ thế, tôi bước đi, đi và ngắm nhìn đến no nê hai con mắt về một thành phố xa lạ. Những cảnh sắc lạ ùa vào hai con mắt.

Trước đây, tôi từng cảm nhận rằng, trong đời sống, có những địa danh dù chưa một lần ghé chân đến hoặc đôi lần đã đến, nhưng mỗi lần nghe vang vọng thì ta lại cảm thấy tâm hồn nhói lên một điều vui buồn gì đó không rõ rệt. Với tôi, có thể đó là Hà Nội, Hội An và Huế... hoặc dòng sông Seine mơ màng chảy dưới chân cầu Mirabeau trong thơ Apollinaire; hoặc  “mùa địa ngục” chỉ có trong âm vang của thi ca Arthur Rimbaud...

Với Amsterdam, tôi đã cảm nhận được gì?

Tôi nhìn thấy trong cánh rừng thơ mộng đã mọc lên một thành phố tráng lệ, ở đó có một chút nắng mơn trớn thu phai của Huế, một thứ nắng nhẹ nhàng, trong veo như thủy tinh và lãng đãng như vừa mới dậy thì; một chút cổ kính của những nếp nhà trầm mặc ở Đà Lạt, những ngôi nhà ấy như vừa bước ra từ trong câu chuyện cổ; và một chút nhộn nhịp vừa phải của Hội An lúc nửa khuya.

Ấy chỉ là một sự cảm nhận của tâm hồn thơ. Nhìn qua lăng kính của thơ. Chứ Amsterdam được “trang điểm” bằng mạng lưới kênh rạch dày đặc, cứ hai lớp nhà lại có một tuyến kênh xen kẽ. Những vòm cây xanh thấp thoáng dưới dòng xanh, những ngôi nhà cổ lung linh huyền ảo dưới dòng xanh và bóng tôi nhập nhoạng dưới dòng xanh...

Những cảm nhận này, trước đó tôi chưa thể hình dung ra được. Trước đó, lúc đợi chờ ở Sân bay Tân Sơn Nhất, tôi nghĩ đến em. Em đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi trong những ngày mệt mỏi này. Yêu là một cách để nuôi dưỡng sự hướng thiện của tâm hồn. Làm thơ cũng thế thôi. Vì thế thơ trong tin nhắn đã hiện lên trong chiếc màn hình nhỏ xíu. Thời đại này, việc máy điện thoại di động ra đời, theo tôi, nó hỗ trợ rất nhiều cho... công việc làm thơ! Những lúc không làm gì, dù muốn làm gì cũng không biết làm gì, cách tốt nhất để giết thời giờ không có gì thú vị bằng đem máy ra nhắn tin. Để tin được nhắn thật chậm, nếu nhắn nhanh quá thì còn gì để nhắn (?), tôi làm thơ trên đó. Vừa nhắn a, b, c... thì đó cũng là lúc trong đầu nghĩ đến câu thứ hai... Tiện ích của nó là tôi có thể “viết” trong bất cứ hoàn cảnh nào dẫu đang ngồi trên xe khấp khểnh, gập ghềnh vừa lao lên ổ gà xóc xuống ổ voi! Một bài thơ, tất nhiên không có dấu, gửi đến em:

Chưa bao giờ đi xa anh lại nhớ Sài Gòn đến thế

nhớ quán ăn ngon?

nhớ cây nhớ gió?

chẳng phải đâu

anh chỉ nhớ người yêu bé nhỏ

tóc thơm như môi và môi ngọt như là...

đôi khi giận hờn, đôi khi nhõng nhẽo

đôi lần trẻ con, đôi lúc đàn bà

nàng đã đến giữ linh hồn tôi trong ngực

nàng cười: tôi vui, nàng giận: tôi buồn

nàng đem đến ân tình như máu thịt

từ đứa trẻ thơ tôi về lại cội nguồn

trên tay đang cầm boarting pass

lại ngóng về nơi xa lắc có em

lại ngửa mặt ngóng tìm ngôi sao mọc

để dặn lòng thương nhớ sẽ đầy lên

để nhủ lòng từ cái cõi xa xăm

vẫn có em tình yêu như lá mới

xanh tươi cùng tôi trọn kiếp con người

chuyến bay đêm trên chín tầng trời

sấm sét mưa dầm nhớ em rét mướt

anh cuộn tròn giấc ngủ trong mây

nhớ đến em làm sao mà ngủ được?

Quả nhiên không ngủ được. Khi ra đi mà trong tâm hồn ta nhớ đến người thương xa, người tình gần ấy là một nỗi lòng lương thiện. Không rõ ngày nay các quan chức khi đi công cán nghĩ gì? Ngày trước, một chuyến đi sứ là một bước đường đầy gian nan. Thuở ấy, đường xá còn cách trở xa xôi, biết bao tai ương rình rập dọc đường nên ai nấy cũng lấy làm lo lắng. Có người lấy ngày bước chân ra làm ngày giỗ nếu chẳng may gặp nạn dọc đường, không về được cố quốc. Bỗng nhớ đến chuyến đi xa của thi sĩ Cao Bá Quát. Năm 1841, ông vào Kinh giữ chức Hành tẩu ở bộ Lễ, tháng tám năm này được cử làm Sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Khi xem bài thi, thấy có nhiều bài văn hay chữ tốt nhưng lại phạm húy, bèn thương tình mà lấy son hòa với muội đèn để chữa lại cho họ. Việc đổ bể. Cao Bá Quát bị tống vào ngục. Sau ba năm bị giam cầm tù đày được tha, ông phải “dương trình hiệu lực” - nghĩa là đi theo phục dịch cho phái bộ triều đình công cán ở nước ngoài. Ông đi theo chánh sứ Đào Tri Phủ, phó sứ Trần Tú Dĩnh để sang Indonésia. Suốt thời gian lênh đênh trên mặt biển và giao thiệp với người nước ngoài, ông đã thấy được nhiều điều, trong đó có một điều rất quan trọng đối với người sáng tác:

-Đáng phàn nàn cho ta chỉ đóng cửa mà gọt rũa những câu văn, lải nhải nhai từng câu chữ. Có khác gì con sâu đo, muốn đo cả đất trời.

Qua ô cửa nhỏ trên máy bay CX 764M từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Hồng Kông, nhìn ra bầu trời tối mịt mù tôi có cảm giác bềnh bồng như mình đang đi đến cõi âm nào đó. Thật ra, trong tâm hồn con người ai cũng có một cõi âm riêng biệt, nó chỉ được đánh thức khi sống trong tâm thế phiêu bồng không định hướng nơi đã đi và nơi sẽ đến. “Văn chương chỉ là trò chơi con trẻ”. Cao Bá Quát -  một thi nhân từng dựng cờ khởi nghĩa, đối đầu với hòn tên mũi đạn, từng tan thay nát thịt trong tù, không sợ một bạo lực cường quyền hắc ám nào cả, lạ thay, người ấy chỉ cúi đầu trước hoa mai -  cũng từng nói như thế. Ngẫm nghĩ lại thấy thấm thía. Một giấc ngủ chập chờn, không mộng mị đã lẫn lộn giữa hư và thực khiến tôi nửa mê nửa tỉnh.

Ngồi một mình trong khi dỗ giấc ngủ, bất chợt tôi lại nhớ đến nhà văn Nguyễn Tuân. Có lẽ, ông là nhà văn trước nhất sang công cán ở Hồng Kông chăng? Ấy là lúc ông theo đoàn làm phim của Nguyễn Doãn Vượng sang Hồng Kông đóng phim Cánh đồng ma. Sau chuyến này, ông viết được quyển du ký Một chuyến đi in năm 1941. Nếu tôi không nhầm thì nhà thơ Hồ Dzếnh cũng từng sang Hồng Kông với tư cách nhà báo, đâu khoảng năm 1953. Trở về, ông viết bút ký Ngàn lẻ một đêm Hương Cảng đăng từng kỳ trên báo Thần chung ở Sài Gòn.

Khi cô tiếp viên hàng không xinh đẹp nói tiếng Anh líu lo như chim hót đem đến những món ăn thì trong óc tôi đang nghĩ rằng, liệu nhà văn khi đi du lịch liệu có khác “người trần mắt thịt” không? Chẳng lẽ đem câu hỏi này hỏi cô ấy ấy ư? Có mà khùng. Thế là tôi nghĩ ngợi một mình tôi.

Dường như trong một tập tùy bút, Nguyễn Tuân có lấy câu văn của nhà văn nước ngoài làm đề từ, đại khái: ước gì sau khi chết đi, người ta lấy da mình thuộc làm va li. Để làm gì vậy? Để chiếc va ly ấy tiếp tục được theo người viễn du đến những chân trời mới. Với ý tưởng ấy, Nguyễn Tuân đã đã triển khai thêm một ý mới hẳn: “Cái va ly đẹp nhất ở cuộc đời này vẫn là một cái va ly chứa toàn bản thảo của những năm, những tháng đi làm việc thui  thủi ở phương xa trở về”. Đó là quan niệm “đi để viết”. Phóng tầm mắt đến những chân mây cuối trời để đem về những câu văn tươi rói.

Tôi chưa đọc được một tài liệu nào nói đến ông vua hoạt kê Số đỏ Vũ Trọng Phụng đã đi giang hồ những nơi đâu. Chỉ bằng ngòi bút vừa nuôi mẹ, nuôi vợ và con để đến nổi phải thổ huyết ho lao trên trang bản thảo thì làm sao có thể “dứt áo” ra đi một cách nhẹ nhàng? Vì thế nghĩ cho cùng, trong đời được đi chơi xa nhiều lần, há cũng là một lạc thú. Nhưng đi giang hồ mà “ngon” nhất nếu chọn lấy một người thì tôi vẫn chọn lấy Tản Đà - người đã nâng “chủ nghĩa xê dịch” thành một triết lý:

Chơi cho biết mặt sơn hà

Cho sơn hà biết ai là mặt chơi?

Đáng cho đám hậu sinh phải ngưỡng mộ, trong số đó có tôi. Tôi thèm đi. Thèm được đến những chân trời xa. Để tẩy rửa tâm hồn. Nhất là những khi ý thức được mình đã sắp mọc rể trên cái ghế của một người làm việc mẫn cán và lúc nào cũng lo sợ đến cái trách nhiệm của mình. Vì thế làm sao có thể thản nhiên ra đi một cách nhẹ nhàng. Cơm áo từng ngày bủa vây chân đi. Bủa vây dày đặc đến nỗi nó hình thành một thói quen và tôi chấp nhận thói quen ấy như một sự tự nguyện. Tôi nghĩ mà chán cho tôi.

Nhà văn khi đi du lịch, đi công cán xa nước vẫn là người sung sướng nhất, bởi họ có dịp quan sát, ghi chép và viết lại những điều mắt thấy tai nghe. Những buồn vui của họ được người đọc chia sẻ. Vậy là vui.

Nhưng than ôi thằng tôi - tôi không biết ngoại ngữ, một chữ bẻ làm đôi cũng không biết thì làm sao giao dịch? Vậy hóa ra tôi là người câm sao? Đúng quá chứ còn gì nữa. Vì thế tôi gọi chuyến đi này “du lịch của người câm” là vậy.

Từ trên máy bay nhìn xuống Hồng Kông, tôi thấy rực rỡ hình dáng một con rồng như đang bay lên nền trời thẫm đen. Đến sân bay thì đã nửa khuya, ấn tượng nhất đối với tôi không phải một không gian rộng lớn, nhiều tầng lầu với các gian hàng buôn bán đa dạng từ cây kim, sợi chỉ đến chiếc máy vi tính hiện đại nhất mà chính những dòng chữ ghi nghiêm trang, đại khái nếu hút thuốc lá thì bị phạt 5 ngàn tiền Hồng Kông! Một cảm giác thèm thuốc bỗng dưng tan biến đi. Một thói quen phì phèo điếu thuốc và nhả khói mà đôi lúc chẳng biết để làm gì đã bị dòng chữ lạnh lùng khi làm tắt ngúm. Ấn tượng thứ hai là nơi này khi mua bán người ta không nhận tiền dollas, muốn mua phải chịu khó đổi ra tiền của họ. Đổi dễ dàng ngay tại chỗ. Nhưng cũng ngại nên tôi chỉ ngắm nhìn trong suốt thời gian quá cảnh để chuyển sang chuyến bay CX271M đi Amsterdam.

Và chuyến bay đêm bắt đầu. Lại một cảm giác lơ mơ chập chờn khi ngồi xem màn hình nhỏ trước mắt. Bỗng hiện ra những cảnh trong bộ phim mà hôm trước tôi đã cùng người tình xem ở Diamond. Vì thế nhớ em. Nhưng nỗi nhớ em cũng không thể ngăn nổi hai mí mắt sụp xuống để đi vào giấc ngủ.


 

2.

Có tiếng gọi của Ngọc Thịnh, bảo đã đến nơi. Bước ra sân bay, cô Charlotte Zelders xinh tươi - Trợ lý Giám đốc của sản phẩm Campina International đã đến tặng bó hoa thắm. Hoa đẹp vì đang tươi. Nhưng liệu hoa héo thì có còn đẹp không? Chắc có. Bởi cứ nhìn hoa cúc thì rõ. Từng cánh vàng rũ xuống như mệt mỏi nhưng sắc màu vẫn không phai. Muốn nói một lời cám ơn về bó hoa thắm nhưng không biết ngoại ngữ nên đành chịu. Tôi lúng ba lúng búng, ấp a ấp úng. Lan man nhớ câu tục ngữ “lúng búng như ngậm hột thị” suốt cả một đoạn đường dài... Tại sao phải ngậm “hột thị” chứ không phải là hột gì khác nhỉ?

Trên đường về khách sạn Krasnapolski, tôi thấy những ngôi nhà như hộp diêm mọc lên ngăn nắp. Những sắc màu được phối hợp một cách hài hòa, không sặc sỡ mà đơn giản giống như người đàn bà qua tuổi xuân thì vẫn hấp dẫn được cái nhìn của ta chỉ bởi một chút son thơm trên khuôn mặt khả ái kia. Thường chỉ hai tông màu nóng và lạnh sóng đôi với nhau. Đó là cái đẹp kín đáo của phong cảnh ở đô thị này. Hầu như trước mỗi căn nhà đều có hoa. Hoa lặng lẽ và kiêu sa tươi thắm đến độ nao lòng những ai nhìn nó. Hầu hết các cửa sổ đều có gắn kiếng trong suốt. Trước ngày tôi đi, em yêu có nói với với tôi: “Đặc biệt là những ngôi nhà ở Amsterdam tầng trên cùng đều có một thanh bê tông trắng đưa ra và có một móc sắt. Chiếc móc đó dùng cho những gia đình ở trên cao có thể dùng ròng rọc để vận chuyển đồ vào nhà”. Sau này, ở đây nhiều ngày tôi quan sát và thấy đúng. Với cách vận chuyển như thế nó sẽ lý giải vì sao ở đây hầu hết các dãy nhà cao đều không có lan can chăng?

Chuyến xe chở tôi vẫn lao đi. Tôi ngước mắt nhìn thành khẩn và lặng lẽ như muốn thâu tóm hết cảnh vật mới lạ vào trong con mắt. Hàng cây khẳng khiu đứng hai bên đường cũng lặng lẽ không kém. Lặng lẽ vì không có gió đến để xào xạc. Lặng lẽ vì nó mặc nhiên không biết sáng nay có tôi lần đầu tiên trong đời đang ngắm nhìn nó. Một cảm giác hiu quạnh choáng ngợp lấy tâm hồn tôi.

Đã bảy giờ sáng nhưng thành phố vẫn vắng. Chỉ mới có bóng nắng nhợt nhạt bám trên tường.

Sau khi nhận phòng ở NH Grang Hotel Krasnapolsky, dù biết giá thuê phòng mỗi ngày đến 450 Euro (tương đương 5 triệu đồng Việt Nam), nhưng sự hào hứng khi đến một thành phố lạ khiến tôi chỉ đủ kiên nhẫn để rửa mặt, thay quần áo. Tôi lao ra đường. Như một đứa trẻ lao ra đón mẹ đi chợ về. Niềm vui này tinh khiết biết bao nhiêu.

Trước mắt tôi là quảng trường DAM - “trái tim của Amsterdam”. Những chú bồ câu thản nhiên ùa đến thân thiện với tôi như thể không có gì phải cảnh giác cả. Tôi nhớ đến món nhậu này ở quê nhà, nhưng lập tức cái suy nghĩ phàm phu tục tử ấy bị tôi đẩy lùi ra khỏi óc. Cùng Thịnh lang thang trên những đường phố. Phố dài và hẹp cho tôi cái cảm giác nửa nhớ đến Hội An, nửa nhớ đến Đà Lạt. Lạ kỳ chưa? Bởi con đường hẹp và thấp thoáng có người đi xe đạp lướt qua chăng? Bởi những cửa hàng lưu niệm san sát mọc lên mà tôi từng gặp ở phố Hội? Bởi gì nữa? Có lẽ đúng nhất bởi tôi đã yêu dấu một cái gì đó cổ kính, yên tĩnh như tâm hồn của mình.

Những người đi xe đạp trên phố không vội, họ đi chậm. Quan sát tôi thấy mỗi chiếc xe đạp đều có gắn chuông, gắn đèn nữa chứ! Đi dăm bước ta lại gặp một dòng xanh thẳm cắt ngang qua. Đứng trên cầu nhìn về thấy những ngôi nhà nơi xa xa tôi mới thấy quyến rũ lạ lùng khi nó soi bóng xuống dòng xanh. Thành phố này là thành phố của sông. Các con đê xây dọc bờ sông. Vì thế cái tên Amsterdam được hình thành cũng là từ đó. Cái đuôi “dam” có nghĩa cái đê, cái đập. Phần đầu là tên con sông, con suối đã bị cái đê kia ngăn lại. Nói cách khác Amsterdam có nghĩa “Con đê trên sông Amster”. Mà ở Hà Lan có nhiều địa danh tương tự như thế, chẳng hạn sông Rotte tại Rotterdam, sông Ee tại Edam... Quả không ngoa khi nói toàn bộ đất nước Hà Lan là một vùng châu thổ, nó được nuôi dưỡng bởi hai bầu vú mẹ vĩ đại sông Rhine và sông Maas, dù thấp hơn vài ba mét.

Bước chân lang thang trên phố như một người nhàn tản, không vướng bận một nhọc nhằn nào của công việc hằng ngày sồng xộc đuổi theo sau khiến tôi cảm thấy khoái trá và tươi tỉnh. Gõ giày xuống mặt đường, tôi tự hỏi từ thế kỷ nào người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất Hà Lan? Chịu. Không rõ trong thư tịch cổ của họ có ghi lại không? Nhưng với người Hà Lan, trong sử sách của nước ta có ghi khá chi tiết.

Có thể nói, được đi xa, khám phá những chân trời mới là khát vọng của loài người. Với người châu Âu trong những năm đầu của thế kỷ XVI, họ đã đến nước Nam ta với hai mục đích: tìm nơi giao dịch buôn bán và truyền bá đạo Thiên Chúa giáo. Từ năm 1523, người Bồ Đào Nha đã tìm đến trước nhất, sau đó thuyền bè của thương nhân nhiều nước khác cũng dần dần tìm đến. Thế nhưng để đạt đến mối quan hệ thương mại “bánh ít đi, bánh quy lại” thì phải mất gần một trăm năm sau!

Nhìn lại lịch sử nước nhà trong giai đoạn này, ta thấy các thế lực phong kiến Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đều đang tiến hành những cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” rất khốc liệt. Do đó, cả chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong đều muốn kết thân với họ để qua đó, nhờ mua... vũ khí!

Đây là bi kịch đau đớn của lịch sử nước nhà, khi đọc sử giai đoạn Trịnh-Nguyễn phân tranh, ta tưởng chừng như mỗi dòng, mỗi chữ còn thấm máu của dân đen.

Lần đầu tiên vào năm 1606, thuyền buôn Hà Lan tình cờ biết đến Việt Nam, khi họ đi từ Batavia (Indonésia) sang Trung Quốc, bị bão đánh dạt vào bờ biển Quy Nhơn thuộc xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn, nhưng họ chưa nghĩ đến việc thông thương buôn bán. Theo tôi, phải đợi đến năm 1637 lúc đến Phố Hiến ở Đàng Ngoài, họ mới thật sự “gieo hạt” trên mảnh đất này.

Trong trí nhớ của tôi vẫn còn nhớ câu “Nhất kinh kỳ, nhì phố Hiến”. Kinh kỳ là tên gọi của Thăng Long, nay thủ đô Hà Nội. Phố Hiến nay thuộc tỉnh Hưng Yên - một tỉnh ở đồng bằng Bắc bộ, nằm bên tả ngạn sông Hồng. Hay nói cách khác Hưng Yên là hậu thân của Phố Hiến. Nhưng tại sao họ lại chọn phố Hiến?

Nếu ai hỏi tôi như thế, tôi sẽ hỏi lại, tại sao lại có cái tên Phố Hiến?

Đang nghĩ ngợi như thế bỗng có một chú chim câu sà xuống chân tôi, hai con mắt nó tròn xoe. Tôi chựng người trong giây lát để làm quen với chúng.

Nói vắn tắt một lời, đó là tên gọi tắt của một cơ quan quyền lực “Hiến sát sứ ty”, còn gọi “Hiến ty” thành lập từ năm Hồng Đức thứ 2 (1471). Nó là một trong ba cơ quan quản lý cấp trấn thời Lê, mãi đến năm 1473 triều đình mới định rõ chức vụ của cơ quan này gồm 32 điều, đại khái, chịu trách nhiệm tâu bày, khảo sát năng lực làm việc của các quan trong trấn, kiểm tra các vụ kiện tụng, tuần hành xem xét đời sống và sản xuất trong địa phận mình quản lý - từ đó báo cáo, đề xuất về triều đình. Khi chọn người giữ chức vụ này, dù chức phó cũng phải người đã đậu tiến sĩ “biết kỷ cương phép nước, quen việc, không sợ cường hào”, bởi đây “chức uy nghiêm ở một địa phương cho nên xem là quan trọng” như trong Lịch triều hiến chương loại chí cho biết.

Các thương nhân Hà Lan và các nước khác khi đến Phố Hiến, họ được Chúa Trịnh cho phép cư trú. Họ đến bởi cuối thế kỷ XVI, qua thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, Phố Hiến đã trở thành một thương cảng sầm uất của Đàng Ngoài, sánh ngang với thương cảng Hội An ở Đàng Trong. Sở dĩ như thế vì Phố Hiến nằm ở tả ngạn sông Hồng, chỉ cách kinh thành Thăng Long khoảng 60 km về phía Nam, thuận lợi cho việc giao thương của các doanh nhân từ xa đến. Bên cạnh đó, chính vì làm tốt “công tác cán bộ” nên Phố Hiến có thuận lợi hơn nữa trong việc phát triển. Không thể không nhắc đến vai trò của quan trấn thủ có công mở mang Phố Hiến - Tước quận công Lê Đình Kiên (1623- 1704). Trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên, cho biết ông: “Làm việc liêm khiết công bằng, dập tắt được mối trộm cướp, làm cho nhân dân yên ổn, nên được cất nhắc giữ chức này”.

Chỉ mấy dòng đánh giá như thế, có thể ai đó thấy bình thường, nhưng nếu hiểu được bối cảnh xã hội đương thời thì mới cảm nhận hết nỗ lực lớn của một ông quan trị dân. Bởi lẽ, khi đọc lại bộ Lịch triều tạp kỷ - nguồn sử liệu trong khoảng hơn 100 năm cuối đời Lê, tôi thấy dân tình trong những năm tháng đó vô cùng ngột ngạt. Mặc dầu triều đình liên tục ban hành những chính sách yên dân, nhưng các quan lại cấp dưới không những không thực hiện mà còn lợi dụng quyền lực nhũng nhiễu, ức hiếp dân đen. Vì thế các cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra không ngoài mục đích đòi quyền sống của những con người thấp cổ bé miệng.

Chỉ khi nào làm tốt “công tác cán bộ”, quan lại liêm khiết, tự nguyện làm đày tớ của dân, yêu thương dân như con thì may ra xã hội mới có thể ổn định, phát triển kinh tế. Phố Hiến đã có thời gian được cai trị bởi những ông quan thanh liêm. Đó là một trong những điều kiện thuận lợi để vùng đất này hấp dẫn các thương nhân phương xa đến giao thiệp, đặt quan hệ làm ăn lâu dài.

Trước khi làm ăn ở Phố Hiến, tàu buôn Hà Lan đã đến Đàng Trong. Năm 1632, tàu Grootenbrock bị bão giạt vào bờ biển Đàng Trong, họ được cứu sống nhưng hàng hóa bị Chúa Nguyễn Phúc Nguyên tịch thu. Từ đó, tàu buôn Hà Lan từ thủ đô Indonésia cũng bắt đầu kéo đến Faifô (sử Hà Lan ghi Faicfo, tức Hội An) và họ được phép ở lại buôn bán. Năm 1634, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên mất, con trai Nguyễn Phúc Lan kế vị. Trong năm này, tàu Hà Lan được đến Cửa Hàn (Đà Nẵng) buôn bán, không bị đánh thuế, nhưng khi họ xin lại số hàng hóa bị tịch thu thì chúa Nguyễn không thuận. Đây là một trong những lý do khiến người Hà Lan thông thương với Đàng Ngoài, dù đầu năm 1636, một thương điếm của họ chính thức mở tại Hội An. Và chỉ sau hai năm hoạt động, nó đóng cửa vào năm 1638.

Mối quan hệ giao thương giữa Hà Lan và Việt Nam được đánh dấu quan trọng vào năm 1637. Cứ theo Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam  do Viện Sử học biên soạn (NXB Khoa học Xã hội - 1987) thì rõ:

“Năm 1637: Tàu Kegrol do Hartsing cầm đầu chở hàng hóa đến Đàng Ngoài tặng chúa Trịnh Tráng hai khẩu súng đại bác; chúa tiếp kiến cho phép mở thương quán ở Phố Hiến (Hưng Yên -  Hải Hưng).

“Có thể qua cuộc tiếp kiến với Hartsing, Trịnh Tráng cho rằng người Hà Lan không liên hệ với chúa Nguyễn Phúc Lan ở Đàng Trong nên sau đó, vua Lê Thần Tông gửi thư cho Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Batavia nhờ người Hà Lan giúp đỡ để chống lại Nguyễn Phúc Lan.

“Tàu Kegrol trở lại Đàng Trong, được Nguyễn Phúc Lan ủy nhiệm mang thư và phẩm vật cho toàn quyền Batavia. Trong thư, Nguyễn Phúc Lan ngỏ ý vui lòng nếu được người Hà Lan đến buôn bán ở Đàng Trong. Thư có đoạn viết: “Tôi thiết tha mong mọi người đến buôn bán ở bến cảng nước tôi”.

“Đậu Hà Lan bắt đầu trồng ở Phố Hiến”.

A! Mấy chữ “đậu Hà Lan” nghe gần gũi và đời thường biết bao nhiêu.

Một đoạn sử liệu ngắn ngủi cho biết lúc ấy thương nhân Hà Lan đã “bắt cá hay tay”, hay nói cách khác cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều muốn tạo quan hệ với người Hà Lan. Thuở ấy, ta và họ mua bán với nhau những gì? Xin thưa, ta cung cấp cho họ lụa, đồ sứ, gỗ và đường... Họ bán cho ta những thứ như len, vải tơ tằm và gia vị... Tuy nhiên, trong quan hệ này người Hà Lan không để lại dấu ấn sâu đậm về kiến trúc, văn hóa tại Phố Hiến, kể cả tại Hội An, bằng thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc.

Nếu có chăng chỉ là “đậu Hà Lan” - quen thuộc trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt.

Chỉ có thế thôi ư?

Trong trí nhớ của tôi bỗng hiện lên những viên bi ngũ sắc và những con cá bảy màu. Tuổi thơ của ai lại không có viên bi lăn trong giấc mơ và những con cái quẩy đuôi trong trí tưởng tượng? Không biết, nơi khác gọi con cá đó tên gì, nhưng ở miền Trung xa xôi “rượu hồng đào chưa nhắm đã say...” lũ trẻ con chúng tôi gọi là cá Hà Lan. Con cá ấy thân cũng dài chừng hai lóng tay, nhỉnh hơn thân chiếc đủa. Con trống, từ đầu đến đuôi đều lấp lánh sắc màu; con cái, thân một màu vàng nhạt và đuôi cũng sặc sỡ như thế. Không biết nó du nhập vào Việt Nam từ thuở nào? Từ thuở với đậu Hà Lan chăng? Tôi không quên loại  cá này, bởi nó hiền lành, dễ nuôi và mắn đẻ.


 

3.

Tôi và Thịnh đi vào trong các cửa hàng lưu niệm. Ấn tượng nhất là cối xay, hoa tulip và giày gỗ. Cả ba thứ này đều được người Hà Lan thể hiện rất phong phú. Tôi dùng chữ “rất” ở đây là chính xác, chứ không nói điêu. Họ đã thực hiện cả ba thứ trên bằng nhiều vật liệu, nhiều kích cỡ khác nhau, bởi tự ý thức là biểu trưng của văn hóa Hà Lan. Trong bữa ăn trưa bên dòng sông Zaan, Thịnh hỏi cô Charlotte Zelders:

-Nói đến Hà Lan người ta hay nhắc đến điều gì?

Câu trả lời:

-Thứ nhất, hôn nhân đồng giới; thứ hai, cối xay gió và thứ ba là hoa tulip. Đến Hà Lan mùa này thì đành chịu. Hoa tulip chỉ nở rộ quãng từ tháng 3 đến tháng 4, cối xay gió bây giờ đa phần sử dụng cho mục đích “để chơi cho đẹp”, cho “rất Hà Lan”.

Hôn nhân đồng giới? Nghe thoáng qua nhưng tôi lại nổi da gà! Tôi tiếc không có nhiều vốn liếng về tiếng Anh nên không thể hỏi Charlotte Zelders bình luận gì về chuyện này. Qua thông tin trên báo chí, tôi biết, hiện nay trên thế giới có thêm nước thứ 3 đồng ý với hôn nhân đồng giới là Tây Ban Nha, sau Hà Lan và Bỉ.

Đây là một trong những trò trớ trêu nhất mà con người “qua mặt” Thượng đế chăng? Không những thế, ở Hà Lan cũng như một số nước phương Tây khác, người ta còn chấp nhận chung sống trước hôn nhân. Điều này bình thường đến nỗi, tôi biết, khoảng mươi năm trước đây trên truyền hình Hà Lan có mở cuộc thi đối vui chủ đề Những bức thư tình. Giải thưởng dành cho ai và như thế nào? Dành cho cặp tình nhân tổ chức làm đám cưới hẳn hòi trước khi... chung sống với nhau và giải thưởng cũng khá độc đáo là đám cưới của họ được... phát sóng trên truyền hình. Cứ tưởng chuyện bịa, nhưng trời ạ, tôi có bao giờ biết dựng chuyện đâu!

Có điều tôi không hiểu tại sao Charlotte Zelders không nhắc đến đôi giày gỗ? Vì trong phút chốc được hỏi đột ngột nên không nhớ ra chăng? Ngày nay đến Hà Lan, tôi thấy có bày bán rất nhiều giày gỗ trong các của hàng lưu niệm. Ban đầu tôi ngạc nhiên lắm, có người giải thích do ngày xưa người nông dân của xứ sở này đã mang giày gỗ đi vắt sữa bò. Nhưng cách lý giải này xem ra thuyết phục hơn: Khoảng ¼ lãnh thổ với 60% dân số Hà Lan sống trong vùng nằm dưới mực nước biển, vì thế vùng đất này ngày xưa rất ẩm ướt, nhất là vào mùa đông. Do đó, người nông dân ở đây nghĩ ra chiếc giày gỗ không thấm nước thay cho các loại giày dép khác để chống lại thiên nhiên khắc nghiệt và cũng để giữ ấm cho đôi chân.

Khi ta gọi tên đất nước này là Hà Lan (Holland), thật ra chỉ nhắc tới hai tỉnh duyên hải Bắc và Nam - đóng vai trò quan trọng của lịch sử Hà Lan. Tên chính thức của đất nước này The Netherlands (nether: thấp, land: vùng đất), nghĩa là một vùng đất thấp và người ta còn gọi Plays Bas theo tiếng Pháp cũng có nghĩa tương tự. Điểm thấp nhất tại Rottterdam nằm dưới mặt nước biển 6,7 mét. Khi bước xuống sân bay chính ở thủ đô Amsterdam, tôi đâu ngờ nó cũng nằm ở độ cao thấp hơn mặt nước biển đến 5,7 mét. Điểm cao nhất của Hà Lan ở đâu? Ở vùng đất gần biên giới Đức và Bỉ, nhưng cũng chỉ cao 321 mét so với mực nước biển.

Từ thực tế này, không chỉ có đôi giày gỗ ra đời mà cối xay gió cũng được hình thành.

Trong quá trình lấn biển giành đất, người ta đã đắp đê ngăn nước, dùng máy bơm kiểu cối xay gió, tất nhiên nó ngày càng được cải tiến, để tát nước ra rồi tôn đất lên cao hơn. Những vùng đất lấn được này gọi là polder. Với tâm lý phải thường trực đối đầu với thiên tai, lũ dâng cao và đất lún xuống, nước ập tới cuốn phăng tất cả mọi thứ ra biển nên vai trò các những ông quan trông coi đê thời ấy có một quyền lực rất to lớn.

Chống lại cơn giận dữ của Thủy tinh cũng là mối lo triền miên của dân tộc Việt. Ở Việt Nam, việc đào đê trị thủy được tiến hành một cách có hệ thống, bài bản từ thời nào? Tôi sực nhớ đến chức quan Hà đê sứ thời nhà Trần, họ cũng có quyền lực tương tự như vậy chăng? Sau khi đoạt ngôi nhà Lý, nếu chỉ chấn chỉnh võ bị quân sự, mà không quan tâm đến cải thiện dân sinh thì không hẳn nhà Trần đã được lòng dân. Vì thế Thái sư Trần Thủ Độ, năm 1244, tâu vua Trần xuống chiếu lệnh các quan dân ra sức đắp đê Đỉnh Nhĩ ( đê quai vạc) hai bên bờ sông Hà để ngăn nước lớn; đắp đến đâu nếu ruộng đất người dân bị hao tổn, thì nhà nước đều quy ra giá tiền mà đền bù. Để công việc tiến hành nhanh chóng, ông đặt ra chức quan Hà đê sứ để đôn đốc, chọn các quan ít việc giao cho giữ chức này. Thế là hàng năm cứ đến mùa nghỉ làm ruộng thì đắp đê và đào ngòi để phòng khi nước lụt và đại hạn, rồi bắt trồng cây ở hai bên thân đê để giữ cho đê khỏi bị sạt lở. Tầm nhìn xa của Trần Thủ Độ được nhà sử học Ngô Thì Sĩ ghi nhận trong Việt sử tiêu án: “Bắt đầu có đắp đê từ đây”. Rõ ràng Trần Thủ Độ đã đẩy mạnh công cuộc trị thủy, làm thủy lợi mà trước đó chưa mấy ai nhìn ra ích lợi của nó.

Trở lại câu chuyện với Charlotte Zelders, Thịnh cũng hỏi thêm:

-Vậy khi cô đến Việt Nam có ấn tượng gì khó quên nhất?

Charlotte Zelders cười thật tươi:

-Chả giò.

Ngập ngừng trong giây lát cô buột miệng:

-Xe máy quá nhiều.

Chúng tôi cùng cười vang. Gió ngoài sông thổi lên lồng lộng.

Với đôi giày gỗ, tôi đã thấy họ thể hiện từ nhỏ xíu khoảng một lóng tay đến... 2 mét! Và màu sắc thì vô cùng tận. Từ một màu hoặc để mộc không trang trí đến sặc sỡ màu sắc khác nhau, miễn là đẹp mắt.

Hoa tulip cũng thế. Những bông hoa này hầu hết được làm bằng gỗ, mỗi hoa là một màu riêng biệt, có cả màu đen. Nếu có hoa nở thắm như môi cười của cô gái hạnh phúc bởi lần đầu trong đời được bước lên xe hoa về nhà chồng, thì cũng có hoa chúm chím như tình yêu trinh nữ dậy thì. Du khách tha hồ mà chọn.

Và cối xay gió, tôi thấy có loại làm bằng nhựa, gỗ, gốm, kim loại... to nhỏ đủ cỡ - kể cả vẽ lên đĩa gốm như một bức tranh nghệ thuật.

Tóm lại, chỉ có ba biểu trưng ấy nhưng người ta đã sáng tạo nhiều cách thể hiện. Hơn người là ở chỗ đó. Cũng là hạt gạo nếu để nguyên nấu thành cơm, nhưng xay ra thành bột thì người ta làm thành sợi bún, sợi mì... và hàng chục loại bánh “hầm bà lằn” khác nhau. Để làm gì? Để đổi món cho ngon miệng dù bản chất của nó cũng chỉ là chất bột đấy thôi. Nghĩ đến đây, tôi phải “tâm phục khẩu phục” nghệ thuật ẩm thuật ở Huế. Chỉ là bột, nhưng qua bàn tay khéo léo, tinh tế và nhu mì của các bà nội trợ của vùng đất mà Bùi Giáng nhìn thấy “Vẫn còn núi Ngự trên bờ sông Hương”, họ chế biến thành vô số thứ bánh khác nhau. Mà mỗi loại bánh khi nếm, tôi lại ngạc nhiên vì sao lại ngon đến thế? Nhưng quen thuộc nhất có lẽ là “bánh nậm”, bởi thế chỉ riêng ở Huế mới có thành ngữ “Con tinh bánh nậm”, nghe ra vừa tinh nghịch, vừa hồn nhiên và láu lỉnh thế nào ấy...

Chợt Thịnh hỏi:

-Có mua gì không?

Tôi giật mình rồi ngần ngừ trong giây lát. Bởi tôi đang miên man suy nghĩ, chỉ là cối xay gió, giày gỗ, hoa tulip nhưng tại sao người ta có thể nghĩ ra nhiều cách thể hiện đến thế? Trí tưởng tượng của họ phong phú quá đi thôi. Muốn mua những hàng lưu niệm biểu trưng của văn hóa Hà Lan để đem về làm quà cho người nhà, dù không rẻ chút nào. Một bông hoa tulip giá bán vài Euro, mắc hơn cả chùm hoa tươi ở chợ Bến Thành, nhưng lẽ nào không mua? Trong khi mắt no nê ngắm nhìn hàng hóa phong phú của họ thì trong trí óc tôi lại cựa quậy những sự so sánh này nọ. Nhưng tôi vội gạt phắt đi và cúi xuống chọn những bông hoa tulip vì nghĩ đến em yêu. Trước ngày đi xa, em đã dặn rồi. Lời dặn dò ấy, làm sao tôi có thể quên? Đôi mắt đen nhanh nhánh nhìn tôi tha thiết như thế thì dù thế nào đi nữa tôi cũng mua cho bằng được. Không rõ, trong chuyện cổ của người Hà Lan có “sự tích về hoa tulip” không? Nhưng tôi biết có câu chuyện hấp dẫn liên quan đến hoa tulip, hấp dẫn đến nỗi ngay sau đó, lập tức tôi nghĩ đến phong trào nuôi cút ở miền Nam trước năm 1975. Ấy là cái thời không rõ do đâu, mà người ta đua nhau nuôi cút để rồi phá sản một cách tức tưởi.

Từ thế kỷ XVI ở châu Âu, người ta bắt đầu biết đến một loài hoa lạ, gọi hoa Tiurban vì nó rất giống một loại mũ đội đầu ở Thổ Nhỉ Kỳ tên Tiurban. Người Hà lan rất cuồng nhiệt đón nhận sắc màu rực rỡ, tươi thắm của nó và trồng ở nhiều nơi, họ gọi hoa tulip (hay người Trung Quốc dịch là hoa uất kim hương). Với các nhà người làm vườn chuyên nghiệp họ không chỉ trồng bằng hạt giống mà còn nghĩ đến cách lai tạo nhiều hoa tulip giống mới. Dần dần việc chơi hoa này như một nhu cầu thời thượng, đã là dân “sành điệu” thì dứt khoát không thể không có hoa tulip trong nhà. Trước nhu cầu này, giá hoa tăng dần lên là lẽ tất nhiên, nhưng ban đầu giá cả của nó còn có thể chấp nhận được.

Sang thế kỷ thứ XVII, giá hoa tulip bỗng tăng vọt đến chạm trời. Bởi lúc này các nhà buôn Hà Lan bắt đầu “phất’ lên cùng với sự thịnh vượng của đất nước. Giai đoạn này sử Hà Lan này gọi “thời Hoàng kim”. Sự thịnh vượng này có được là nhờ các hoạt động của Công ty Liên hiệp Đông Ấn thành lập năm 1602, Công ty Liên hiệp Tây Ấn “chuyên trị” việc đóng tàu và buôn bán dọc theo các bờ biển châu Á, châu Phi. Trong thời điểm này, Hà Lan cũng lập các thương điếm ở Malaysia, Việt Nam, Nam Phi, Nhật Bản và các thuộc địa ở Indonésia và Nam Mỹ... Họ thịnh vượng bằng nghề đánh cá. Ngay từ thời Trung cổ, Hà Lan đã nổi tiếng với những thùng cá trích kếch xù xuất đi thị trường quốc tế. Với cá trích, họ đã hoàn thiện đến mức tuyệt hảo của công nghệ chế biến. Chỉ một nhát dao, vâng, họ moi ruột cá trích chỉ bằng một nhát duy nhất. Mà động tác này chỉ diễn ra trong chớp mắt. Và cá trích nếu được họ ướp muối thì giữ được chất lượng gần như đến vô tận, đến độ... “thiên thu bát ngát”!

Tài đến thế là cùng.

Nhưng thử hỏi cá trích có ích lợi như thế nào cho sức khỏe? Chắc là có. Có cụ thể như thế nào thì tôi không biết. Chỉ biết vừa rồi, ngày 29.6.2005, cụ bà Henny van Andel-Schipper - một cựu giáo viên dạy nữ công, sinh ngày 29.6.1890 tại thành phố Smilde (Hà Lan) vừa ăn mừng sinh nhật lần thứ 115, sống thọ nhất thế giới hiện nay. Bí quyết trường thọ mà cụ cho biết, chỉ dùng một suất cá trích trong khẩu phần ăn hàng ngày. Mà cá trích là loại cá như thế nào chứ? Thú thật, trước đây để làm một người đàn ông gương mẫu và đạo đức tốt, tôi cũng có vài lần đi chợ mua cá. Chính nhờ “thâm nhập thực tế”, tôi đã viết được bài thơ “Đàn ông đi chợ Tết”. Nay lẩm nhẩm lại vẫn còn thấy hay:

Cao hứng ngày xuân đi chợ Tết

Chân mang giày, cổ thất cravate

Ai nỡ nào nói thách đàn ông

Giữa dòng người, tôi huýt sáo thong dong

Lanh lảnh tiếng rao mời chào những cá

Cá giẫy đành đạch như muốn hụt hơi

Cá sặc bướm này quằn quại đang bơi

Cá vồ, cá trê nằm trơ mắt ngó

Cá lòng tong kia đang bơi quạu quọ

Tôi quờ quạng rờ con cá lưỡi trâu

Sực nhớ vợ dặn khoái cá bã trầu

Đặt tiền xuống mua. Thôi, mua cá nhái

Cá thở quều quào lách luồn quày quại

Tội nghiệp nên thôi. Mua lấy cá mè

Cá nằm quay lơ - vợ rủa ai nghe?

Mặt nàng quằm quặm còn chi là Tết?

Hay mua cá trê?Nhưng làm sợ mệt

Con cá út thịt trắng muốt béo dai

Cá ngát, cá linh quắn quíu nằm đây

Bụng cũng muốn mua. Làm sao mua hết?

Loạng choạng một hồi sắp tàn ngày Tết

Mặt mày quàu quạu chủ cá mắng vui:

“Mua đi cho rồi lựa tới lựa lui!”

Nàng nguýt, háy, lườm làm tôi nhớ...vợ

Thông cảm đàn ông lần đầu đi chợ

Trong bài thơ này không có con cá trích. Vậy cá trích là loại cá như thế nào? À! Ông Nguyễn Ngọc Hải khi làm “Từ điển vể 270 con vật”, cho biết như sau: “Cá trích (herring): cỡ nhỏ (10 - 14 cm) gồm cá biển, cá nước ngọt và cá di cư. Cá trích chủ yếu ăn động vật nổi. Đây là đối tượng quan trọng của nghề cá thế giới. Cá trích ở nước ta sống ở ngoài khơi vịnh Bắc bộ, biển Đông, đến mùa đẻ vào tháng 3 - 4 tập trung thành từng đàn di cư vào vùng gần bở để đẻ. Ngư dân ven biển dùng lưới vây kết hợp với ánh sáng đèn, khai thác được khá nhiều. Có những loài cá trích mà đường di cư đến các biển Bắc cực rất khó xác định, vì lúc thì chúng ở gần mặt nước, lúc ở dưới sâu. Đôi khi cá ở sâu cách mặt nước hàng trăm kilômét, rồi bỗng nhiên lại ngoi lên bất thình lình từng đàn dày đặc, chen lấn, xô đẩy nhau. Trong trường hợp này, một chiếc thuyền khó mà quay đi quay lại được. Nếu người ta có cắm mái chèo xuống nước lúc ấy thì chỉ chọc vào toàn những cá là cá!”

Ủa! Đang chuyện nọ sao lại xọ chuyện kia? Lẩn thẩn quá đi thôi. Vậy xin trở lại với câu chuyện của thế kỷ XVII.

Sự phồn vinh bằng nghề đánh cá sẽ lý giải vì sao người Hà Lan nổi tiếng với nghề đóng tàu gỗ, nghề đi biển dẫu thuở ấy chưa có la bàn nhưng họ sẵn sàng đối mặt với bất trắc của giông gió biển khơi đi tìm những chân trời mới. Họ đi và lúc ấy chắc hẳn không thèm biết đến câu nói sau này của nhà văn Mohamed Dib: “Người ta nhiều khi quên mất rằng biển không bao giờ có tuổi, sức mạnh của nó nằm ở đấy”, mà chỉ tự hào như Horace đã nhìn nhận: “Người đầu tiên lao con thuyền mỏng mảnh của mình ra biển dữ hẳn phải có trái tim bọc bằng đồng và gỗ sồi”.

Khi “trong tay sẵn có đồng tiền”, các thương nhân giàu có nhờ cá trích thu hoạch được trên biển dữ  đã chơi hoa tulip. Cách chơi của họ mới ghê gớm làm sao, bên cạnh việc xây nhà cao cửa rộng, ăn mặc quần là áo lượt, lên ngựa xuống xe thì họ còn tìm mua cả... rừng hoa rực rỡ đem về trang trí trong nhà, trong vườn. Giá hoa tulip bỗng tăng vùn vụt đến chóng mặt, tăng đến ngất ngư, tăng đến nỗi người ta gọi đây là hiện tượng “sự cuồng hoa tulip” trong lịch sử tài chính. Giá của củ hoa này đang nhích dần đến giá bằng... ngôi nhà tráng lệ! Có tài liệu cho biết một củ hoa tulip thuở ấy có thể bán được 2.500 guilder, đủ sức để mua 2 xe tiểu mạch, 4 xe cỏ khô, 4 còn bò lực lưỡng, 4 con lợn béo ục ịch, 12 con cừu, 4 thùng bia, 2 thùng bơ, 550 kg phomát, 1 cái giường, 1 bộ quần áo và 1 cái cốc bằng bạc. Thông tin này khiến ta lè lưỡi kinh ngạc, khó có thể tin được tại sao lại như thế nhỉ?

Từ năm 1634, người ta phải dùng cân tiểu li để cân các củ hoa tulip như ngày nay ta dùng để cân vàng vậy. Sự đầu cơ bắt đầu hình thành. Hễ có tiền thì người ta đầu tư vào việc mua củ hoa này về trồng để chờ bán ra với giá cao hơn gấp nhiều lần. Vòng quay của công cuộc đầu cơ đã lôi cuốn mọi tầng lớp trong xã hội. Các nhà làm luật cũng không đứng ngoài, họ soạn thảo ra các quy chế về luật mua bán hoa hoặc chuyên thảo các hợp đồng!

Nhưng trên đời này, không có gì có thể đi ngược lại quy luật biện chứng. Khi đến một thời điểm thích hợp dứt khoát nó phải thay đổi. Sau một thời gian dài “làm mưa làm gió”, cung cầu trên thị trường đã trả hoa tuylip về đúng với vị trí của nó. Việc bán đấu giá đã không còn diễn ra theo đúng dự kiến của các nhà buôn lớn. Chẳng hạn, dự kiến với một củ hoa tulip họ sẽ thu về 1 guilder, hoặc cao hơn nữa. Nhưng không, họ chỉ đạt được 0,5 guilder! Giá hoa tulip rớt dần và cơn sốt về hoa cũng bắt đầu hạ nhiệt. Tin xấu này lan truyền khắp nước Hà Lan và tạo nên sự hoảng loạn chưa từng có. Bao nhiêu người đã phá sản khi lao vào vòng quay này? Bao nhiêu người đã tự tử vì trắng tay? Bao nhiêu người hoảng loạn tâm thần vì tiếc của?

Dần dần hoa tulip trở về giá trị thật của nó.

Năm 1999, người ta kỷ niệm 400 năm hoa tulip được trồng tại Hà Lan. Như thế loại hoa này xuất hiện tại Hà Lan bắt đầu từ năm 1599.

Tôi cầm những bông hoa tulip trên tay. Mỗi bông hoa chúm chím nở ra ba cánh và bên trong còn he hé đang nụ. Bông hoa làm bằng gỗ nên không có hương. Hương của nó có giống như hương tóc của em yêu sau mỗi lần tắm gội không? Có lẽ nó cũng dịu dàng, đằm thắm và có ma lực quyến rũ đến thế là cùng chứ gì? Liếc nhìn qua cô bán hàng đang lơ đễnh nhìn ra phía ngoài, tôi đưa bông hoa gỗ lên mũi  ngửi và mỉm cười một mình. Thịnh hỏi:

-Cười gì thế?

Tôi đang cười một mình thú vị với sự so sánh ấy. Nhưng không trả lời.


 

4.

Ăn trưa ở “restaurant De Hoop Op D’ Swart Walvis” xong, chúng tôi được cô Charlotte Zelders hướng dẫn đi tham quan quần thể du lịch Zaanse Schans.

Lúc ngồi ăn, chỗ ngồi sát bên dòng sông Zaan. Nước lững lờ và những chú vịt le te trôi theo dòng. Những nếp nhà cổ kính dọc theo sông mà phía trước mọc đầy hoa tím. Chúng tôi chọn chỗ ngồi dưới những bóng cây hoa hồng rợp mát và những tia nắng len lỏi xuống tận chân. Món ăn độc đáo nhất ở đây vẫn là món cá trích được xuyên qua cây để nướng. Nối liền của mỗi khúc cá là lát chanh tròn xắt mỏng, lá (không rõ lá gì, nhai thấy khô, đắng) và lát cà chua cũng mỏng. Cứ thế người ta làm hết cả một xiên cá nướng. Cùng với nó trên đĩa còn có đậu Hà Lan và mì sợi. Ăn thấy ngon và lạ miệng. Mà lạ, dù món gì khi sờ vào đĩa trắng muốt, tôi cũng thấy nó nóng để gợi lên cảm giác “an toàn thực phẩm”.

Chợt tôi nghiệm ra rất đỗi hàm hồ rằng, cách phân biệt thức ăn của các dân tộc trên thế giới, dù vẫn vật liệu nấu nướng ấy, vẫn “phụ tùng” chế biến ấy nhưng khoái khẩu hay không còn phù thuộc đến 99% là... nước chấm! Nó quan trọng đến thế ư? Sao lại không? Bởi đang ăn con cá trích, tôi lại nhớ đến con cá nục quê mùa. Nhớ bởi ở đây không có nước mắm Nam Ô hay Phú Quốc hoặc Phan Thiết... Này nhé! Cả rổ cá nục vừa đem từ biển lên, chỉ cần rửa qua loa qua nước ngọt, làm vài động tác nhanh gọn, xong, bỏ vào nồi nước đun cho sôi lên. Chưa hút tàn điếu rê Cẩm Lệ, chưa nhai giập miếng trầu, ta đã có món ăn ngon lành.

Đơn giản vậy sao?

Nhầm!

Bà nội trợ khéo léo không quên cho thêm vào trong nồi một ít muối trắng, tiêu, ớt bột lẫn ớt trái để nguyên trái. Ấy thế mà, chỉ cần lúc nước nóng trong nồi gờn gợn lên những bọt li ti thì lập tức ta đã điếc mũi, đã nuốt nước bọt bởi cái mùi cá thơm ngon đã lan tỏa theo khói nhẹ nhàng kia... Cá chín rồi. Ta thong thả trải cái bánh tráng mỏng xuống mặt đĩa, đặt lên đó vài cọng rau xanh, bất kể rau gì cũng được, nhưng dứt khoát không thể thiếu được rau muống! Rồi ta cuộn tròn bánh tráng lại, chấm vào nước mắm không pha chế cầu kỳ, nếu cần thì cho thêm một chút xíu nước cá luộc còn đang nóng hổi trên bếp. Chỉ thế thôi. Và cắn một miếng! Đã đời chưa?

Nhưng nếu cũng con cá ấy, cũng các loại rau ấy, nhưng ta chấm bằng loại nước chấm khác thì cái ngon kia đã giảm đi nhiều lắm. Nó sẽ giảm đến mức độ ta không ngờ tới, giống như cái cảm giác thất vọng khi ta thấy một cô gái mỹ miều đội khăn đóng, mặc áo dài thướt tha nhưng chân lại mang đôi giày Alidas!

Trong lúc thưởng thức món cá trích nướng tuyệt ngon, chúng tôi uống rượu vang và bia Heineken nổi tiếng. Rõ ràng, hương vị bia sản xuất ở nguyên quán đậm đà hơn, nó gợi lên cảm giác sâu lắng như sau khi được đọc một bài thơ Đường luật mà niêm luật của từng câu chặt chẽ, bằng trắc nhịp nhàng; nó gợi cho ta nhớ đến cảm giác của một người nhàn nhã trong lúc cao hứng leo lên ngọn núi cao vốc trên tay một ngụm mây trắng để tận hưởng cái thú vị bất ngờ thiên nhiên vừa ban tặng; và cái màu vàng sóng sánh kia, nó vàng rực để ta có cảm giác yên tâm như khi nhìn vạt nắng ngoài mái hiên đời đang nhẹ nhàng đến, để an ủi tâm hồn đang rét mướt cô đơn... Trong lúc ăn, cô Vũ Kiều Linh, người phiên dịch cho biết:

-Đây là một trong những khu du lịch cổ với những tòa nhà bằng gỗ màu xanh nằm dọc hai bờ sông Zaan, những khu vườn nhỏ yên tĩnh, những cây cầu nhỏ bắc qua dòng sông hiền hòa, những cửa hiệu thủ công mỹ nghệ, những cửa hàng bán quà lưu niệm và những cối xay gió là biểu tượng của Hà Lan. Khu làng nhỏ này cho ta thấy một cách đầy đủ về những ngôi làng bên bờ sông Zaan vào thế kỷ thứ XVII và XVIII.

Bàn chân của tôi bước đi thong thả trong khu vườn cổ này trong một trưa nắng dịu. Nắng còn tươi non. Làng được lập trên đất bồi của sông, vì thế đất đai của nó màu mỡ. Cỏ xanh mượt và được tỉa tót cần thận. Bước qua chiếc cầu nhỏ, tôi nhìn xuống, dưới dòng xanh vẫn có bèo lấm tấm li ti bỗng gợi nhớ quê nhà đến nao lòng.

Tại đây ngôi nhà cổ nhất có từ thế kỷ XVII còn tồn tại là nhà số 17. Mái nhà nhọn, lợp ngói xám, không có lan can. Đứng từ bên ngoài nhìn vào ta thấy phần trên được cấu trúc thành hình tam giác, sơn màu xanh đậm, có trổ ba cửa sổ; nối tiếp với phần dưới là hình chữ nhật, màu nâu đậm, có một cửa ra vào và hai cửa số lớn; các cửa sổ ở nhà này này đều lắp kiếng. Phía trước nhà có vườn hoa. Những bông hoa thắm tươi đang nũng nịu trong nắng. Đây cũng là cấu trúc chung cho các ngôi nhà trong khu làng cổ này. Điều nhìn thích mắt là tường xây nhà bằng loại gạch có kích cỡ như gạch đinh của ra. Xây xong, họ cứ để như thế chứ không phải láng thêm một lớp xi măng, rồi quét vôi hoặc sơn gì cả. Từng kẽ hở giữa các viên gạch tạo nên sự nhẹ nhàng và thoáng đạt biết bao nhiêu.

Tôi lại bước vào trong nhà, không, phải gọi “siêu thị” Albert Heijin thì đúng hơn, được ghi nhận là tiền thân của các siêu thị tại Hà Lan. Khách đẩy cửa vào thì có tiếng chuông reo lên như lời chào mời thân thiện của chủ nhà. Không chỉ tham quan mà nơi này còn có bày bán đủ mọi thứ cứ trông như một cửa hàng tạp hóa, này là trứng gà, trứng vịt, kia là cà phê, thịt nguội v.v... Nghe đâu, nơi này đang giữ bí quyết pha cà phê ngon nhất thế giới (?), vì thế tôi đã nhìn thấy trên tường có treo những hình ảnh xưa về cách pha chế của nhiều thế kỷ trước. Trước khi bước ra, tôi đứng viết đôi dòng về cảm nghĩ trong cuốn sổ lưu niệm đang để trang trọng trên một cái bàn cao.

Bước ra ngoài, tôi đã nhận ra nơi này có nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm. Nhưng thích nhất là được tham quan máy xay gió còn nguyên vẹn từ những thế kỷ trước. Thấy tận mắt cái cối xay gió bỗng sực nhớ đến anh chàng Don Quijote có sức sống thiên thu của văn hào Tây Ban Nha Cervantès bất tử. Giá trị của một tác phẩm văn học đích thực chính là chỗ đó. Phóng một tầm mắt nhìn về phía cỏ non xanh rợn, dòng sông xanh biếc, thấy những chiếc cối xay gió và những chú cừu non, bê non lững thững bình yên bỗng tôi dạt dào mấy câu thơ chợt hiện lên trong cảm hứng bất ngờ:

Cối xay gió đứng cuối trời

Dòng xanh trôi nắng vàng phơi sắc hồng

Nhìn hoa lẩn thẩn ven sông

Bỗng tôi gỗ đá động lòng từ tâm

Ấn tượng của thiên nhiên cũng đánh thức trong tâm hồn con người sự hướng thiện. Chúng tôi bước vào trong một nhà lưu niệm, phía bên ngoài có ghi rõ  “Verfmolen De Kat anno 1782”, giá vào cửa là 2.5 Euro để tận mắt thấy sự vận hành của cối xay gió. Nhà kiên cố làm bằng gỗ. Mái nhà của nó khi đứng xa nhìn, chắc chắn ai cũng ngỡ lợp bằng đá xám đã ngả sang màu đen, nhưng đến gần mới thấy không phải thế. Nó được lợp bằng một loại lá, nói đúng hơn là bằng một loại nứa mọc ven sông, thân ống to như ngón tay út.

Tôi ngạc nhiên quá khi vào cửa, người ta đưa cho một tờ giấy giới thiệu có viết bằng tiếng Việt, tất nhiên một loại tiếng Việt diễn đạt câu cú còn nôm na, vụng về. Điều này chứng tỏ, người Việt ta đã đến tham quan nhiều nên người ta mới “tiếp thị” như thế này chăng? Điều này không lạ. Với bản chất của một nhà buôn chuyên nghiệp, từ thế kỷ XVI, bằng đường biển, họ đã giao thương với hầu hết các nước trên thế giới - chẳng hạn năm 1596 họ đã tới được Indonésia để phá bỏ thế độc quyền mà thủy thủ Tây Ban Nha đã nắm giữ hơn một thế kỷ - từ đó, họ hình thành một quan niệm khác về vấn đề sử dụng ngoại ngữ trong giao thiệp. Nếu người Anh, Pháp... có tham vọng muốn các dân tộc khác khi giao tế phải sử dụng ngôn ngữ của họ và ngôn ngữ của họ có sức lan tỏa, chinh phục các dân tộc khác thì người Hà Lan không thế. Họ cho rằng, khi trao đổi hàng hóa nếu sử dụng bằng ngôn ngữ của bạn hàng vẫn tốt hơn thứ tiếng của mình. Nếu lúc mới gặp nhau, bạn nói bằng tiếng Hà Lan? Dĩ nhiên họ bày tỏ sự khâm phục bạn nhưng sau đó chuyển sang... tiếng Anh! Họ không có nhu cầu tăng cường ảnh hưởng của tiếng Hà Lan trên thế giới. Thế có lạ không chứ? Theo tôi được biết hiện nay các trường phổ thông ngoài tiếng Hà Lan, học sinh còn phải học thêm tiếng Anh, Pháp và Đức. Biết thêm một ngoại ngữ là sống thêm một cuộc đời nữa. Nhưng than ôi! Tôi chỉ là người “câm” vì không rành một ngoại ngữ nào! Khổ thế! Mà câm cũng phải thôi. Tôi thuộc thế hệ phải gánh chịu sự vận hành của một nền giáo dục kỳ lạ trong thập kỷ trước. Ngày còn trẻ ở bậc trung học, dù tôi đã được học tiếng Pháp, nhưng vào đại học không được tiếp học thứ tiếng này nữa mà bắt buộc phải học tiếng Nga. Cuối cùng ngày ra trường, tiếng Pháp chỉ còn nhớ lõm bõm mà tiếng Nga thì cứ trượt ra ngoài trí nhớ! Nó trợt nhanh đến nỗi cứ như người tình phụ một khi đã bỏ ta đi thì nghiến răng “một đi không trở lại”! Sau gặp cô giảng viên dạy tiếng Nga cho tôi ngày trước, được biết cô đã chuyển sang dạy... tiếng Anh.

Đi trong nhà “Verfmolen De Kat anno 1782”, tôi thấy có khá nhiều hình ảnh miêu tả việc làm cối xay gió trong nhiều thế kỷ với nhiều mô hình khác nhau và thay vì nghe người ta thuyết minh bằng tiếng Anh, tôi tìm hiểu cối xay gió bằng tiếng Việt có hình ảnh minh họa vậy. Cách viết của họ như tôi đã nói là còn thô dụng, rối rắm, tối nghĩa trong cách diễn đạt nhưng tôi vẫn ghi nguyên văn lại để thấy tiếng Việt ta còn xa lạ ở Hà Lan lắm dù đã bước sang thế kỷ XXI. Dù vậy, nhưng qua đó ta cũng biết được một vài thông số cần thiết về cối xay gió Hà Lan. Họ viết như sau:

“Chào mừng quý khách đến quạt gió làm bằng màu sơn “De Kat”. Sự tham quan quạt gió hoàn toàn chịu trách nhiệm khi tai nạn xẩy ra. Ông bà giúp đỡ chúng tôi trong quạt gió này không hút thuốc, không bước qua những nơi đã chặn lại, hoặc kéo cờ- tông.

Con sông Zaan:

Bắt đầu câu chuyện ở bên ngoài. Một gốc (?) gần đây. Đó là con sông Zaan. Vào khoảng năm 1600 thì trở nên triệu phú do buôn bán và đánh cá. Người địa phương (Zaankaters) chế tạo quạt gió đầu tiên. Trước tiên sử dụng quạt gió để tát nước. Sau này thì phát triển thành khu công nghiệp. Họ xay lúa mì, giày, cây ép dầu, bố tất, thuốc lá, dây thừng và nhiều việc khác nữa trong tổng cộng 1.000 cái tại vùng này. Từ năm 1850 quạt gió được thay thế bằng máy hơi nước. Hiện giờ chỉ còn lại 13 cái quạt gió để làm di tích của làm việc và kỹ thuật thời đó.

Gió:

Gió là một loại động năng, rất khó được điều khiển, nhưng người ta dùng nó để sử dụng quạt gió (không có gió phải ngừng). Thật ra không có người trông coi quạt gió thì không được. Tại vì sức nặng của cánh quạt và bánh răng nặng tới 1.500 kg để hướng theo chiều gió. Ông ta điều khiển tốc độ của quạt gió với cánh bướm và những bảng như những hình ảnh in phía sau. Muốn ngừng những bánh răng ông ta dùng cục chêm, để chặn gió mạnh hơn thì ông ta sẽ dùng đồ nghề nhiều hơn. Khi không có gió thì làm vệ sinh, ăn nhậu, đánh bài và tán ngẫu.

Màu:

Màu, nói chính xác hơn phẩm màu, là sản phẩm của quạt gió này. Từ năm 1600 họ nhập khẩu màu cây từ những vùng nhiệt đới để nhuộm vải. Những khúc cây nặng lớn bỏ vào bồn cắt thành miếng nhỏ, sau đó nghiền nát bằng cối nặng (từ 5.000 đến 7.000 kg) để thành bột. Gần năm 1700 quạt gió đồng thời xay đất màu, phấn, bột để làm việc vẽ tranh vẽ. Họ đào đất ướt, sau đó để trong nhà cho khô. Sơn từ đó để họa sĩ dùng làm sơn dầu”.

Và cũng trong tờ giấy giới thiệu này cho biết nơi chúng tôi tham quan: “Có thể nói đây là cái quạt gió cuối cùng trên thế giới để chế tạo sơn”. Như thế, mục đích của cối xay gió, không chỉ có công dụng “Tạo đất lấn biển” như trong đáp án cuộc thi Hành trình Văn hoá được phát sóng ngày 21.10.2004 của VTV đâu nhé!

Tất nhiên chỉ những thông tin như thế chưa làm tôi hài lòng. Tôi ấm ức lắm, nhưng biết làm thế nào? Tôi chỉ là người “câm” không hơn không kém!

Từ chỗ này, chúng tôi băng qua con đường nhỏ để đến với xưởng làm giày gỗ. Tại đây, các người thợ biểu diễn luôn cả cách làm giày gỗ cho du khách xem chơi. Cầm khúc phôi gỗ, anh chàng nghệ nhân tung lên một vòng rồi ngả người ra sau chộp lại một cách điệu nghệ. Cứ như diễn viên xiếc. Khúc gỗ này được đưa vào máy tiện qua vài công đoạn khác nhau, chỉ loáng một cái, chừng 5 phút, một chiếc giày gỗ đã hoàn tất! Anh ta cười khì và nói một tràng tiếng Anh.

-Anh ta nói gì thế?

Nghe tôi hỏi, Thịnh đáp:

-Ngày xưa người ta phải mất 2 giờ rưỡi mới làm xong một đôi giày, còn bây giờ...

Điều làm tôi ngạc nhiên là ở công đoạn cuối cùng, trước khi sấy khô, anh ta đặt miệng chỗ chiếc giày đã được máy khoét lõm để xỏ chân vào, và hà hơi ưỡn ngực thổi mạnh. A! Thì ra đây là loại gỗ mềm, còn tươi lắm nên mới có... một dòng nước trào ra xối xả! Tưởng chừng như anh ta vừa ngậm nước trong miệng phun ra vậy. Chỉ mất 5 phút để hoàn tất, nhưng mỗi đôi giày gỗ làm ra, cỡ chân người lớn, được sơn phết, treo lủng lẳng đầy cả xưởng bày bán với giá từ 30 - 40 euro!

Từ xưởng này đi ra ngoài, nhìn những con bò béo tốt lững thà lững thững đi trên đồng xanh cỏ mênh mông như thi sĩ đi tìm nàng thơ, bỗng tôi tưởng tượng đến lúc các cô thôn nữ Hà Lan mang giày gỗ vắt sữa bò! Hình ảnh ấy chắc phải thi vị lắm đây! Nhưng tại sao phải là hình ảnh vắt sữa? Bởi đơn giản Công ty sữa quốc tế Campina mời tôi đi chuyến này nên sự liên tưởng ấy đến một cách ngẫu nhiên. Rồi tôi lại nghĩ đến thân phận của thi sĩ. Họ cũng giống như con bò sữa đấy thôi. Vừa ngu ngơ, vừa hiền lành, cứ như chân đi không chạm đất trên trần gian này. Còn con bò sữa? Nó hiền lành, nhẫn nại và lúc nhìn vào mắt nó thì tôi bỗng có một cảm giác bình yên và tin cậy. Nếu con bò đem lại cho con người một nguồn sữa quý báu thì nhà thơ lại đem cho đồng loại một nguồn cảm hứng từ trí tưởng tượng của mình. Lan man nghĩ như thế, tôi hý hoáy viết vội trong sổ tay bài thơ “Giày gỗ”:

Từng ngày trên cánh đồng hoa

Em đi vắt sữa bước qua mặt trời

Thi sĩ là con bò cười

Cỏ non xanh ngát hát lời yêu thương

Sữa thơm như những giọt sương

Sương hiền như gió qua vườn tình nhân

Trong veo giọt nắng trong ngần

Tan trong giọt sữa thanh tân đậm đà

Mắt xanh môi biếc tay ngà

Nhìn giày gỗ nhớ quê nhà của em

Cánh đồng cỏ rộng thang thênh

Tôi - con bò sữa - lãng quên đường về

Xếp lại cảm hứng để còn đi tham quan nữa chứ, chẳng lẽ mất mấy ngàn cây số đến đây chỉ để... làm thơ? Dạo quanh quần thể du lịch Zaanse Schans này, tôi thấy bất cứ cửa hàng nào cũng chỉ bày bán giày gỗ, hoa tulip và cối xay gió! Điều này khiến tôi nghĩ, việc khuếch trương khu du lịch này cũng không ngoài mục đích bán hàng lưu niệm. Các dịch vụ ăn uống cũng mọc lên với giá không rẻ chút nào. Muốn vào WC ư? 0,5 Euro! Muốn uống chai Evian giải khát, loại nước tinh khiết chỉ chừng nửa lít ư? 2,5 Euro! Nhìn chung giá cả ở đây mắc hơn nơi khác nhiều lần nhưng người ta vẫn náo nức tìm đến và tranh nhau mua. Lại nghĩ, làm du lịch mà không “móc túi” được du khách thì đâu phải làm du lịch.

Bằng con mắt quan sát láo liên và xoi mói của một nhà báo, tôi nghĩ gì?

Đó là một trong những cách làm du lịch đạt đến chuyên nghiệp của người Hà Lan. Họ đã tỏ ra biết “đánh bóng” tên tuổi của khu du lịch này bằng nhiều cách để từ đó, những sản phẩm bày bán ở đây có thêm một sức hấp dẫn riêng. Cứ nhìn cục đá thô kệch hoặc chảo bùn đặc quánh vô tri vô giác kia, nếu nặn thành tượng thần thánh, sơn phết lại, đặt lên nơi trang trọng và được nhang khói thì người đối diện cũng phải cúi đầu mà chiêm bái thành kính. Ấy là nghệ thuật tạo ra tâm lý. Có lần nhà Quảng Nam học Nguyễn Văn Xuân bảo với tôi, dù núi Phú Sĩ không phải cao nhất, đẹp nhất nhưng người Nhật biết cách để tôn vinh nó thành một biểu tượng của xứ Phù Tang. Từ khu du lịch của Hà Lan, tôi bâng khuâng nghĩ về hai địa điểm văn hóa có đẳng cấp quốc gia của Việt Nam không hề thua kém, thậm chí còn nổi trội hơn nữa là khác. Đó là làng cổ Đường Lâm (Sơn Tây) và làng Bát Tràng (Hà Nội).

Mấy năm trước, vì mê câu thơ “Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ” của Quang Dũng mà tôi đã tìm về xã Đường Lâm, chỉ cách Hà Nội chừng 50 km, nào có xa xôi. Vẻ đẹp tinh thần văn hóa Việt còn đậm nét ở các ngôi nhà cổ ở làng Mông Phu, Cam Thịnh, Đông Sàng và Đoài Giáp... Lần đầu tiên được nhìn thấy cổng làng bằng đá ong, bần thần đưa tay sờ lên phiến thời gian, thổi đi lớp bụi tôi thấy đá tươi đỏ như được chạm vào quá khứ. Bỗng tim đập loạn nhịp vì quá xúc động, ngỡ ngàng. Ngõ nhỏ vào làng, lúc ấy bà con nông dân đang phơi rơm. Rơm vàng rực đến nỗi tôi không dám ngồi trên xe lướt qua, mà bước xuống đi thật chậm như để hít thở vào trong lồng ngực cái mùi hương của quê hương mấy ngàn năm lúa nước. Tâm hồn tôi dịu lại khi nhìn những bức tường nhà bằng đá ong rực lên trong nắng trưa, nhìn những nhánh lá dâu tằm xanh nõn lẳng lơ theo gió, nhìn con ngõ hiền lành và yên tĩnh với những vạt hoa trinh nữ, hoa mua tim tím một màu để thấy thấp thoáng phía sau là những cánh cổng nhà bằng gỗ mộc vững chãi và biết đâu sau cánh cửa kia là một gương mặt “Mắt em dìu dịu buồn Tây phương” từng đi vào thơ Quang Dũng bất chợt hiện ra...

Hiếm có nơi nào trên thế giới mà từ nhà ở đến cổng ngõ, cổng làng, giếng nước tất cả đều sử dụng đá ong còn thô mộc chưa qua bàn tay mài giũa của con người, kể cả lớp sóng thời gian cũng chưa bào mòn đi những góc cạnh trên từng phiến đá.

Các ngôi nhà cổ ở đây này được lợp bằng ngói vẩy cá, tường bao quanh cũng làm bằng đá ong khiến ta có cảm giác không thể chối cãi đây là một quần thể kiến trúc thâm trầm, lặng lẽ mọc lên giữa một vùng thôn quê êm ả và bình dị rất đặc trưng cho làng vùng trung du Bắc bộ. Ở đây vẫn còn cây đa, bến nước trầm mặc ngàn năm mà ta tưởng chừng như hình ảnh ấy mới bước ra từ câu ca dao của thuở dựng nước... Tại làng Mông Phụ còn lại cái giếng độc đáo với tên gọi cũng không kém phần độc đáo là giếng Sui, nước trong vắt, trong veo như tâm hồn của trẻ thơ. Ở đó, tôi thấy có bảng đề chữ Nho “Nhất phiến băng tâm”, ngụ ý nói tấm lòng người dân trong trắng như phiến băng. Ở phía đông và  tây của đình làng cũng có hai cái giếng gắn liền với huyền thoại là hai mắt rồng. Há đây chẳng phải là điều hấp dẫn du khách sao? Điều thú vị là sân đình được đào thấp hơn so với mặt bằng xung quanh như một dụng ý “nước chảy chỗ trũng” khi “lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm...”. Nước từ trong câu đồng dao, từ trong văn minh lúa nước, từ trên trời cao các phía ào ạt đổ vào như ẩn ý một mong ước về một đời sống ấm no sung túc.

Hơn nữa sức hấp dẫn lớn ở Đường Lâm còn gắn với di tích, tên tuổi của hai anh hùng dân tộc Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Ngô Vương Quyền và của nhà ngoại giao Giang Văn Minh... Trong văn bia dựng năm 1390, phần cuối bia ghi rõ: “Một làng có hai vua, từ xưa không đâu có. Uy vũ và công đức còn truyền mãi mãi, miếu mạo trong làng vẫn giữ được như xưa”. Đây rặng duối cổ tương truyền là nơi buộc voi chiến của Ngô Vương Quyền, kia đồi Hổ Gầm nơi Phùng Hưng đánh hổ cứu dân, nọ nhà thờ sứ thần Giang Văn Minh... Mỗi bước chân ta đi qua, tưởng chừng như còn nghe trong gió thì thào kể về những câu chuyện oanh liệt trong lịch sử nước nhà.

Về năm tháng thì làng cổ Đường Lâm xuất hiện trước làng cổ Zaanse Schans nhiều lắm và cũng có nhiều nét độc đáo không kém. Nhưng tại sao đến nay ta không thể biến được thành một khu du lịch hấp dẫn du khách năm châu như người Hà Lan đã làm, dù từ ngày 12.3.2004, Cục Di sản (Bộ Văn hóa Thông tin) nước ta và Cục Tài sản Văn hóa, Trường Đại học nữ Chiêu Hòa (Nhật Bản) đã họp bàn về cách thức bảo tồn Đường Lâm.

Và Bát Tràng, làng gốm cổ nổi tiếng hình thành từ thế kỷ XV cũng còn giữ được vẻ đẹp, dù không còn thuần khiết như ở Đường Lâm, nhưng nó vẫn có sức hấp dẫn riêng. Bước vào làng, năm xưa tôi may mắn được nghe một cụ đồ giỏi chữ cho biết ngày trước ngay trên cổng làng có khắc hai câu đối bằng chữ Nho. Theo cụ đó là câu:

Lưỡng giới giang san đồ họa nhập;

Trùng môn yên nguyệt thái bình khai.

Nghĩa là: Hai bên bờ sông vẽ nên cảnh đi vào, cổng làng hai lớp, khói che mặt trăng, thời thái bình cổng làng mở ra.

Nét đẹp văn hiến ở làng Bát Tràng thừa sức để mở ra một khu du lịch với tiềm năng kinh tế dồi dào. Có điều là ta chưa nghĩ ra một cách “vận hành” như thế nào để phù hợp nhất đấy thôi.

Tôi đã tìm đến Bát Tràng cùng nhà thơ, nhà biên kịch Đoàn Tuấn. Trên đường về, nhìn khói đốt đồng ấm áp tỏa trong bóng chiều vàng chóe, tôi đã bị mê hoặc trước vẻ đẹp lạ lùng và quá đổi thanh bình. Ngay lập tức, ngồi lại trên vệ cỏ ven đường tôi mở sổ tay vì tưởng chừng như không ghi nhận ngay bài thơ “Bát Tràng”, đêm ấy sẽ không sao ngủ yên trước vẻ đẹp dân dã đang chín dần trong tâm tưởng:

Con đường quê cỏ mượt

Khói chiều lên biếc xanh

Gạch Bát Tràng mát lạnh

Mang giày đi sao đành?

Dưới ao sâu con cá

Quẫy đuôi cũng hiền lành

Gái men lam óng ả

Rơm vàng mượt bước chân

Một tiếng chim ngọt lịm

Tan trong chiều nhẹ tênh

Trong làng gió cổ kính

Ru lòng yên tĩnh hơn

Ngói âm dương lăng miếu

Rêu xám ướt và mềm

Một chiều qua vội vã

Nỗi nhớ lại lâu quên…

Nhà thơ khi du lịch vẫn là kẻ “có lợi” nhất, vì ít ra ngoài những sản vật, kiến thức đem về, anh ta còn có dịp tiếp cận với một nguồn năng lượng mới để làm giàu cho cảm hứng sáng tạo.


 

5.

“Khi tôi nhìn thấy lá cờ của Hà Lan trên bờ biển xa, lòng tôi reo lên chiến thắng”.  Đây là câu hát xưa được đặt trên môi của lũ học trò tiểu học, nhưng nay đã bị chính người Hà Lan loại bỏ. Họ loại bỏ vì không những không khiêm tốn mà còn gợi lên tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc. Nhưng sự tự tin về trình độ đi biển và niềm tự hào ấy của người Hà Lan là điều chính đáng. Điều này tôi nhận thấy khi vào Viện bảo tàng Madame Tussaud. Dù mệt lã, nhưng vừa rời khỏi khu du lịch Zaanse Schans về đến Amsterdam, chúng tôi lại lao vào Madame Tussaud, gần khách sạn Krasnapolsky, chỉ băng qua một con đường là đến. Trên đường đi, con mắt của tôi luôn bị níu lại bởi cái cảnh đông đảo nam thanh nữ tú ngồi uống bia, cà phê ngoài hiên quán xá dưới nắng chói chang chứ không ngồi trong bóng râm; bị níu lại bởi những đôi tình nhân đang say đắm hôn nhau dưới thanh thiên bạch nhật một cách hồn nhiên, đem câu Kiều “Xem trong âu yếm có chiều lả lơi” ứng vào trường hợp này là hoàn toàn chính xác; bị níu lại bởi những trò “sơn đông mãi võ” ầm ĩ ồn ào trước quảng trường lớn. Có điều tôi phân vân và hỏi Thịnh:

-Tại sao lại mang tên Madame Tussaud?

Thịnh ngắc ngứ, không biết và tôi cũng chào thua. Sau này, tôi mới biết, họ lấy tên bà Tussaud để đặt cho Viện bảo tàng này như một “cầu chứng tại tòa” về chất lượng của nó. Bà Tussaud (1760-1850) là một nghệ nhân người Pháp nổi tiếng làm các các hình mẫu bằng sáp từ khuôn lấy từ khuôn mặt của hoàng gia và quý tộc bị đưa lên máy chém trong cuộc Cách mạng Pháp (1789-1802).

Vé vào tham quan là 27 Euro. Trước khi bước vào trong, một tay nhiếp ảnh da đen buộc chúng tôi đứng lại để... chụp một tấm ảnh lưu niệm. Tấm ảnh này lập tức được phóng lớn cỡ 13 x 19 cm, rửa ra nhiều tấm để tặng cho những ai có mặt trong ảnh, không tốn một xu. Ấy cũng là một cách “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi” vậy.

Đi thang máy lên lầu tư, tôi bước vào trong phòng. Ấn tượng đầu tiên, trước mắt tôi, những tượng sáp to lớn được trang trí đẹp đẽ hiện lên nhằm minh họa cho lịch sử dựng nước và giữ nước của người Hà Lan; phía tay trái, những cảnh trí khác cũng hiện ra và cũng phục vụ cho cái ý tưởng đó. Những hình ảnh sinh động này được thay đổi liên tục để diễn tả từng cột mốc lịch sử. Chỉ tiếc, do không rõ lịch sử của xứ sở hoa tulip và tiếng Anh nên tôi cũng không hiểu gì nhiều. Tôi ngẩn tò te xem những hình ảnh lạ lùng hiện ra trước mắt bằng con mắt của một đứa trẻ xem hoạt cảnh mà thôi. Muốn hỏi thêm người hướng dẫn đôi điều, nhưng thằng “câm” là tôi đành chịu. Trong các hoạt cảnh này, cảnh đầu tiên xuất hiện đập vào mắt tôi là tượng một người đàn ông cao lớn gương mặt cương nghị, cao chừng 3 mét, mặc trang phục của thế kỷ trước, đầu đội mũ đen, râu tóc dài mà phía trước ngực là một chiếc thuyền buồm như đang lao ra trùng khơi và ngay đầu gối là chiếc cối xay gió. Hình ấy ấy trông hiên ngang lạ thường.

Họ giới thiệu bản lĩnh và tính cách của dân tộc họ đấy chăng?

Rõ ràng, người Hà Lan giỏi đi biển như ta đã biết, từ thế kỷ XVI trên sóng nước lênh đênh đầy bắt trắc họ đã đi đến hầu hết các nước trên thế giới. Nhưng họ chỉ giỏi buôn bán đường thủy, chứ chưa hẳn đã giỏi... đánh nhau trên biển.

Thủy chiến thiện nghệ nhất, có lẽ là dân tộc Việt? Từ năm 938, Ngô Vương Quyền, người xã Đường Lâm, là nhà quân sự thiên tài đầu tiên đã dàn binh bố trận chôn vùi xác giặc phương Bắc trên sông Bạch Đằng, xác lập một truyền thống: truyền thống Bạch Đằng - truyền thống đánh giặc đường thủy và thắng giặc trên chiến trường sông nước - mà đời sau các nhà sử học gọi là “nghệ thuật thủy chiến Bạch Đằng”. Rồi một trận thủy chiến khác cũng diễn ra trên sông Bạch Đằng 1288, dưới tài chỉ huy của nhà quân sự thiên tài Hưng Đạo Vương, quân dân nhà Trần đã đưa truyền thống đó lên đỉnh cao nhất, tới sự hoàn thiện nhất.

Ít ai biết rằng, thủy binh Hà Lan và Việt Nam cũng từng... đụng độ nhau trên biển!

Chuyện “cơm không lành canh không ngọt” ấy xẩy ra chỉ sau năm 1637 - như ta đã biết, đó là năm đậu Hà Lan bắt đầu trồng ở phố Hiến.

Năm 1641, chúa Trịnh Tráng ở Đàng Ngoài gửi thư cho Toàn quyền Hà Lan yêu cầu bán vũ khí để chống lại chúa Nguyễn Phúc Lan ở Đàng Trong. Yêu cầu này xẩy ra vào lúc Hà Lan đã đóng cửa thương điếm ở Hội An - vì không cạnh tranh nổi với các thương nhân đến sớm hơn là Bồ, Nhật, Trung Hoa - nên họ nhận lời. Từ đó, chúaNguyễn nhìn họ bằng cái nhìn ác cảm.

Sự việc này chưa đến nỗi trầm trọng, thì một sự kiện bất ngờ đã xẩy ra: tháng 11 năm 1641, hai chiếc tàu Hà Lan bị bão đánh dạt vào gần Hội An. Lập tức chúa Nguyễn ra lệnh thu toàn bộ hàng hóa, 18 khẩu súng đại bác và bắt giam 82 thủy thủ. Trong khi đó, tàu Hà Lan của Jacob Van Liesvelt nghe tin này, khi từ Đài Loan ghé đến Đàng Ngoài để chở sứ thần của chúa Trịnh sang tiếp kiến toàn quyền của họ ở Batavia. Lập tức, y đến Cửa Hàn (Đà Nẵng) bắt cóc gần một trăm dân lành ở đây với mục đích để gây sức ép trao đổi tù binh với chúa Nguyễn. Dù cuộc phán không thành, nhưng tháng 3.1643, chúa Nguyễn vẫn thả tự do cho họ. Chẳng may trên đường về nước, họ lại bị thuyền của người Bồ Đào Nha tấn công. Do không hiểu cớ sự như thế nên Công ty Liên hiệp Đông Ấn đem tàu đi đánh chúa Nguyễn.

Kết quả họ thua to.

Từ đó, họ chống chúa Nguyễn ra mặt.

Năm 1643, ba tàu chiến Hà Lan giúp chúa Trịnh đánh quân chúa Nguyễn ở sông Gianh (Quảng Bình), nhưng thất bại.

Thật ra, bản chất của những người đi buôn là mong kiếm lợi nhuận chứ không phải đánh nhau. Vì thế, năm 1648, sau khi chúa Nguyễn Phúc Lan mất, con là Nguyễn Phúc Tần kế vị, toàn quyền Hà Lan ở Batavia cử sứ giả Verstegen sang thương nghị. Mới lên ngôi, chúa Nguyễn Phúc Tần cũng muốn tạo mối quan hệ với người châu Âu nói chung nên đã ký với người Hà Lan một hòa ước. Trong đó có những điều khoản quan trọng như: Công ty Liên Hiệp Đông Ấn Hà Lan được tự do buôn bán, không bị khám thuyền, không phải đóng thuế (dù thuế vẫn tiến hành đối với người Trung Quốc, Bồ Đào Nha, Nhật...). Thậm chí khi buôn bán ở Hội An thì họ được quyền chọn mảnh đất thích hợp để dựng nhà ở, mở thương điếm...

Nhưng hiệp ước này chưa bao giờ được thực thi bởi nhiều lý do, do sự thiếu thiện chí của đôi bên. Và mối quan hệ thoi thóp giữa Hà Lan với Đàng Trong và Đàng Ngoài dứt hẳn vào năm 1759. Thật ra, chuyện giao chiến giữa đôi bên đến nay chẳng có ý nghĩa gì đối với hậu thế. Thắng và thua trong chiến tranh không có gì  đáng để tự hào và tự ti cả, nhất là đối với thế hệ chúng ta, những người đã sống quá xa với dĩ vãng hàng mấy trăm năm. Vấn đề là trong hiện tại, đất nước đã từng tham chiến ấy đã phát triển như thế nào trong thời bình.

Tôi đang suy nghĩ miên man như thế, Thịnh lôi tuột qua các phòng khác, xuống tầng khác và ở đâu tôi đều thấy những tượng người cũng quần áo thời cổ xưa, cũng... giống hệt người thật. Bước tiếp vào một căn phòng âm u. Vẫn là những tượng ấy đấy thôi. Đang nghĩ như thế, bỗng ai nấy giật thót tim ra ngoài, bởi có một tượng đứng phắt dậy phùng mang trợn mắt như muốn ăn tươi nuốt sống kẻ đối diện! Ai đó rú lên. Nhưng không, anh ta lại ngồi xuống như cũ và cứng đơ ra như một pho tượng! Từ đó, ta bước vào trong con đường dài và hẹp, ánh sáng loe loét để cảm nhận sự ghê rợn với những cảnh... dưới địa ngục. Những ai yếu tim chắc sẽ ù té chạy và khóc thét lên thôi. Bởi ngoài tượng thiên thần ác quỷ ở còn có âm thanh phù họa theo sống động đến lạ thường.

Nhưng với tôi, thích nhất vẫn là căn phòng trưng bày tượng của các nhân vật có thật và nổi tiếng cả thế giới trên nhiều lãnh vực. Các nghệ nhân làm khéo đến mức, ta cứ ngỡ đó người thật, chứ chẳng còn nghi ngờ gì nữa, có điều họ không cử động đấy thôi. Cứ nhìn vào hai con mắt của tượng, ta mới cảm nhận hết sự sống động gần như tuyệt hảo. Dưới mỗi bức tượng, họ có ghi đại khái đôi nét về tiểu sử của nhân vật đó. Cũng như nhiều du khách khác, tôi chụp hình chung với những con người tài hoa nổi tiếng như Piet Mondrian, Salvador Dali, Vincent Van Gogh, Pablo Picasso, John F Kennedy, Charlot, Anne Frank... Đặc biệt, tôi còn thấy cả tượng của Lénin nữa. Thì ra, được đứng gần, được làm quen thậm chí được chụp hình chung với những nhân vật nổi tiếng cũng là một trong những nhu cầu có thật của nhiều người.

Và tôi cũng chụp khá nhiều hình với danh họa Van Gogh (1853- 1890). Đó là tượng một người đàn ông có gương mặt nhân hậu, mắt nhìn xa xăm, tóc râu vàng hoe, mặc áo trắng, rồi áo ghi-lê vàng, khoác áo ngoài màu xanh, trên hai tay đang cầm cọ, bảng màu và sau lưng là bức tranh vẽ những đóa hoa hướng dương chói ngời sắc vàng. Tôi khép nép đứng bên cạnh. Tôi sực nhớ đến rằng, có lúc ông đã tự cắt tai mình vào năm 36 xuân xanh!

Năm 1888, Van Gogh đã đến Arles, một tỉnh nhỏ nhằm trên bờ sông Rhôn miền Nam nước Pháp và thuê căn phòng trong Hotel Restaurant Carrlel. Ở Arles, thời gian này Van Gogh vẽ rất nhiều, vẽ như đang lên đồng trong cơn mê điên của sự sáng tạo. Những bức tranh được vẽ trong sự say mê tột cùng đã đưa ông đến với cõi bất tử. Ông vẽ nhiều đến nỗi về sau phải thuê thêm một căn phòng trọ nữa ở phố Lamartine để chứa tranh, làm xưởng vẽ và sau do túng thiếu ông dọn hẳn về ở nơi này.

Thời gian này, nghệ sĩ Paul Gauguin đã đến và kết bạn với ông. Ngày 16.12.1888, cả hai rủ nhau đến lầu xanh “Maison de Tolérance, No.1”, nơi mà trước đây Van Gogh đã từng đến để vẽ, mọi người đều quý mến ông và gọi bằng cái tên thân mật “Fouroux”. Một điều oái oăm của số phận đang lừ đừ đến với ông. Như một định mệnh. Như trò trêu ngươi thách thức sự nhậy cảm của một nghệ sĩ đích thực sắp xẩy ra. Ấy là lúc cô gái điếm tóc vàng Rachel, nũng nịu xin ông 5 quan. Chỉ 5 quan thôi mà, nhưng đang rỗng túi, ông hứa sẽ vẽ tặng cô ta một bức chân dung. Câu chuyện đi qua trong những tiếng cười vui nhộn, nhất là do tài kể chuyện hóm hỉnh, có duyên của Gauguin. Và mọi người cùng hứa với nhau sẽ tổ chức mừng lễ Giáng sinh tại đây. Những tiếng cười thân mật lại reo lên ấm áp.

Trước lúc chia tay, Rachel lại nhắc đến chuyện cũ và nói đùa, nếu không, ít ra cũng cho cô ta... cái tai của ông để làm quà đêm Giáng sinh.

Nghe câu nói bông lơn, táo tợn thế, ai nấy cười rũ rượi. Chỉ riêng Van Gogh, trong khoảnh khắc ấy, ông đột ngột rú lên như thú hoang trúng đạn. Bần thần, run rẩy như một người động kinh, ôm lấy hai thái dương buốt đau đến cuồng dại ông ngã quỵ xuống đất.

Trở về nhà, ông thao thức mãi, không thể chợp mắt. Mắt mở thao láo nhìn bất động trên trần nhà xám xịt tơ nhện. Trong lúc đó, Gauguin vẫn hồn nhiên ngủ mê mệt.

Qua ngày hôm sau, Van Gogh không vẽ, không ăn uống và lưỡi như đeo đá, không hé răng nói với ai một câu nào. Buổi chiều, ngồi với Gauguin trong quán cà phê Ginoux, bất thần ông vung mạnh tay ném cái ly vào đầu bạn, nhưng Gauguin né tránh được. Tiếng vỡ chói gắt của thủy tinh như từng mảnh sắc nhọn đâm vào tim. Van Gogh ôm ngực loạng choạng đứng dậy bởi bị Gauguin nổi giận tống ra khỏi cửa.

Qua ngày hôm sau, ngày 18.12, Van Gogh xin lỗi Gauguin, nhưng tình bạn không thể như trước, tốt hơn hết hãy chia tay nhau.

Sáng ngày 19.12, ông lại đến cái lầu xanh ấy khi Gauguin thu xếp hành lý trở về Paris. Không ngờ Rachel lúc ấy lại thản nhiên, vô tư nhắc lại món quà kỳ lạ. Nghe thế, trái tim non nớt và đa cảm của ông như một ghềnh đá bị những đợt sóng đập mạnh. Tim đau buốt. Nét đau khổ đã hằn sâu trên gương mặt nhàu nát.

Buổi chiều hôm ấy, Van Gogh trở về nhà và cùng Gauguin đi đến quán Montpellier ăn nhẹ trong lúc nắng vàng sắp tắt. Ông van nài Gauguin hãy ở lại Arles. Gauguin đồng ý, nhưng những ngày kế tiếp sự bất hoà vẫn chưa giải tỏa được.

Đêm của ngày 23.12 trời tối đen như mực tàu, không một ngôi sao nào lãng du trên vòm đen thẳm kia, Gauguin đang ngồi trầm ngâm trong quán cà phê Ginoux ở phố Lamartine, bỗng nghe ai hoảng hốt gọi tên mình liền bật người dậy, bước ra ngoài. Không rõ là ai, chỉ thấy người ấy cầm trên tay một vật sáng loáng như lưỡi dao cạo.

Đó là Van Gogh.

Nửa khuya của đêm ấy, giữa lúc các cô gái điếm trong lầu xanh đang khiêu vũ lả lướt theo tiếng nhạc du dương, Rachel nghe có ai gọi mình. Và cô đã nhận được một món quà bọc trong nhiều lớp vải. Ở lớp vải ngoài cùng có viết nguệch ngoạc đầy những chữ “Monsieur Fouroux”. Rachel hồi hộp mở từng lớp vải ra, bỗng cô rú lên khi nhìn thấy một cái tai đầy máu. Một cái tai thật!

Rachel ngả ra bất tỉnh trên sàn nhảy.

Câu chuyện quay về trí nhớ. Tôi thở hắt ra. Buồn quá! Lần này đến Hà Lan, tôi chưa thấy nhân vật nào như Van Gogh được giới doanh nhân “khai thác” triệt để nhiều đến như thế. Cầm quyển sách du lịch Hà Lan, thế nào cũng có hình của ông ngoài bìa. Vào cửa hàng lưu niệm thế nào cũng có tượng ông đang cầm cọ đứng trước khung vẽ v.v... Tiếc là tôi chưa được vào thăm quan bảo tàng mang tên thiên tài này cũng ngay tại Amsterdam. Dù không am tường nhiều về hội họa, không mấy hiểu về đời sống bi thương và sáng tạo mãnh liệt của Van Gogh, nhưng tôi ngưỡng mộ và kính trọng ông ở thái độ dám ra khơi!

Sáng tạo của nghệ sĩ? Là chấp nhận ra khơi trong lúc tâm hồn đầy giông tố, đầy hoài nghi, đầy bắt trắc. Có người chết đắm ngoài trùng khơi. Có người quay về cùng con cá nhép. Có người quay về với bàn tay không. Sáng tạo là chấp nhận một cuộc chơi không bắt đầu và không kết thúc. Với Van Gogh, ông quan niệm: “Anh trách tôi cuồng tín ư? Có thể là như thế. Nhưng tôi có nguyên tắc của tôi. Tôi đi đâu? Tôi ra khơi. Trong sóng to gió lớn, tôi sẽ vật lộn gay go, nhưng mẻ lưới sẽ khác hẳn thu hoạch còm cõi của các vị hàn lâm đủng đỉnh ngồi câu trên bờ” (Thư Van Gogh gửi thầy dạy cũ dạy vẽ Van Rappard). “Dù cho vấp ngã chín mươi chín lần, thì dến lần thứ một trăm anh vẫn vùng dậy ngay lập tức” (Thư Van Gogh gửi em trai Théo Van Gogh). Một con người dám sống với sáng tạo đến tận cùng máu thịt, tận cùng mỗi phút giây trong đời sống nghiệt ngã đó là Van Gogh. Còn chúng ta? Trong cuộc đời này, đôi lúc không phải ta sống, mà ta chỉ hít thở để tồn tại đấy thôi. Ta thỏa hiệp để tồn tại đấy thôi.

Tôi tần ngần chia tay cùng Van Gogh. Tôi bước ra khỏi phòng, đi dọc theo hành lang và ngước mắt nhìn qua ô cửa tròn bằng kiếng trong suốt, để ngắm cảnh vật bên ngoài. Quảng trường dưới mắt tôi đang đầy nắng. Nắng tốt tươi như thế, bỗng lòng tôi chùng xuống như sợi tơ đàn chẳng rõ vì đâu. Bỗng có những tiếng cười của du khách vang lên. Tôi nhủ tôi hãy vui và tiếp tục chụp ảnh với các nhân vật khác.

Trong các nhân vật đứng chụp hình chung, tôi cũng rất chú ý đến một người... Là ai? Nói một cách khiêm tốn, bởi đang phấn đấu đạt đến trình độ “cao thủ võ lâm” trong làng nhậu nên tôi không thể không chụp chung với ông... Heineken! Hơn nữa, còn vì một lý do chính đáng. Tính đến năm 2002, nếu Hà Lan, nhà đầu tư thứ hai trong Liên minh châu Âu tại Việt Nam với tổng số vốn 2,8 tỷ Euro thì Heineken đã góp sức không nhỏ.Theo tài liệu của Sứ quan Hà Lan tại Việt Nam, tôi biết thêm “con số đầu tư thực tế còn cao hơn bởi vì không kể 124 triệu Euro của nhà sản xuất bia khổng lồ Heineken/APB mà vốn đầu tư được đăng ký dưới danh nghĩa Singapore”. Thế sao tôi không có cảm tình được chứ? Tôi có thái độ ấy do học tập người xưa đấy thôi. Ngày xưa, chẳng xưa gì đâu, chỉ mới năm 1791, chúa Nguyễn Phúc Châu đã đến Hội An, ông đã đặt tên cây cầu - sau này ta quen gọi “Chùa Cầu - do người Nhật Bản xây dựng là “Viễn lai kiều”. Chúa Nguyễn có một tầm nhìn, một bản lĩnh đáng nể khi chọn từ câu của Khổng Tử trong Luận ngữ “Hữu bằng tự viễn lai, bất duyệt lạc hồ?” (Có người bạn từ xa xôi đến, há không vui sao?). Vậy ông Heineken đến, không đến chơi mà đến đầu tư kinh tế nước nhà vậy sao tôi không vui chứ! Vì thế khi qua đây, khi thấy tượng sáp của ông, tôi không thể không... chụp hình chung!

Dù “câm”, không thể hỏi, nhưng qua sự phiên dịch của Thịnh, tôi cũng biết được rằng, bia Heineken xuất hiện từ năm 1863, khi ông Gerard Adriaan Heineken mua lại nhà máy bia lớn nhất Amsterdam lúc bấy giờ là “De Hooiberg”. Để tạo cho bia này có một hương vị riêng, năm 1886, tiến sĩ Elion- học trò của bác sĩ Louis Pasteur đã tạo ra men bia “Heineken A” sử dụng cho đến tận ngày nay. Chỉ tiếc tôi không được tham quan nhà máy bia quá nổi tiếng này. Dân nhậu ở Việt Nam từng kháo nhau rằng, nghe đâu số lượng bia Heineken mỗi năm sản xuất nhiều đến độ... nếu xếp các chai bia Heineken lại thành hàng, thì đủ bao quanh trái đất đúng 27 vòng!

Có thật thế không?


 

6.

Hai ngày vùn vụt trôi qua. Sau khi đi ăn tối, quay về khách sạn, dù đã hơn 21 giờ nhưng ngoài trời vẫn còn nắng. Hai con mắt nhíu lại, chân bước loạng choạng vì rượu sake trong nhà hàng Nhật Bản Okura, ở đó có những cô gái Nhật mắt nhìn lúng liếng trong trang phục kimono nền nã, vì những ngày đã đi bộ quá nhiều, tôi muốn ngủ, muốn được ngủ vùi, ngủ sâu nhưng bàn chân cứ bước lang lang như một thói quen bởi nàng thơ đang dẫn tôi đi, để trong lúc đi, tôi nhặt được mấy câu thơ:

Quê nhà sao mọc lưa thưa

Bên này bóng nắng vẫn chưa quay về

Con mắt buồn ngủ buồn nghê

Bàn chân cao thấp xàng xê dặm đàng...

Về khách sạn, vẫn không ngủ được, tôi lục lọi xem có những gì trong phòng. À! Có quyển niên giám điện thoại dày cộm. Tôi cầm trên tay nặng trĩu, muốn thả xuống, nhưng... Ủa, có ai đó đã đặt miếng giấy mỏng làm dấu gì đây? Tôi vội lật ra, thấy ngay trang 250. Đó là trang bắt đầu giới thiệu các địa chỉ, điện thoại và hình ảnh sex. Nó còn nhiều đến vài chục trang kế nữa! Bật truyền hình lên, rồi lại thấy có những kênh mà muốn xem phải trả tiền. Vẫn kênh chiếu phim sex. Nếu muốn, bấm remotte cho biết số phòng cụ thể, phim sẽ chiếu, dù chỉ xem một giây hoặc cả một ngày thì cũng phải trả 13 Euro.

Thôi, ngủ đi nhé.

Buổi sáng. Tiếng chuông nhà thờ từ xa vang vọng trong thinh không gọi tôi thức dậy. Sương lạnh. Một ngày ở Amsterdam, nếu bình tâm ta sẽ nghe nhiều hồi chuông vang lên nhịp nhàng. Khi dài, khi ngắn, khi mơn trớn, khi gióng giả... Có lẽ tùy theo đó mà người ta có thể đoán giờ hoặc những hồi chuông ấy mang theo một tín hiệu nào đó cần thông báo đã được quy ước trước trong cộng đồng chăng? Mỗi một ngày được nghe những hồi chuông của sự khoan dung thì lòng ta sẽ nhẹ nhàng hơn. Khi hỉ nộ ái ố níu lấy tầm hồn ta để nhấn chìm xuống bụi bặm thì tiếng chuông sẽ kịp thời vọng đến để thức tỉnh. Nghĩ như thế, tôi cảm tình với những hồi chuông lãng đãng thỉnh thoảng vọng đến và chờ đợi lắng nghe.

Một ngày nữa bắt đầu. Theo kế hoạch đã định trước, sáng nay chúng tôi sẽ đến Zaltbommel, nơi đóng trụ sở chính của tập đoàn Campina. Ngồi trên xe máy lạnh, tôi muốn mở tung cửa kiếng để hít thở không khí trong lành, nhưng ngại mọi người chung quanh nên thôi. Vẫn những xe hơi lướt nhanh qua đường phố. Vẫn những xe đạp chậm rãi xuôi ngược. Vẫn những ngôi nhà mái nhọn trầm tĩnh trong một không gian thoáng đãng. Vẫn những hoa dại non nớt mọc ven đường.

-Kìa! Hoa dại mọc li ti.

Tôi kêu lên và đưa tay chỉ cho Thịnh, bỗng thấy nhói trong ngực như sắp sửa chia tay những người bạn nhỏ. Đã chia tay đâu mà bịn rịn đến thế? Thế là suốt dọc đường đi đến Zaltbommel, tôi im lặng để trôi trong suy tưởng của riêng mình. Những câu thơ chợt đến, đến trong thầm lặng và nhẹ nhàng như khi ta kín đáo nhìn người tình từ một phía để tận hưởng nhan sắc của nàng. Bài thơ nhịp điệu sáu, tám đã hoàn thành trong trí nhớ và tôi lẩm nhẩm suốt đường đi để khỏi quên trong lúc chưa kịp ghi lại:

Hoa dại nhỏ xíu ven đường

Nhìn tôi trong sáng tinh sương rầu rầu

Mái nhà ngói thẫm rêu nâu

Ngược xuôi cao tốc ào ào lướt nhanh

Tôi nhìn hoa dại dỗ dành

Bởi yêu dấu quá không đành chia tay

Sớm mai chào nhé một ngày

Tìm trong cát bụi dấu giày đêm qua

Khi cảm nhận hoa dại “rầu rầu”, tôi nghĩ, vì biết có lúc phải xa tôi nên nó “buồn buồn” đấy thôi. Nó buồn hay tôi buồn? Có lẽ cả hai. Những con đường cao tốc đã nhanh chóng đưa chúng tôi đến chỗ họp. Vừa đẩy cửa vào, ngay tại phòng tiếp tân của Công ty Campina, tôi đã thấy bức tượng đá màu đen, tượng người công nhân có gương mặt nhẫn nại, cúi xuống, khom người bưng cái thùng đựng sữa. Bước vào trong phòng họp, ngay vị trí trang trọng nhất có treo bức tranh sơn dầu vẽ hình duy nhất một con bò sữa đang đứng trên cánh đồng xanh mượt. Hình ảnh ấy gợi lên một cảm giác ấm no,sung túc. Lạ nhỉ? Nghệ thuật là gì ư? Chẳng phải cứ “vóc hạc sương mai”, là “trăng hoa tuyết nguyệt” mới đem lại cho người thưởng ngoạn một cảm hứng về cái đẹp. Có khi những cảnh vật rất đỗi bình thường, quen mắt nhưng một khi thổi vào đó cảm xúc chân thành, thổi vào đó sự sáng tạo thăng hoa thì vẫn trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Giản dị là đỉnh cao của các giá trị nghệ thuật. Ai đó đã nói nghệ thuật không dành cho đám đông. Vừa đúng lại vừa chưa đúng. Nghệ thuật phải vừa hòa nhập vào đám đông, vừa dự báo cho đám đông về những điều mà họ chưa nhận ra. Tôi vẽ, tôi làm thơ là để trình bày nội tâm bí ẩn của chính tôi, tôi không cần ai hiểu, không cần ai cảm nhận, không cần ai chia sẻ, không cần ai quan tâm. Ấy chỉ ngụy biện cho một sự bất tài.

Bỗng một cảm giác ái ngại của thời tiểu học lại ùa đến bủa vây tôi. Nếu lúc ấy, ngại học môn toán bao nhiêu nay tôi lại ngại phải đứng lên tự giới thiệu tên tuổi, nghề nghiệp của mình bằng tiếng Anh bấy nhiêu. Nhưng rồi cái thủ tục xã giao ấy cũng qua nhanh. Tôi ngồi nhìn lên màn hình rộng để xem những hình ảnh liên quan đến công ty sữa này và nghe ông Martien van den Hoven - Giám đốc Campina International giới thiệu về sản phẩm. Theo ông, qua phiên dịch của Linh, tôi biết đại khái rằng:

Đây là công ty sữa quốc tế hoạt động theo mô hình hợp tác xã. Ở đó các thành viên là nông dân cung cấp sữa nguyên liệu và thu nhập của họ phù thuộc vào hoạt động của công ty mẹ. Công tyï thu hút được hơn 9.000  nông dân tại Hà Lan, Đức, Bỉ để tạo ra mối liên hệ cùng chịu trách nhiệm từ chất lượng sữa cho đến các sản phẩm cuối cùng đến tay người tiêu dùng. Đối với các thành viên nông dân, họ cam kết bốn nguyên tắc: phát triển dựa trên sự hỗ trợ tương tác lẫn nhau; quan điểm lãnh đạo chuyên nghiệp, trầm tĩnh; quan tâm đến các giá trị lâu dài; giá mua sữa cao hơn giá trung bình.

Những hạt động chính của Campina ở châu Âu là sản xuất sữa tươi, thức uống từ sữa, sữa chua, đồ tráng miệng, bơ và phô - mai; trên toàn cầu là sản xuất nguyên liệu cho các ngành công nghiệp và thực phẩm, các sản phẩm bột sữa, dầu từ bơ và chất casein. Sản phẩm của họ có mặt tại hơn một trăm nước và đồng thời có nhà máy đặt tại Bỉ, Đức, Pháp, Mỹ, Thái Lan và Rumani.

Về chiến lược lâu dài, ngoài việc phát triển thêm nhiều sản phẩm về thức uống, thức ăn tráng miệng từ sữa cung cấp cho thị trường châu Âu, tìm nguyên liệu trên toàn thế giới thì họ còn chủ trương thâm nhập vào thị trường châu Á. Vì thế, năm 2004, sau khi có mặt tại Thái Lan thì ngày 23.12.2004 họ ký liên doanh đầu tư với công ty Vinamilk tại Việt Nam, trong đó phía Việt Nam chỉ góp 41%. Sản phẩm Campina được thực hiện trên dây chuyền sản xuất của Vinamilk - một hệ thống hiện đại hoàn toàn phù hợp với tất cả tiêu chuẩn của các doanh  nghiệp sản xuất sữa nào tại châu Âu. Và cả hai cùng tìm thấy những điểm cơ bản giống nhau về sản xuất, chất lượng sản phẩm cũng như hệ thống phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Từ ngày 20.7.2005, thì các sản phẩm của liên doanh này bắt đầu đến tay người tiêu dùng Việt Nam.

Cùng lúc ông Martien van den Hoven phát biểu, trên màn hình cũng chiếu những hình ảnh minh họa. Tất nhiên, tôi cũng nhìn một cách say mê, chăm chú. Nhưng rồi... Nhìn kìa! Trước mắt tôi hình ảnh những cô gái Hà Lan tươi đẹp đến não nùng đang khoe môi thơm hàm tiếu. Những son ngon, sữa ngọt lướt qua màn hình. Nó bất ngờ gõ vào tiềm thức tôi để gọi nỗi nhớ thức dậy. Tôi bỗng dưng quên đi những lời đang giới thiệu một cách trang trọng kia. Bởi tôi chợt nhớ em. Cứ như một nhà báo mẫn cán đang lắng nghe và say sưa ghi chép, tôi cúi xuống với trang giấy, nhưng thật ra tôi đang dỗ dành những vần thơ đang đến trong tâm thức. Nó đến nhẹ nhàng, nhưng không thể cưỡng lại được:

Xa em mới một, hai ngày

Đã nghe gió thổi hao gầy bóng đêm

Đêm dài đêm ngắn không em

Đêm trôi tuồn tuột lãng quên dấu ngày

Định viết thêm, nhưng sau lưng tôi người phục vụ đã đến rót thêm cà phê vào ly. Tiếng động ấy làm tôi bừng tỉnh. Tôi ngồi ngay ngắn lại và tiếp tục nghe tiếp những lời phát biểu. Ông Bob Steetskamp - Giám đốc matketing và kinh doanh đã đứng lên và cho biết những chiến lược phát triển của Campina. Tất nhiên cũng qua phiên dịch của Linh, tôi biết:

Đối với họ một thương hiệu mạnh phải đạt được những tiêu chí: thương hiệu dẫn đầu thị trường; có khách hàng trung thành; có khả năng thích ứng quốc tế; thực hiện theo các hướng nghiên cứu và phát triển; hiệu quả quảng cáo và khuyến mãi cao; hoạt động tại các thị trường có nhiều tiềm năng; được pháp luật bảo vệ.

Tôi giật mình! “Được pháp luật bảo vệ”. Quả là một tiêu chí đáng suy nghĩ. Trước đây khi đọc hồi ký của nhà văn hóa Nguyễn Hiến Lê, trong phần “nhân sinh quan” ông có viết  21 điều. Điều thứ 21, tôi có cảm nhận nhưng chưa thật sự đã hiểu để chia sẻ. Thì nay, tôi ít nhiều đã hiểu. Cụ Lê viết: “Hồi trẻ, quan điểm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm; con cái học được, phong lưu một chút đừng giàu. Nhưng hồi 50 tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng”.

Trong phần trả lời các câu hỏi của các nhà báo Việt Nam, tôi thích nhất cách lý giải của ông Martien van den Hoven. Khi có nhà báo đặt câu hỏi, liệu có thể áp dụng kinh nghiệm thành công của Campina tại Đức, nơi đạt doanh thu đến 929 triệu Euro trong năm 2004, vào thị trường Việt Nam không? Theo ông, đặc điểm thị trường của từng nước khác nhau, cho dù họ cùng có tiếng nói chung về lợi ích của sữa. Nhưng đưa sữa vào từng thị trường cụ thể thì phải cân nhắc yếu tố văn hóa trong nghệ thuật ẩm thực của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, ở Hà Lan người ta thích uống sữa đã lọc chất béo, trong khi đó ở Đức lại thích nguyên chất v.v... Do ý thức như thế, nên họ đã liên doanh với Vinamilk - một đơn vị sữa đã quen thuộc với khẩu vị của người tiêu dùng Việt Nam. Không dừng lại đó, để đáp ứng thị trường mới, họ có bổ sung thêm chất LBC - tức chứa nhiều chất sắt hơn. Thông thường sữa không chứa nhiều chất sắt, chỉ 0,2 - 0,6mg/l thì sữa LBC chứa đến 5mg/l.

Nếu ở Việt nam, ta quá quen với một vài câu slogan về sản phẩm của Hà Lan như “Chỉ có thể là Heineken”, nay tôi biết câu thêm câu “Sức sống từ thiên nhiên” là giá trị thương hiệu của Campina.

Nhìn xuống đồng hồ, đã thấy gần một giờ trưa và tôi thở phào nhẹ nhõm vì đã đến giờ ăn trưa. Bữa ăn nhẹ ngay tại văn phòng. Sau đó, chúng tôi lên đường đến Trung tâm nghiên cứu và phát triển của Campina tại Wageningen, trên đường đi có dừng lại tham quan siêu thị Konmar.


 

7.

Trời ạ! Thói quen là điều khó cưỡng lại nhất. Thói quen phải ngủ trưa đã khiến tôi ngượng phát khiếp khi đến Wageningen. Trong khi giáo sư Jan Steijns thuyết trình về ba giai đoạn tăng trưởng, phát triển và bảo vệ về “Loại sữa tốt hơn cho thế hệ vuợt trội: sữa LBC” thì hai con mắt của tôi đã nhíu lại, tưởng chừng như có bàn tay vô hình nhẹ nhàng đè nó xuống. Nhưng không thể. Để tự giữ mình trước mọi người, tôi nghĩ cách tốt nhất là... làm thơ. Tôi huy động tất cả những gì đã thấy, đã cảm nhận trong những ngày này để đầy lùi cơn buồn ngủ đang đến chập chờn, chỉ cần một phút mất cảnh giác hai con mắt nhắm ngay lập tức. Khổ thế! Tôi nghiêm nghị nhủ tôi rằng, nhớ lại đi! Hình ảnh nào ám ảnh nhất? “Hoa tulip và sữa bò”. Hình ảnh ấy đã được huy động tối đa vào bộ nhớ để từ đó, dần dần những câu thơ được gọi đến. Nó đến trong lúc tôi vừa lắng tai nghe bài thuyết trình và vừa không nghe gì cả. Một tiếng đồng hồ trôi qua, tôi có được bài thơ:

tôi đang hình dung ra gương mặt thơ dại của em

chẳng thấy gì ngoài hoa tulip

hoa là em và em cũng là hoa

tôi yêu hoa đến chết

ước gì trần truồng nằm trên cỏ biếc

lăn ngoài vô tận của thời gian

hoặc hóa thành bông hoa nhỏ xíu

gió Netherlands thổi đến tận mây ngàn

tôi bay ra ngoài nhọc nhằn cơm áo

làm chàng chăn bò ngày tháng lang thang

tôi lang thang như con bò béo nẫn

trên cánh đồng cỏ tươi

mẹ đã nuôi con bằng sữa mẹ

nay sữa của con nuôi lại con người

những chân trời châu lục xa xôi

không kể da đen, da vàng, da trắng...

muôn màu da anh em

không cần chiến tranh, không cần chiến thắng

cùng nắm tay nhau đi đến lòng mình

mỗi bình minh

trên tay cầm cốc sữa

ta chạm vào nhau và chúc tụng hòa bình

em yêu dấu

anh nhớ về em là vạt nắng lung linh

sưởi ấm hoa tulip

hoa là em và em cũng là hoa

tôi yêu hoa đến chết...

Bài thơ viết đến câu cuối, bài thuyết trình cũng vừa chấm dứt. Chúng tôi được hướng dẫn dùng thử các sản phẩm của Campina. Thú vị làm sao. Không hiểu sao tôi có một dạ dày khổng lồ đến thế. Trong một thời gian ngắn, nhưng tôi đã dùng thử vài chục loại sữa khác nhau, từ loại sữa tiệt trùng đến sữa hỗ trợ sức khỏe; từ bơ đến phô - mai được làm từ sữa. Ngon nhất với tôi là các loại phô - mai, có loại mềm hiệu Gouda, Maasdam, Edam; có loại phô - mai nhẹ như Milner hoặc có loại được chế biến từ sữa dê, thậm chí còn có cả phô - mai chay nữa! Riêng về đồ tráng miệng và kem thì tôi cũng thử luôn cả bánh pudding, trứng đánh sữa v.v... Sữa kỳ diệu hay sự sáng tạo của con người kỳ diệu? Chỉ từ sữa, người ta đã chế biến ra hàng chục sản phẩm khác nhau mà loại nào cũng... ngon! Có lẽ, uống sữa là một hình ảnh dễ thương nhất của con người. Bởi nó không là nước lã nhằm giải phóng cơn khát và cũng không phải bia rượu để tạo ra một cảm giác. Nó là sữa. Nhưng lạ thay! Ở Hà Lan, sữa còn rẻ hơn cả... nước suối! Một chai nước suối 500 ml mua ở siêu giá 1,25 Euro, còn một lít sữa chỉ... 70 cent Euro! Bất chợt hình ảnh cậu học trò của thời tiểu học lại hiện về trong tôi một cách hiền lành và trong trẻo biết bao nhiêu. Thuở ấy, tôi nhớ, cứ mỗi giờ ra chơi lũ học trò “nhất quỷ nhì ma” bị thầy cô ép phải uống sữa và ăn bánh mì. Đó là một tiêu chuẩn bắt buộc. Bây giờ nghĩ lại cứ ngỡ như chuyện cổ tích.

Rời nơi này, chúng tôi lên đường đến khách sạn De Wereld. Chiều vẫn nắng, dù đã chiều. Gió thổi xào xạc trên vòm lá. Những con đường rợp bóng mát. Chia hai con đường là một dòng mương nhỏ, nước trong vắt còn thấy lũ cá nhép nhỡn nhơ bơi. Thoáng nghĩ về em khi nhìn thấy hàng cây hai bên đường xào xạc gió. Lứa đôi nào mà không từng có những khoảnh khắc tình tự dưới vòm xanh? Gió đã nói điều gì mà lá reo lên vậy?

Đến khách sạn De Wereld, ngay phòng tiếp tân, đã thấy ngay cái bếp. Bước lên phòng, đã thấy bông nhét lỗ tai, vì nó nằm sát mặt đường, và cũng không máy lạnh. Bước vào phòng tắm, không thấy có bồn tắm như ở các khách sạn bình thường khác. Ngay cả bước vào thang máy cũng không quá ba người! Thế nhưng, khách sạn này được xếp vào loại “danh giá” nhất! Thấy quyển “Hotel B & B  - De 100 Leukst hotel en B & B’s” trên bàn, tôi tò mò lật ra xem thì biết khách sạn này được xếp hạng thứ nhất trong số một trăm! Thế có lạ không chứ? Bỗng dưng tôi lại nhớ đến câu vè vui vui:

Đi đâu cũng chép cũng ghi

Không biết thì hỏi tự ti làm gì?

Chính vì không “tự ti” nên tôi mới đem ngạc nhiên này hỏi Linh, nàng đáp:

-Ủa? Chứ anh không biết đây là nơi mà Đức quốc xã đã ký văn bản đầu hàng vô điều kiện Hà Lan trong Đệ nhị thế chiến sao?

Thì ra thế! Không như mọi khách sạn khác, nó còn gắn với một ý nghĩa lịch sử trọng đại, vì thế mắc tiền là phải, dù tiện nghi không bằng. Ngay cả buổi sáng điểm tâm cũng không có nhiều thức ăn để chọn nhưng du khách năm châu cứ tìm đến, cứ phải nằm ngủ một đêm cho biết! Hầu như mọi bày biện, trang trí vẫn như trước. Ngay cả sảnh lớn, nơi đã diễn ra sự kiện lịch sử kia vẫn được giữ nguyên. Vẫn một cái bàn lớn cỡ ngang một mét, dài một mét rưỡi, cao ngang tầm ngực của tôi, khi uống nước người ta phải đứng, chứ không có ghế để ngồi. Bức tường sát mặt đường vẫn loại cửa sổ có kiếng dày trong suốt, bắt đầu từ đầu gối của tôi cao lên đến gần nóc phòng.

Khi bước ra ngoài, ngay cửa vào khách sạn tôi thấy có gắn một cái biển đồng lớn, sơn màu hồng có chạm nổi “5 Mei 1945”, nó được đóng khung bằng những thanh sắt đen có hoa văn trang nhã, phía trên là một tấm bảng đồng chạm từng dòng chữ đôi nét về sự kiện đó. Cách đó chừng mươi mét là ngã tư đường, giữa đường có dựng một bức tượng đồng màu đen người đàn ông trần truồng, ngửa mặt đau khổ và đưa hai cánh tay lên như đang thở than một nỗi niềm tuyệt vọng với trời xanh thăm thẳm. Ở giữa tượng có ghi những dòng chữ Hà Lan, nhưng tôi không đọc được, có lẽ họ nhắc lại một quá khứ chiến tranh đau buồn của thời đệ nhị thế chiến chăng?

Một thói quen của sự liên tưởng đã khiến tôi sực nhớ về khách sạn Continental ở Sài Gòn. Nơi nhà văn tiến bộ Anh Graham Greene đã viết tác phẩm nổi tiếng The quiet American (Người Mỹ trầm lặng). Ông đã đến Việt Nam lần đầu khoảng năm 1942-1943, sau đó còn quay lại khoảng năm 1951 -1953. Thời gian này, ông đã ở khách sạn Continental và đã viết tác phẩm nổi tiếng trên tại phòng 214 (lầu 2). Căn phòng này được cấu trúc nằm ở góc nhìn ra Nhà hát Lớn và đường Đồng Khởi. Sau một phần tư thế kỷ khi viết The quiet American, ông đã phát biểu: “Tôi đã đến Việt Nam vì đã yêu đất nước đó. Tôi đã yêu ngay tức khắc từ khi đến đó lần đầu”.

Vào khoảng thập niên 1960, nhiều người yêu thích tác phẩm này đã đến khách sạn Continental để đoán già đoán non ai là nguyên mẫu của nhân vật Phượng? Và gần đây, năm 2002, nó được Hãng phim Giải phóng hợp tác với nước ngoài dựng thành phim. Nếu khôn khéo, ta cũng có thể học tập được như người Hà Lan đang kinh doanh khách sạn De Wereld chăng? Bằng tư duy của nhà thơ, kẻ luôn thất bại trên thương trường, khó có thể kiếm được nhiều tiền, nhưng tôi trộm nghĩ nếu phục hồi nguyên trạng căn phòng mà nhà văn đã ở thì ít nhiều cũng đạt hiệu quả về quảng bá “thương hiệu” Continental và kinh doanh?

Trước lúc chờ ăn tối, tôi rủ Thịnh thả những bước chân đi lang thang trong thành phố này. Đi bởi biết rằng, sẽ còn rất lâu mình mới có thể trở lại nơi này để đi một cách thong dong như thế này. Thong dong là do trong lòng không vướng bận, không toan tính một điều gì. Đi đến một nơi xa lạ lần đầu tiên, ta sẽ có những cảm xúc mới mẻ, những cái nhìn lạ lẫm mà sau này có đến lại và cũng đi như thế nhưng điều ấy không lập lại. Thú vị là chỗ đó. Có những nơi người ta chỉ đến một lần rồi vĩnh viễn chia xa, dù trong lòng rất đỗi mến yêu. Cũng giống như tình yêu. Có những gương mặt của tình ái, chỉ gặp một lần duy nhất, hằn sâu vết nhớ trong ký ức, nhưng chẳng bao giờ ta gặp lại lần nữa. Dòng đời cứ thế tuồn tuột trôi qua.

-Đi thôi Thịnh ơi!

Dù đã 19 giờ nhưng trời vẫn còn nắng. Bóng nắng nhẹ nhàng và trong suốt. Đi ngang qua một ngôi nhà thờ cổ, cửa chính khép kín, tôi thấy có nhiều xe đạp được khóa cẩn thận để ơ thờ trong sân khuôn viên. Gần đó, có một tấm bảng đồ lớn, vẽ chi tiết các con đường trong thành phố này. Các cửa hàng đều đóng cửa, đứng bên ngoài cửa kiếng nhìn thấy rõ mọi thứ, nhưng chịu, không thể mua sắm gì được. Con đường nhiều ngả rẽ, lòng đường chỉ rộng bằng những con đường ở Hội An nhưng dốc thoai thoải. Hoa dại nở ven đường, tôi cứ tưởng như những con mắt trẻ thơ đang nhìn theo. Nghĩ thế nên lòng dịu lại. Tịnh không có một tiếng ồn ào, thỉnh thoảng chỉ có vài chiếc xe đạp lướt qua. Yên tĩnh đến lạ thường. Những ngôi nhà ở đây đều thấp và có sân vườn rộng. Đường phố lẫn không gian thanh tịnh một cách cổ kính và hiền lành gợi nhớ đến Đà Lạt. Có điều lòng đường đẹp đến mê hồn, được lát bằng gạch màu cà rốt lớn hơn loại gạch đinh của ta một chút, chứ không phải tráng nhựa đen sì. Và chính vì trời còn nắng, một thứ nắng của chiều chưa hẳn đã chiều, của ban mai chưa sắp ban mai nên tôi cứ ngỡ ngàng, không biết mình đang đến với một thành phố vừa đi ngủ hay chưa thức dậy?

Tôi còn muốn đi nữa. Nhưng phải quay về khách sạn thôi. Đã đói. Trong bữa ăn tối ở trong vườn, sát bên ngoài khách sạn De Wereld, thỉnh thoảng tôi ngước nhìn lên trời. Không một vì sao mọc. Vẫn nắng. Vòm trời trong vắt. Những chai rượu vang đỏ ngon nhất đã được khui ra để bắt đầu cho một bữa ăn tối do Công ty Campina chiêu đãi. Ngước mắt nhìn qua góc đường bên kia, tôi thấy một cô gái tóc vàng ngồi ngay trên vệ cỏ, gác chân hớ hênh lên sườn xe đang sóng soài dưới đất và “nấu cháo” điện thoại cầm tay. Có lẽ cô ta đang trò chuyện với tình nhân? Chắc thế. Chỉ với người thương, người nhớ thì người ta mới đủ kiên nhẫn lắng nghe như uống lấy mọi thanh âm, mọi ngữ điệu lan man dài dòng của một giọng nói từ xa vọng đến.

Đã chai vang thứ hai, nhưng cuộc điện thoại ấy vẫn chưa dứt.

Trong bữa ăn này có một khách mời quan trọng, buộc chúng tôi phải veston lịch sự. Một phụ nữ khả ái người Hà Nội khoảng ngoài năm mươi, nói thông thạo tiếng Hà Lan và tiếng Anh, bà Đinh Thị Minh Huyền - Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan.

Theo tìm hiểu của tôi, tính từ năm 1759 - sau khi Hà Lan không còn giao thương với chúa Trịnh Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong - hơn hai trăm năm sau mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước mới được xác lập. Theo tài liệu của Sứ quán Hà Lan, sự kiện này diễn ra vào ngày 3.4.1973, lúc đó Đại sứ Hà Lan tại Bắc Kinh kiêm luôn chức Đại sứ tại Hà Nội. Đến năm 1976, văn phòng Đại sứ Hà Lan được mở tại Hà Nội, nhưng năm 1988 phải đóng cửa vì lý do tài chính và mở lại vào năm 1993. Tuy nhiên mối quan hệ ngoại giao vẫn duy trì trong những năm đó thông qua Đại sứ Hà Lan tại Băng Cốc. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Lan vẫn duy trì lãnh sự quán danh dự từ năm 1993 đến 1996, đến năm 1997 mới được nâng cấp thành Tổng lãnh sự quán. Tính đến năm 2002, chỉ có khoảng 375 người Hà Lan sống tại Việt Nam.

Trong bối cảnh đó, bà Huyền đóng vai trò Đại sứ trên đất nước này đã bao nhiêu năm? Tôi muốn hỏi, nhưng ngại bị đánh giá là người tò mò, nên thôi. Bằng kiến thức của một người đóng vai trò ngoại giao và ở nhiều năm trên xứ sở của hoa tulip, trò chuyện thân mật với bà thật thú vị. Bà cho biết, đại khái:

Hà Lan có diện tích 41,523 km 2 (khoảng 1/8 diện tích Việt Nam). Dân số 16,2 triệu dân. Mật độ dân cư rất cao: 478 người/ km 2. Hiện nay, có gần 10.000 người Việt nam sống tại Hà Lan. Người Việt nhập cư sống khá vất vả. Nếu không có chí tiến thủ, không chịu học thêm, khó có thể hội nhập. Vật giá ở đây thuộc loại đắt đỏ nhưng lương công nhân dành cho người nhập cư chỉ 1.000 Euro, lái xe chỉ 1.500 Euro...

Tôi thoáng phân vân. Có thật thế không? Nếu đúng, với đồng lương này, họ chỉ có thể đủ thuê được... hai, ba ngày ở khách sạn Krasnapolski tại thủ đô Amsterdam!

Sau này, trong một lần đi mua sắm, tôi vàThịnh tình cờ bước vào cửa hàng “Nieuwendijk 148, 1012 MS Amsterdam”, gặp chủ nhân trước sống ở Chợ Lớn, sang đây lập nghiệp đã hơn 25 năm, tôi hỏi lại, cũng nghe trả lời như thế. Dù sống ở Hà Lan phải đóng thuế nhiều, nhưng anh chị Minh - chủ cửa hàng “souvenirs” này - không phàn nàn vì nghĩ rằng, khi về già, không lao động được nữa, nhà nước sẽ trợ cấp cũng bằng chính đồng tiền mà mình đã đóng thuế. Tôi nghĩ, tạo được tâm lý đó cho người dân là điều không dễ. Phải một xã hội ổn định, phồn thịnh thì mới có thể hình thành nếp nghĩ ấy. Cũng theo anh chị, trước đây ở Amsterdam cũng có nhà hàng Việt Nam, nhưng không sống nổi, phải bán lại cho người Hoa. Vậy muốn tìm ăn món ăn thuần túy theo phong cách “mắm tôm, cà pháo” thật không dễ dàng. Tôi nghĩ, nhà hàng này đóng cửa vì số lượng thực khách thưởng thức món ăn Việt không nhiều, và cũng có thể tiền thuê mặt bằng quá cao chăng? Anh Minh xởi lởi cho biết, chẳng hạn cửa hàng của anh chị Minh bề ngang độ 3,5 mét, sâu gần 20 mét nhưng phải thuê đến giá... 6.000 Euro! Rồi một dịp khác, theo lời mời của bà Huyền, chúng tôi đã đến văn phòng Đại sứ quán Hà Lan, khi hỏi về giá thuê căn nhà này, bà úp úp mở mở “vài ngàn gì đó” nhưng không cho biết cụ thể bao nhiêu! Dù vậy, bà cũng cho biết là sắp đến Nhà nước ta sẽ mua một mảnh đất riêng để làm Sứ quán, chứ tiền thuê nhà, dù được tính theo quan hệ ngoại giao, nhưng cũng đắt đỏ lắm.

Thật lạ cho Hà Lan, Amsterdam dù thủ đôø, nhưng cơ quan chính phủ lại đóng tại The Hague và nhiều tổ chức quốc tế cũng đặt trụ sở như Toà án Tư pháp quốc tế (ICJ), Toà án Hình sự quốc tế (ICC)... Ngay trước văn phòng Đại sứ Việt Nam ở địa chỉ “Princes Mariestraat 6 a-b, 2514 KE The Hague”, tôi thấy có ghi cụ thể thời gian làm việc từ 14 g đến 17 giờ. Bước lên phòng làm việc của bà Đại sứ, tôi thấy có treo nhiều bức tranh sơn dầu vẽ phong cảnh quê nhà và không ít đồ gốm Bát Tràng được trang trí đẹp mắt.

Thời gian chậm rãi trôi qua những chai vang đỏ. Mặt tôi đỏ dần. Bữa ăn tối vẫn chưa xong. Trước mắt tôi, vẫn là những món ăn thật ngon, hầu hết đều được chế biến từ cá. Sương đã lạnh trên môi. Môi thèm hát vu vơ vì đã chếch choáng say. Nhìn những miếng cá thật tươi, thật ngon, thật béo bỗng nhiên đầu lưỡi lại thèm đến những giọt nước mắm vàng óng để gợi lên một cảm giác mằn mặn và hương vị của biển khơi đã được cô lại từng giọt sóng sánh. Nhưng không thể. Lại thèm những trái ớt nhỏ xíu, màu xanh non để gợi lên cái cay tê tê đầu lưỡi, một vị cay như khi ta lỡ lời nói với ai một điều gì không phải, khiến sau đó phải ngượng ngùng, bẽn lẽn với chính mình. Nhưng cũng không thể.

Nhìn qua bên kia đường, không rõ cô gái tóc vàng ngồi tỉ tê với điện thoại di động đã đi về từ lúc nào rồi nhỉ?


 

8.

Tại sao khi ngủ, người ta lại mơ? Có lúc mơ những giấc mơ hiền lành, nhưng cũng có lúc gặp những mộng mị ghềnh thác mệt nhọc. Đêm đã qua. Tôi ngủ một giấc ngon lành và không mơ gì cả. Theo kế hoạch đã định trước, xe sẽ đưa chúng tôi đến nông trường nuôi bò sữa của Campina. Tôi chợt nhớ bà Đại sứ lúc trò chuyện có cho biết: “Tại Hà Lan, sản lượng nông nghiệp, thủy sản chỉ chiếm 3% GDP nhưng ấn tượng với những sản phẩm chế biến từ sữa, các giống bò sữa tốt - một con bò sữa có thể cung cấp đến 7.000 lít sữa/ năm; xuất khẩu hoa đạt 3 tỷ Euro/năm”. Với một nhà báo, đây là thông tin khá hấp dẫn và càng thôi thúc sự hào hứng của tôi.

Những con đường lướt qua nhanh. Cô Charlotte Zelders hướng dẫn chúng tôi đến nông trường nuôi bò sữa của Campina. Đến nơi, hoàn toàn trái ngược với những gì tôi đã tưởng tượng trước đó. Cứ tưởng sẽ gặp công nhân ra vào tấp nập. Nhưng không, chỉ một hai người bước ra đón tiếp niềm nở. Là một người “câm” nên tôi không thể tìm hiểu được gì nhiều.  Sau đây là những ghi chép của Thịnh:

“Sáng hôm sau, cả đoàn đáp xe buýt đến nông trại của anh nông dân Ingenbleek - vừa là người cung cấp sữa, vừa là cổ đông của Công ty Campina. 31 tuổi, một mình anh cai quản trang trại rộng gần 50 héc - ta cùng đàn bò khoảng 70 con.

“Không có thầy thợ gì hết sao?” - Nhà thơ Lê Minh Quốc trố mắt.

“Không, chỉ một mình anh ta vừa làm chủ vừa làm thợ, chăn hết đàn bò, tự vắt sữa, dọn dẹp vệ sinh...” - Sjaak Frederic - nhân viên giám sát chất lượng sữa thu mua của Campina cho biết. “Cả nông trại này trước đây chỉ một mình cha anh ta cai quản. Bây giờ người cha đã lớn tuổi, muốn nghỉ ngơi nên giao lại cho con trai”.

Nói rồi Sjaak dẫn chúng tôi vào xem Ingenbleek vắt sữa bò. Bao nhiêu cảnh tượng bọn tôi hình dung ra - Trời, một mình anh ta thò tay vắt sữa bảy chục con bò chắc... chết! - đều biến mất. Một công nghệ vắt sữa hiện đại hiện ra, có đồng hồ đo số sữa từng con cho được trong một ngày.

“Trung bình mỗi ngày, một con bò cho khoảng 30 lít sữa” - Sjaak hùng hồn. Một con số không ai hình dung được. Nhưng nhìn “lưu lượng” sữa chảy mạnh như nước rô-mi-nê, lập tức có thể hiểu. Đồng hồ nhảy số liên tục, có con đạt trên 17 lít sữa trong khi mỗi ngày một con được vắt sữa 2 lần.

Sjaak chỉ vào cuốn sổ nhật ký giải thích: “Đây là tổng số sữa của trang trại trong 3 ngày qua - 6.314 lít. Cứ 3 ngày, chúng tôi cho xe bồn đến đây thu mua sữa một lần. Mẫu sữa sẽ được Công ty Campina đem đến một cơ quan độc lập kiểm định chất lượng, nếu đạt mới đưa vào chế biến”.

-Thế các anh thu mua bao nhiêu tiền một lít sữa?

-35 xu.

Tôi nhẩm tính: 35 xu x 70 con bò x 30 lít sữa x 300 ngày (trừ quãng 2 tháng trong một năm bò không cho sữa). Ôi trời, thu nhập của một mình anh nông dân này hơn 200.000 euro mỗi năm, tức cao hơn Tổng thống Mỹ. Nhưng làm sao anh ta chăn nổi hết đàn bò ?

Ingenbleek vừa cười vừa dẫn chúng tôi đến và mở cửa chuồng bò. “Mỗi sáng tôi chỉ cần mở cửa chuồng là lũ bò tuần tự đi ra đúng ô cỏ cho chúng ăn. Đến chiều, tôi chỉ cần hú một tiếng là chúng lại tuần tự về chuồng”.

Như để trả lời, đàn bò tuần tự đi lặng lẽ trên con đường mòn nho nhỏ giữa đồng cỏ mênh mông, theo hướng mở của hàng rào kẽm gai (thực ra chỉ có một sợi kẽm giăng ra để chia ranh giới từng ô cỏ) và từ từ đến đúng ô cỏ dành cho chúng trong ngày.

“Thế này thì không thể nói là ngu như bò được”, Kiều Linh - cô bạn làm cho Công ty Ogilvy thốt lên.

-Thế cứ làm nghề nông như vậy anh có chán không ?

-Không. Tôi đã từng đi làm cho người khác 7 năm và bây giờ tôi thích tự làm chủ hơn. Chẳng mặc cảm là nông dân gì cả - Ingenbleek đáp.

-Hằng năm các anh có họp cổ đông với Campina ?

-Có chứ, mỗi năm hai lần. Chúng tôi phải đến đó để...  bắt họ tăng giá thu mua.

-Anh có thể cho tôi e-mail nhờ về công ty một chút ? - Charlotte lên tiếng và Ingenbleek dẫn vô nhà...

Đúng là nông dân thế hệ @. Tôi bắt đầu chợt ngẫm trong lặng  lẽ”.

Thịnh ghi chép khéo lắm, gợi được những thông tin khá thú vị. Tuy nhiên khi quan sát, lắng nghe, dò hỏi thêm tôi được biết, để mỗi ngày cho 30 lít sữa, thậm chí đến 40 lít sữa thì nó phải uống đến... 130 lít nước! Dễ sợ chưa? Mà con bò sữa lại to như con trâu mộng, hỏi ra mới biết nó nặng từ 700 đến 800 ký lô! Bước vào trong nhà kho, tôi thấy hàng tấn cỏ khô đã được ép lại cẩn thận. Lúc tham quan tất cả chúng tôi đều phải mặc áo, quần, đội mũ làm bằng... giấy. Một loại giấy mỏng có pha ni - long! Trong lúc đi trên nông trường, tôi nghĩ lơ mơ, đành rằng, nuôi bò lấy sữa, tất nhiên phải bò giống cái, vậy giống đực thì sao? Chỉ mới nghĩ đến đó, tôi tủm tỉm cười vì cái sự lẩn thẩn tủn mủn của mình và hỏi Thịnh. Anh chàng đáp một cách nghiêm chỉnh:

-Tớ có hỏi, người ta nói bò đực không được “trọng dụng” lắm. Chỉ nuôi trong thời gian ngắn là “thịt” ngay!

A! Có phải do vậy mà miếng bít - tết ta ăn mềm mà không nhũn, đỏ tươi mà không gợi cảm giác “rớm máu” ấy là thịt bò đực? Đầu bếp nào đã nghĩ ra cách làm bít -tết? Tay đó xứng đáng được trao một huân chương lao động hạng nhất, bởi không chỉ đáp ứng được một nhu cầu ăn uống của đại đa số mà món ăn ấy không lỗi thời theo thời gian. Điều này khó khăn lắm chứ. Các tay đầu bếp giỏi cũng như những nhà thiết kế thời trang nếu có lương tâm, có trách nhiệm nghề nghiệp - nói như Huy Cận thì phải luôn “Nung nấu tâm can, vò võ trán” để nghĩ ra... món ăn mới, model mới. Nhưng “sản phẩm” ấy có vượt qua được thử thách khắc nghiệt của thời gian là điều không dễ đâu. Này nhé! Năm 1939, nhà văn Vũ Trọng Phụng, người đã để lại kiệt tác Số đỏ - một tác phẩm làm vinh dự cho mọi nền văn học, trước lúc chết thở dài đến não ruột với ước mơ: “Nếu mỗi ngày được ăn một miếng bít-tết thì hạnh phúc biết bao nhiêu”. Do lao động cật lực, miệt mài ngày đêm trên trang giấy như một người nông dân cày sâu cuốc bẫm trên cánh đồng một nắng hai sương, ông đã thổ huyết nhòe cả trang viết, vi trùng bệnh lao đã khoét ruỗng cả hai lá phổi, đánh gục ông lúc mới 27 xuân xanh. Năm 1954, tướng De Castrie sau những những ngày đối mặt thảm hại với quân đội Việt Minh ở Điện Biên Phủ, vừa được trở về thủ đô hoa lệ Paris, để dằn cơn thèm thuồng lâu ngày, mỗi lần nghĩ đến nước nước bọt ứa ra chân răng đến đê mê, lập tức món ăn khoái khẩu đầu tiên ông chọn trong “menu” vẫn là... bít - tết!

Trong khi chúng tôi đi ra đồng cỏ, đằng sau ông Sjaak Frederic đã phóng xe đạp theo như bày tỏ lòng hiếu khách.

Do không biết ngoại ngữ nên trong lúc Thịnh trò chuyện với ông, tôi ngồi bệt dưới đất. Ngút một tầm mắt chỉ thấy cỏ và cỏ. Cỏ không còn là cỏ nữa, nó như một thảm nhung xanh biên biếc mà thiên nhiên hào phóng đã trải dài đến tận chân trời. Đưa tay sờ ngọn cỏ, mới thấy cỏ dày, mượt. Trong cái không khí thanh tịnh, bình yên của đồng cỏ, bất chấp sương còn ẩm ướt tôi nằm dài xuống đất. Nhìn lên trời thấy mây trắng ngàn năm vô danh đang bay không phiền muộn, nghiêng người lại thấy đàn bò đang thản nhiên không thèm phải biết có những nhà báo từ phương xa đến và đang bình luận, quan sát chúng, chợt tâm hồn tôi lâng lâng, nhẹ nhỏm khác thường. Tôi nghĩ, lúc hôn nhau nằm lăn ra trên cỏ chắc chắn ta sẽ có cảm giác trong trẻo và thánh thiện hơn, bởi đang yêu, ta sẽ thấy ngọn cỏ kia còn bé bỏng hơn nữa. Và nếu được nằm trên cỏ ngủ một giấc thì cũng tuyệt vời không kém. Nhưng không thể. Làm sao có thể nhắm mắt khi một tứ thơ đột ngột đến? Trước đây tôi không ủng hộ quan niệm, là người sáng tác, anh phải đi thực tế. Để lấy cảm hứng từ thực tế. Để hơi thở của đời sống ùa vào trong từng trang viết. Nhưng chỉ “cỡi ngựa xem hoa” thì làm sao có thể cảm nhận được tâm tư, tình cảm của những con người một đời gắn bó nơi ấy? Mà trang văn không viết về số phận của họ thì viết cái gì? Chẳng lẽ miêu tả, kể lể những gì nhìn thấy lớt phớt bên ngoài trong chốc lát? Tôi nghĩ, đi là thu thập những điều mắt thấy tai nghe. Và quên. Đến một lúc nào đó những điều tưởng đã quên, bỗng một ngày kia, khi đang viết nếu gặp một bối cảnh, một không khí thích hợp thì tự nó thức dậy và bước vào trang viết. Nói cách khác, đi thực tế là thu nhặt hạt giống và gieo. Gieo ở đâu? Ở trong tâm hồn của anh chứ đâu nữa, rồi một ngày mưa thuận gió hòa tự nó sẽ nẩy mầm. Bây giờ, không hề chuẩn bị trước nhưng câu thơ đầu tiên vẫn bật ra trong óc và các câu sau cứ thế nối nhau. Có được như thế, những câu thơ này đã hình thành, dù không rõ nét, là từ quan sát và cảm nhận trong những ngày đi thực tế ở Campina, thậm chí của cả những năm tháng xa lắc xa lơ trong dĩ vãng:

Còn gì bình yên hơn nhìn con bò trên đồng cỏ

Tâm hồn tôi bát ngát tận chân trời

Con bò nhởn nhơ nhai bóng chiều cỏ mượt

Đôi mắt tròn khờ khạo gọi tên tôi

Chợt nhớ về tuổi nhỏ xa xôi

Mẹ mắng tôi như con bò đần độn

Lúc ấy chỉ mơ được đi chăn bò

Mơ chân trời thênh thang không người lớn

Tôi gọi bò từ trong nắng sớm

Khản giọng hoàng hôn khói ấm quê nhà

Mẹ nấu bếp sương chiều bay tím nhạt

Bò ngoài chuồng rơm rạ bóng chiều xa

Và bây giờ trên đồng cỏ bao la

Đất nước của ngàn hoa tulip

Tôi hồn nhiên cất tiếng gọi bò

Nắng rực vàng từ sắc màu Van Gogh

Bỗng như chạm vào cơn gió lốc

Nghe tiếng bò kêu dân dã quê mùa

Xứ sở lạ, cớ sao thân mật thế?

Bò gọi tôi những tiếng gọi ngày xưa

Tôi trả lời bằng giọng của nắng mưa

Ca ngợi con bò hiền lành như thi sĩ

Bông hoa thơ dại run rẩy chân đồi

Mỉm cười khen tôi sao giống bò thế nhỉ?

Khổ thơ cuối hay đấy chứ! Tôi cười thầm một mình và đặt cho nó cái tựa ngộ nghĩnh “Tôi và bò”. Đang lơ mơ với thơ, Linh gọi tôi dậy để ra xe sang Bỉ, cụ thể là Aalter, bởi nơi đó có nhà máy và tổng kho của Campina mà chúng tôi phải đến tham quan và tìm hiểu.

Mở ra trước mắt tôi là một khu đất rộng mênh mông. Người tiếp chúng tôi là ông Johan Decatell - Giám đốc phụ trách và phát triển. Trước khi tham quan khu nhà máy, chúng tôi được trang bị bằng nhiều loại quần áo khác nhau. Ngay ngoài sân rộng, tôi đã thấy nhiều thùng inox cao ngất, mỗi thùng có sức chứa đến 250.000 lít sữa. Dù là một giọt sữa, chỉ một giọt chứa trong đó nhưng trước khi thành phẩm nó phải trải qua ba giai đoạn: khử trùng; phân loại theo từng tiêu chuẩn đã định trước; diệt trùng với nhiệt độ 140 độ C.

Vào trong khu nhà máy, chúng tôi được hướng dẫn qua nhiều phòng khác nhau. Điều ngạc nhiên đầu tiên là sự vận hành của nhiều hệ thống dây chuyền sản xuất trong khu nhà máy này, chỉ loe ngoe vài công nhân! Họ làng nhàng, không tỏ ra bận rộn gì cả; hoặc chỉ ngồi đăm chiêu trước màn hình vi tính. Thế thôi. Trong quy trình sản xuất, mỗi cái hộp giấy, cái chai nhựa kia tự nó vận hành theo những đường, những rãnh nhất định, không chệch ra ngoài, cứ thế mà đi hết một chặng đường dài. Nếu nó là người lính thì người lính ấy rất có kỷ luật. Không thoái lui. Không đào ngũ. Mà dẫu có muốn cũng không thể. Guồng máy đã chạy và cuốn tất cả theo một quy trình nhất định. C’est la vie. Đời là thế. Bi kịch của con người lắm khi là anh rơi vào một guồng máy, dù ý thức nhưng không thể cưỡng lại được. Đến khi thoát ra được, muốn làm lại từ đầu thì than ôi tóc đã bạc, máu đã khô và mắt đã mờ không còn đủ hăm hở bước đi những bước mới. Vừa lan man nghĩ, vừa đi trong tiếng máy rì rầm, nhịp nhàng ấy tôi có cảm tưởng như mình đang nghe một hòa tấu hay nhất, thiết thực nhất của mọi thời đại. Tôi như mê đi khi bước qua nhiều gian nhà máy khác nhau, bỗng nghe Thịnh gọi:

-Nhìn kìa! Người máy!

À! Ngộ nghĩnh chưa? Những người máy đang xếp từng kết sữa chồng lên nhau một cách vuông vức, đặt vào trong thùng rồi đưa ra xe để chuyển vào kho. Nếu chỉ xếp theo chiều cao thôi thì cũng bình thường, nhưng nó vừa xếp ngang lại vừa xếp dọc như có tính toán trước nên nhìn thích mắt lắm. Quan sát người máy lao động miệt mài như thế, ai dám bảo nó là vật vô tri vô giác? Nhìn mọi thao tác chuẩn mực của nó, không một sai sót dù nhỏ - dù vẫn biết nó thực hiện theo một lập trình đã tính toán vạch sẵn, nhưng tôi cũng có cảm tình với nó! Chỉ tiếc nó không biết nghe nên nó không thể nhận được lời thán phục. Nhưng niềm cảm phục của tôi đã lên đến tột cùng khi được bước vào trong kho chứa sản phẩm. Đây là một trong những nhà kho lớn nhất và hiện đại nhất ở châu Âu - một tòa nhà rộng mênh mông và cao ngất, tôi cảm tưởng như mình đang ngóng cổ nhìn một cao ốc nhiều tầng. Tôi thật sự choáng ngợp trước các thành phẩm được sắp xếp ở đây. Tất cả đều do máy móc thực hiện nhịp nhàng. Nếu không có máy móc, sức người không thể vận chuyển nhanh chóng và khoa học đến thế. Toàn bộ nhà kho này được “bảo trì” bằng một nhiệt độ thích hợp. Khi đứng lưng chừng trong không gian của tòa nhà này, do hệ thống thang máy đưa lên cao, tôi nói đùa với Thịnh trong không khí lạnh buốt:

-Cho dù mình có đột nhập vào trong kho này, muốn khoắng vài thùng sữa thì cũng không sao leo lên trên chót vót kia để lấy được.

Thịnh cười:

-Thật vậy, không thể.

Sự thán phục này hẳn giống như ngày xưa cụ Phan Thanh Giản qua bên Tây xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông? Tận mắt nhìn thấy khoa học của người Pháp giỏi quá, trở về cụ có viết hai câu câu thơ. Chỉ hai câu thôi, không chỉ vua Tự Đức giật mình mà những nhà nho thời ấy cũng phải khiếp sợ:

Bá ban kỹ xảo tề thiên địa,

Duy hữu tử sanh tạo hóa quyền.

Ghê gớm chưa? Cụ bảo ở Tây, họ chưa can thiệp được vào quyền sanh tử của tạo hóa thôi, chứ một trăm kỹ xảo, kỹ nghệ công nghiệp của họ đều có thể sánh bằng trời đất! Tất nhiên nhiều người không tin. Làm gì có chuyện ấy. Nay, tôi không nghĩ như thế, nhưng rõ ràng họ đã làm được nhiều điều mà ta chưa làm được.

Ngẫm nghĩ cũng thú vị, nếu ngày xưa máy móc cũng can thiệp việc chế biến sữa bằng một quy trình hoàn thiện như thế này, làm sao cụ La Fontaine có cảm hứng viết câu chuyện ngụ ngôn về cô Perrette? Ngày nay, cô Perrette kia không cần phải “tênh hênh giày mỏng, nhẹ nhàng váy đơn” đội sữa ra chợ bán nữa, bởi đã có người đến tận nông trại thu mua, chứa trong bồn to đùng để chuyển về nhà máy! Mà không đội sữa ra chợ bán, cô đâu có dịp thong dong trên đường quê từ nhà ra đến chợ, vừa đi vừa ngắm cảnh vừa nghĩ ngợi linh tinh? Chính lúc ấy, lúc đang trên đường xa đi một mình cô mới tính toán rằng, bán xong sữa, lấy tiền đó mua gà. Chỉ một thời gian sau, gà sinh đẻ đuề huề, ta bán gà mua lợn. Rồi lợn cũng lớn như thổi, ta bán lợn mua bò về nuôi. Chẳng mấy chốc giàu sụ. Chỉ mới nghĩ đến đó cô nàng hứng chí nhảy cỡn lên reo mừng cũng là lúc “hũ sữa lăn chiêng, đổ nhào”. Nếu cô phòng không bóng chiếc, cùng lắm chỉ bị mẹ la rày vài câu, chứ đã có chồng thì không khéo bị anh chồng mắng hậu đậu và nện một trận đòn cũng nên. Thương ơi là thương cho cô Perrette.

Thương ở chỗ, ước mơ của cô là ước mơ lương thiện của một người lương thiện. Thời đại nào cũng có những con người ấy, nhưng rồi cả một cuộc đời họ có đạt đến được cái ước mơ ấy đâu. Đó không phải là bi kịch. Bi kịch lớn nhất của đời người là ở chỗ, một khi đã thức tỉnh, muốn làm lại cuộc đời lương thiện với ước mơ lương thiện nhưng cũng không thể được! Tôi bỗng nhớ đến nhớ ước mơ cuối cùng của Chí Phèo. Vào một ngày đẹp trời hắn đến nhà Bá Kiến và dõng dạc: “Tao muốn làm người lương thiện... Nhưng ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! Chỉ có một cách…biết không ! Chỉ còn một cách là…cái này ! Biết không!”. Trong tuyệt vọng đau đớn đến tột cùng, “Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy. Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đang giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứa ra”. Cái chết của Chí Phèo đã mở ra sự bất tử trong đời văn của nhà văn Nam Cao và đó cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tôi bùi ngùi như vừa chạm đến một nỗi buồn bàng bạc bủa vây một kiếp nhân sinh.

Rời khỏi nông trường, chúng tôi đến thành phố Aalter.

Đặt chân nơi lần đầu tiên được đến trong đời, lòng tôi buồn rười rượi bởi thấy treo trước hiên những ngôi nhà cổ kính là những chậu hoa tươi xinh xắn. Nó đang hiện ra trước mắt. Đâu phải đi lạc vào công viên mà hoa nhiều đến thế? Dọc theo đường phố là cả một rừng hoa thắm như máu. Máu còn tươi. Nhành lá lại xanh. Xanh đến nõn nà. Sắc màu như thế khiến tôi nôn nao như vừa bắt gặp một hình ảnh xa xăm, đã lùi xa trong ký ức tuổi thơ bỗng quay về dù không hẹn hò trước. Ấy là sắc hoa trong nhà ông ngoại tôi, bất kể thời tiết nào cũng rực rỡ ở một khoảng sân nhỏ. Ngày ấy bình yên lạ lùng, là “ngày xửa, ngày xưa...” của tôi trên đường đời xuôi ngược quá nhiều bất trắc mà mỗi lúc nhớ lại, vẫn thấy buồn rưng rưng và thấy cay cay ở sống mũi. Tôi đứng tần ngần. Mọi người đã vào nhận phòng trong khách sạn Sofitel. Mặc kệ. Tôi cứ đứng ngẩn ngơ ngắm những chậu hoa kia và thả dòng cảm xúc trôi theo gió lan man, không định hướng. Tôi bước đi và cố ý nện gót giày trên đường phố xa lạ, nhưng nó không gợi lên một âm thanh ám ảnh mơ hồ nào cả. Bởi con phố này, ngôi nhà kia, dòng người nọ không gắn với tôi bằng một tình cảm nào của quá khứ. Ý thức như thế, tôi chợt thấy cảm thương đời sống của những người sống xa xứ. Trong tất bật hằng ngày cơm áo, có hình ảnh nào, kỷ niệm nào trên đường phố xa lạ an ủi tâm hồn của họ? Với tôi, khi đã quá mệt mỏi, tôi thèm trở về tắm gội trong không khí của quê nhà, nơi chôn rau cắt rốn như tiếp thêm sinh lực, thêm sức sống bởi con đường này, góc phố này đều gắn bó với tôi từ thuở mới lọt lòng. Chỉ ở đó, có lúc một mình thả bàn chân trên phố cũ quê nhà đêm khuya khoắt, từ mỗi bước đi, tôi mới nghe trong gió có ai gọi tên mình rất đỗi thân mật vừa xa xăm lại vừa gần gũi. Như hỏi han. Như vỗ về. Một cảm giác phiêu linh.

Không thể để mọi người phải đợi mình, tôi quay trở lại khách sạn. Cái tên Sofitel không xa lạ với du khách Việt Nam. Trong hệ thống khách sạn ở Việt Nam tính đến năm 2005, theo thống kê của Tổng cục Du lịch chỉ mới có 18 khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao, trong đó Sofitel đã chiếm đến 3. Đó là các Sofitel Plaza ở Hà Nội (1 Thanh Niên, quận Ba Đình), Thành phố Hồ Chí Minh (17 Lê Duẩn, quận 1) và Đà Lạt (7 Trần Phú). Chỉ kịp thoáng nhìn căn phòng rộng mênh mông và đầy đủ tiện nghi, tôi vội lao nhanh ra thang máy để xuống dưới đất, bởi cái sự háo hức muốn nhìn ngắm một thành phố lạ đã giục tôi nhanh lên hơn nữa.

Vị trí của khách sạn này có hai mặt tiền, đối diện với ngay cửa vào, phía bên kia đường là một ngôi nhà thờ cổ. Con đường này nhỏ, hẹp chỉ vài bước chân là từ bên này đã qua bên kia. Một sự tương phản rõ nét giữa hiện đại và cổ kính. Ngôi nhà thờ cũ kỹ và bám bụi thời gian gợi lên những gì thuộc về quá khứ cần phải gìn giữ. Khách sạn lại sơn một màu sáng trẻ trung như một đứa trẻ đứng đối diện với dĩ vãng xa xăm. Thấp thoáng trong nắng chiều là những hồi chuông nhà thờ vọng lên trong thinh không. Âm thanh ấy gợi lên một cảm giác hoài cổ và rầu rầu. Nếu không có những má đỏ, môi hồng, tóc vàng, váy xanh, son nhạt của những thiếu nữ đang ríu rít trên đường tôi nghĩ mình đã lạc vào một thành phố chưa thức dậy. Loáng thoáng chỉ có vào chiếc xe đạp. Dòng người lướt qua nhẹ nhàng, không tất bật, không ồn ào. Tôi cúi xuống nhìn những phiến đá lót đường. Giữa kẽ hở của từng phiến đá xanh được xếp ngay ngắn, dài tăm tắp tôi đã thấy những ngọn cỏ xanh rờn rợn nhú lên, bất chấp dòng đời xuôi ngược từng ngày, từng mùa. Tôi ân cần vuốt ve và hỏi nó hỏi tại sao người ta có thể nghĩ ra một cách lót đường lãng mạn đến thế? Không trả lời tôi, bởi cỏ có nhiệm duy nhất là xanh. Xanh và xanh giữa lòng đường của một thành phố hiện đại thế kỷ XXI thế mới là xanh.

Với sự thành khẩn của một người đang nhẹ nhàng dọn lòng để hướng về tiếng chuông đang vọng trên thinh không, tôi nhìn lên bức tường xám của ngôi nhà thờ cổ và bàng hoàng khi nhìn thấy ở đó có tạc bức tượng nhiều vị thánh. Mỗi gương mặt đều hằn nếp khổ đau, nhọc nhằn và đang nhìn xuống cõi trần. Hình ảnh ấy sống động lạ thường. Những vị thánh ấy đã phải đứng nhẫn nại trên tường nhà thờ này từ lúc nào? Không biết. Là người “câm” tôi không thể hỏi ai được. Trên nóc nhà thờ cao vòi vọi lại thấy những cánh chim bồ câu bay đến. Mây trắng đang lãng du trên đầu. Một cảm giác cô đơn khủng khiếp ùa đến trong tâm hồn tôi. Chao ôi! Những pho tượng khắc khổ lại ám ảnh không nguôi, cứ đọng lại trong hai con mắt. Không cần phải để ý đến người qua kẻ lại trên phố, tôi đứng nép vào góc tường nhà thờ, ngay dưới chân của một vị thánh và ghi những câu thơ chợt đến vào trong sổ tay:

Những pho tượng đứng trên tường

Gương mặt cúi xuống gió sương chập chờn

Thời gian dằng dặc cô đơn

Bồ câu ngơ ngác gió mơn nắng chiều

Ngàn năm  nét mặt đăm chiêu

Chìm trong thớ đá dập dìu nỗi đau

Chợt nghe gái đẹp xôn xao

Phố phường mắt biếc cúi chào mùa xanh

Son thơm ríu rít hiền lành

Nhịp chuông gióng dả dỗ dành chiều đi

Bỗng tôi hóa gã tình si

Đam mê tượng đá vô vi trên tường


 

9.

Linh bảo:

-Sau khi ăn chiều, bọn mình đi ngắm cảnh thành phố Aalter bằng khinh khí cầu.

Charlotte nheo mắt cười như muốn nói đến những bất ngờ sẽ diễn ra trong chốc lát nữa thôi. À! Thú vị lắm đây. Trong bữa ăn chiều tại nhà hàng ‘t Oud Gremeetehuis” ngồi ngoài sân, dưới một dàn nho râm mát tôi nôn nóng với chuyến đi này. Con người thật lạ lùng, khi đã dẫm hai chân trên trái đất lại vừa muốn làm cá phiêu lưu tận đáy biển khơi thăm thẳm, vừa muốn mọc cánh bay lên chín tầng trời cao ngất.

Thiên hạ bay lên trời bằng khinh khí cầu từ lúc nào? Ít ra cũng đã hơn 200 năm nay. Đúc kết kinh nghiệm thành công lẫn thất bại thử nghiệm của nhiều người đi trước, tháng 12.1782, hai anh em thợ làm giày Montgolfier, người Pháp, đã thả một khí cầu 20 mét khối lên được tới độ cao 300 mét. Cuộc thí nghiệm thành công này đã khiến mọi người tin tưởng vào khả năng có thể lên cao bằng kinh khí cầu. “Thừa thắng xông lên”, năm 1783, hai anh em nhà này lại chế tạo một khí cầu khác, theo kế hoạch họ sẽ biểu diễn trước sự chứng kiến của vua Louis XVI, nhưng ông vua này không muốn thần dân của mình “tan thây nát thịt”, nếu không thành công. Vì thế, ba sinh vật được chọn bay đầu tiên trên khí cầu là... một chú gà trống, một con vịt và một con cừu. Chuyến đi này đã chứng minh một điều quan trọng khi lên cao gặp không khí loãng, sinh vật sẽ không bị một tổn thương nào cả. Sự phân vân, hoài nghi trước đó đã không còn cơ sở để tồn tại. Dù hào hứng trước thành công “trên cả tuyệt vời”, nhà vua vẫn thận trọng, tuyên bố chỉ cho một tù nhân bay thử, nếu sống sót sẽ được thả tự do. Cơ hội này cũng hấp dẫn đấy chứ? Nhưng một chàng làm khoa học trẻ là Jean Francois de Rozier không đồng tình, cho rằng, được giao sứ mệnh ấy là vinh dự quá mức dành cho một tù nhân nên anh ta tự nguyện thế chỗ. Một lần nữa anh em Montgolfier đã bắt tay chế tạo một khí cầu 1.660 mét khối, cao 23 mét phục vụ cho chuyến bay lịch sử này. Chỉ trong vòng 25 phút trên chặng đường bay 8km, Jean Francois de Rozier và hầu tước Arlandes đã đánh dấu sự kiện chuyến bay khí cầu đầu tiên có con người vào ngày 21.11.1783. Từ lâu đài Muette, họ đã bay trên bầu trời Paris và hạ xuống an toàn tại một vị trí nay là Quận 13 Paris. Tất nhiên trong chuyến bay này, khi bay lơ lửng trên trời để không khí trong quả cầu nhẹ hơn  không khí bên ngoài người ta phải đốt vải vụn, rơm khô. Như thế rất nguy hiểm, vì tàn tro của nó bay lên mù mịt có thể làm cháy cầu như chơi. Do đó, về sau một nhà vật lý người Pháp Jaques Charles đã cải tiến bằng cách bơm vào đó khí huydrô và chuyến bay đầu tiên theo định luật của khí cầu hiện đại diễn ra vào ngày 1.12.1783. Ngày nay người ta chỉ thay thế khí hydrô bằng khí hélium hoặc loại khí khác và vỏ bọc quả cầu mà thôi.

Ăn chiều xong, chúng tôi đến vị trí tập kết. Tại một cánh đồng rộng lớn ngoài ngoại ô thành phố Aalter, xa xa đàn bò đang thong thả gặm cỏ    và những làn khói ấm lan tỏa nhẹ tênh trong nắng chiều, đội bay “Ballonvaarten Madou” đã có mặt. Họ đi trên xe Land Cruiser, phía sau có kéo theo rơ - moóc để chở theo khí cầu, tất nhiên là xẹp lép, không có hơi. Anh chàng phi công Thomas Braas và hai thành viên Ronald, Edwin nhanh chóng kéo quả cầu ra khỏi xe, ít ra nó cũng có chiều dài cỡ 50 mét. Nối liền quả cầu và cái giỏ được đan bằng những sợi mây rắn chắc - khi bay cả “phi công” lẫn du khách sẽ đứng trong đó - là những sợi dây thừng cỡ lớn. Nhìn những sợi dây thừng này được bện chắc chắn nên tôi yên tâm. Trong cái giỏ mây này còn có ba bình gas dùng để đốt nóng không khí trong quả cầu khi đang bay.

Khi quả cầu đã được đặt nằm dài dưới đất, người ta bắt đầu khởi động máy phát điện để vận hành một cái quạt cỡ lớn. Ấy là lúc cái quạt vận dụng hết công suất để lùa gió vào bên trong quả cầu. Cứ thế, cơn gió lốc mạnh mẽ cứ phần phật lao tới phía trước, phải mất gần nửa tiếng đồng hồ, quả cầu mới có thể căng phồng lên. Lập tức Ronald, Edwin bắt đầu xả khí nóng vào bên trong quả cầu, nó từ từ dựng lên và đứng vững chãi trên mặt đất. Không riêng gì chúng tôi mà những người nông dân đang đứng quan sát cũng hò reo khi thấy trước mắt mình là một quả cầu cao ngất đang đứng lắc lư trong gió. Không một phút chậm trễ, chúng tôi bắt đầu leo vào chiếc giỏ mây cao chừng một mét, đủ sức chứa đến bảy người, kể cả “phi công”. Người thực hiện chuyến bay này là Thomas Braas, một anh chàng to béo, có gương mặt hiền lành. Lúc mọi người đã vào bên trong, anh chàng khuỳnh hai tay ra bóp vào bình gas. Một làn hơi nóng phóng lên trên, nhờ vậy, quả cầu bắt đầu rời khỏi mặt đất và lên cao dần, cao dần...

Từ trên cao, nhìn xuống đất tôi thấy chiếc xe Land Cruiser kéo theo rơ-moóc cũng bắt đầu lăn bánh theo. Quả cầu bắt đầu bay lửng lơ trong không gian đầy gió và lên cao dần. Trong khi tôi thả hồn nhìn cảnh vật mờ nhạt dưới đất thì Thịnh vẫn không quên làm nhiệm của một nhà báo. Trong ánh nắng rực rỡ của trời chiều, anh hý hoáy ghi ghi chép chép khi cùng Charlotte và Linh trò chuyện với Thomas Braas. Còn tôi, là người “câm” nên không thể. Tôi chỉ có cảm giác yên tâm khi quan sát phía dưới. Yên tâm bởi quả cầu bay nhẹ nhàng, không chông chênh và hiện ra trong mắt là những dòng kênh, những mái nhà, những cánh đồng hiền hòa ở phía dưới vừa xa lạ lại vừa thân mật biết chừng nào. Sau đây là ghi chép của Thịnh:

“Khinh khí cầu có thể bay dựa vào một nguyên lý rất đơn giản: Cái gì nhẹ hơn không khí đều có thể bay. Ba cái bình gas trên ca - bin (tức giỏ mây nơi chúng tôi đang đứng), thực ra là bình khí propane, có tác dụng sưởi nóng 5.000m3 không khí bên trong quả cầu.

-Làm thế nào để biết cầu đang lên hay đang xuống ? - tôi hỏi.

-Nhìn vào đây - Thomas trỏ vào một cái đồng hồ - Cứ thấy kim chỉ xuống vạch đỏ nghĩa là cầu đang xuống.

Và đó cũng là nguyên lý duy nhất để người phi công có thể điều khiển được quả cầu. Sáu năm trước, Piccard và Jones cũng dựa vào nguyên lý này để thay đổi độ cao quả cầu, chọn hướng gió để điều khiển quả cầu đi theo hướng mình muốn để bay vòng quanh trái đất. Trong các nội dung thi khinh khí cầu, giải thưởng sẽ dành cho những phi công điều khiển khinh khí cầu đến gần mục tiêu nhất. Cụ thể, trong một cuộc thi ban tổ chức thường vạch một chữ X trong vòng tròn có đường kính khoảng 50 feet (độ 15 mét), phi công nào cho khí cầu đáp gần tâm nhất sẽ được điểm cao nhất. Trong lịch sử, đã có balloonist (người điều khiển) đưa khí cầu đạt đến độ cao 102.000 feet (hơn 30 km) và lần lượt chinh phục Đại Tây Dương. Đó là chưa kể thời nội chiến ở Mỹ, quân các bên đã dùng khinh khí cầu để làm... máy bay do thám.

Để giữ độ cao ổn định cho khí cầu, cứ quãng 1 phút, Thomas lại thò tay lên khóa gas, tiếng "xì xì xì" vang lên, rồi tiếng lửa phựt giúp giữ độ nóng ổn định cho khí cầu.

-Một quả khí cầu như vậy có đắt không?

-Cỡ bằng chiếc xe ở dưới - Thomas trỏ  tay  xuống chiếc Land Cruiser.

-Là khoảng bao nhiêu? Cái xe đó ở Việt Nam mắc lắm à!

-Quãng 18 đến 20 ngàn (euro), cộng thêm phụ tùng, đồng hồ, bộ đàm hết khoảng 3 ngàn nữa.

-Mỗi khí cầu xài được bao lâu ?

-Tốt nhất là 4 năm, nhưng mỗi năm thường chỉ sử dụng vào mùa hè. Thời điểm tốt nhất để bay khí cầu vào lúc sáng sau bình minh và xế chiều vì những lúc đó thời tiết đẹp, ít gió. Mỗi năm khí cầu chỉ bay khoảng 50 - 70 giờ.

-Thế chi phí cho mỗi người đi có đắt không ?

-Nếu tính giá du lịch thì đắt. Chỉ nhiên liệu thôi thì tốn khoảng 15 gallon propane mỗi giờ (1 gallon = 4,54 lít). Chi phí “vốn” mỗi người cho một chuyến bay như thế này khoảng hơn 100 Euro.

Nhìn trên bầu trời Aalter, thấp thoáng xa xa một chiếc khí cầu nữa. “Không được rồi” - Thomas nói - "Chúng ta đã bay sang biên giới Bỉ - Hà Lan, mà tấm bằng của tôi chỉ là bằng của Bỉ cấp, qua bên đó cảnh sát bắt sẽ rắc rối to”.

Anh chàng phi công nói và sau đó, tôi nhận thấy kim chỉ độ cao hạ xuống vạch đỏ. Mặt đất gần dần, gần dần. “Tôi phải có bằng quốc tế mới bay được trên đất Hà Lan” - Thomas giảng giải như tìm sự thông cảm. Thomas đố ai tìm được bãi đáp tối ưu nhất, một mặt khuyến cáo tất cả phải ở trong tư thế khuỵu gối, không được ra khỏi ca - bin khi chưa có lệnh. Các cánh đồng cỏ lần lượt hiện ra, đến khi xuống gần khoảng 50 mét mới phát hiện không chỉ có cỏ mà còn cả lúa mạch, có những đàn bò đang gặm cỏ.

“Không đáp xuống bãi cỏ được”  - Thomas lý giải - “Lũ bò sẽ hoảng loạn mất”. Và cứ thế, bằng chiêu bấm “xịt xịt”, Thomas giữ cho khí cầu là là mặt đất, bay đập ngọn cánh đồng củ hành. Thomas kéo một sợi dây mở cửa sổ cho quả cầu. Khí lạnh tràn vào, quả cầu đáp xuống đúng con đường nhỏ, bề ngang chỉ độ 3 mét. Dưới đất, chiếc Land Cruiser cùng Edwin và Ronald trờ tới. Cả hai chạy như bay đến giữ thăng bằng cho ca - bin. Thomas thò tay vứt sợi dây, Edwin cầm kéo ngả theo hướng con đường. Quả cầu từ từ rơi dọc xuống đường. Khi cả đoàn bắt đầu lồm cồm bò ra, một chiếc xe ập đến. “Ông nông dân này sợ mình đáp xuống hỏng bãi hành của ổng” - Charlotte lý giải.

Về Việt Nam tôi mới hiểu cả đoàn bị Thomas lừa. Bởi chẳng có anh chàng phi công nào mà không biết hướng gió sẽ đẩy khí cầu về đâu, đến độ để trôi qua đến tận... Hà Lan! Nếu không biết, sẽ chẳng ai cấp bằng cho anh đâu, Thomas ạ!”.

Khi đã quả cầu hạ xuống và nằm dài trên con đường hẹp như Thịnh đã kể, chúng tôi vội vàng lao tới xếp nó lại. Quả một việc làm không dễ dàng. Phải vất vả lắm mới tống được hết không khí để nó trở về trạng thái xẹp lép như ban đầu. Xong xuôi mọi việc thì trời đã nhập nhòe tối. Trong ánh sáng nhợt nhạt, bỗng tôi nghe tiếng gọi của Edwin. Đại khái, tôi hiểu anh muốn nói chúng tôi ngồi khuỵu chân xếp theo một hàng ngang ngay trên vệ cỏ. Lúc ấy trên tay anh có cầm một ly rượu màu trắng, và cúi xuống ngắt một nắm cỏ xanh. Bước đến chỗ chúng tôi đang ngồi, qua đến từng người một, anh đổ một ít rượu phía trước tóc rồi lấy nắm cỏ xoa vào đó! Cứ như làm dấu thánh! Trong lúc làm như thế anh nói thì thầm một câu gì đó, sau Thịnh mới giải thích tôi biết ấy là câu chúc sức khỏe, trở về an toàn. Xong “nghi lễ” này, anh đem xúc xích, thịt nguội, lạp xưởng và rượu ra mời mọi người cùng ăn. Trong lúc đang đứng, ngồi ăn uống nhồm nhoàm một cách ngon lành, chúng tôi lại nghe anh chàng phi công Thomas gọi tên từng người. À! Anh đang cấp giấy chứng nhận của cho từng người. Giấy chứng nhận màu xanh có chiều dài khoảng 14,2 cm, ngang 10 cm trên có vẽ hình khinh khí cầu Madou, ghi rõ họ tên của người tham dự, ngày bay và địa điểm là “Bellen - Belgium”. Tất nhiên có chỗ cho ta và anh ký tên, cũng đóng khuôn dấu đỏ là hình quả khinh khí cầu đang bay! Trông ngồ ngộ, vui vui. Ngay phần dưới có in hai bài thơ “La prière du Ballon” và “Baptême” bằng tiếng Hà Lan và tiếng Pháp. Sau khi nghe Linh giải nghĩa bằng tiếng Việt, rằng: “Gió nhẹ nhàng nâng ta lên, còn nắng ấm áp đón ta vào lòng. Từ đó, ta bay thật cao, thật xa. Ở trên cao Chúa đã chào đón chúng ta bằng nụ cười và nhẹ nhàng đặt ta xuống đất mẹ”, tôi cao hứng chuyển thể sang thơ để dễ nhớ:

Nhẹ nhàng theo gió

Lên chín tầng mây

Nắng vàng rực rỡ

Mở rộng vòng tay

Từng tia ấm áp

Ôm trọn hình hài

Ta bay, ta bay

Chúa cười hiền hậu

Nhìn đón chúng ta

Và Ngài đã mở lòng ra

Đưa ta xuống đất hiền hòa bình yên

Qua trở về khách sạn Sofitel, leo lên phòng, không kịp thưởng thức hết bộ phim hoạt hình dành cho trẻ em, tôi đã ngủ vùi một giấc ngon lành. Căn phòng rộng thênh thang. Yên tĩnh. Tiếng chuông nhà thờ từ xa vọng tới... Chào nhé, ngày mai tôi trở về Amsterdam.


 

10.

“Chiều một mình qua phố, âm thầm nhớ, nhớ tên em. Có khi nắng khuya chưa lên mà một loài hoa chợt tím...”. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thuở sinh thời khi viết những dòng ấy có lẽ ông chưa đến Hà Lan, nhưng bằng sự linh cảm của một nghệ sĩ tài hoa, ông đã cảm nhận được ngày mưa tháng nắng ở xứ hoa tulip. Ô hay! Tại sao lại là “nắng khuya”? Đã hơn chín giờ tối, ngoài trời vẫn còn nắng, dù nắng không còn rực rỡ dậy thì, nhưng vẫn là thứ nắng dìu dịu và đủ sức hấp dẫn những tâm hồn đang phiêu bồng muốn ngắm nhìn ánh sáng để thức, để tận hưởng không khí ồn ào và náo nhiệt lúc về đêm ở Amsterdam. Sau khi đi lang thang, Thịnh, Dũng và tôi quay trở về uống bia ở một nhà hàng ngay quảng trường DAM, không vào bên trong, chúng tôi chọn phía ngoài sân. Một ly bia giá 6 Euro! Giá cao ngất trời. Nhưng vẫn gọi một cách hào phóng và uống vô tư. Bởi chỗ ngồi. Một chỗ ngồi cho phép tôi quét một tầm mắt là nhìn thấy cả dòng người đang nườm nượp đi dạo ngoài kia. Ngay dưới chân tượng đài Dân Tộc thiên hạ đang bao quanh xem một anh chàng biểu diễn lửa. Bằng cách ngậm dầu hỏa trong miệng, anh ta phun ra một dòng lửa sáng rực. Ai nấy vỗ tay vang. “Uống đi! Bia ngon”. Có tiếng mời trống không của Dũng. Ly chạm vào ly gợi lên một âm thanh khô khốc. Rồi, uống. Không ai nói với ai một lời nào. Những ly bia cạn dần. Mỗi người đeo đuổi theo một suy nghĩ riêng.

Uống cạn ly bia, tôi khum mười ngón tay đưa lên mũi, ngửi lại lần nữa, cảm giác cái mùi thuốc lá cần sa vẫn còn lẩn khuất đâu đây.

Cái mùi lợm giọng quái quỷ này vẫn ám ảnh là do lúc nẫy chúng tôi đã đi vào khu “dark”. Vừa mới bước chân vào phố này lập tức xộc vào trong mũi là khói cần sa đặc quánh trong gió. Khét lẹt. Thế nhưng, tôi nhận ra rằng, ở Amsterdam nói chung việc hút thuốc lá nơi cộng cộng không được thiên hạ nhìn bằng cái nhìn thiện cảm. Không phải nơi nào ta cũng có thể phì phèo và nhả khói một cách ngang nhiên đâu. Lướt qua từng quán, tôi thấy sau từng tấm kiếng trong suốt là những cô gái điếm đang tênh hênh cười tình, lẳng lơ chào mời; là tiếng nhạc ầm ĩ; là những thú vui của dục vọng; là những cơn say để quên đường về; là gì nữa? Chúng tôi chỉ lướt qua như một nhà đạo đức nghiến răng lắc đầu từ chối những cám dỗ, những mơn trớn, những vuốt ve... Ngay sát con đường đi, nhìn xuống dòng kênh vẫn là những vòm xanh lấp loáng hiền lành. Con phố này cũng giống như mọi phố khác. Có khác chăng chỉ là những hình ảnh sỗ sàng về tình dục phơi bày ra phía trước một cách lộ liễu, không cần phải che dấu.

Trong lúc đang đi và nhìn ngắm một cách tò mò, tọc mạch bỗng nghe có tiếng ồn ào từng phía xa vọng tới, đang là người du lịch lập tức cái máu nhà báo đã nổi dậy và buộc chúng tôi phải lao tới. Khi đến nơi, chúng tôi không thể vượt qua được một rào cản, phía trước là cảnh sát đang làm nhiệm vụ. Những người đến trước cho biết là vừa xẩy ra một vụ đâm chém của những người say rượu. Cảnh sát đã kịp thời có mặt, họ nai nịt gọn gàng và thể hiện những động tác nhanh gọn để chuyển nạn nhân.

Đó cũng là lúc chúng tôi rời khỏi nơi này.

Trên đường trở về khách sạn, chúng tôi rủ nhau mua vé vào Bảo tàng Venustempel hay còn gọi Sexmuseum tại “Damrak 18”. Giá vé rẻ đến mức không ngờ, chỉ 2.5 Euro. Ngay trước cửa là thần vệ nữ và bước vào trong người xem có thể tận mắt thấy từ hình ảnh đến các dụng cụ liên quan đến sex. Nếu muốn nhìn thấy hình ảnh cử động hãy bước vào phòng nhỏ, hai người ngồi, bỏ vào khe cửa một đồng xu thì trước mắt sẽ chiếu đoạn phim ngắn hoặc xem trên kênh truyền hình v.v... Hay nhỉ? Chỉ cần viết hoặc nói “v.v...” là đủ. Cần gì phải dài dòng, kể lể thêm nữa bởi không khéo có người cười vào mũi cho đấy! Nói vắn tắt một lời, bất cứ những gì liên quan đến các bộ phận và quan hệ tình dục của con người đều được trưng bày trong ngôi nhà rộng lớn này. Số lượng phải tính bằng đơn vị hàng ngàn. Thú thật suốt một giờ đồng hồ tham quan tất tần tật hiện vật “tự cổ chí kim”, dù chỉ xem thoáng qua nhưng tôi cũng đã chếnh choáng như ngộ độc, không rõ tâm trạng của mình như thế nào nữa. Các hình ảnh ấy cứ nhảy múa trong đầu. Ban đầu, tôi còn ngượng như một người ăn vụng bị bắt quả tang, nhưng khi nhìn chung quanh thấy có cả những yểu điệu thục nữ thì cảm giác ấy tan biến đi. Trong khi tham quan, bằng biện pháp nghiệp vụ của riêng mình, tôi đã có trong tay một tài liệu về bảo tàng độc đáo này mà không phải ai cũng có, tất nhiên viết bằng tiếng Anh. Một người bạn đã dịch ra như sau:

“Các bạn đến với nhà bảo tàng về Giới tính đầu tiên và xưa nhất trên thế giới: Bảo tàng “Venustempel” tại Amsterdam. Nhà bảo tàng hàng đầu về khoái cảm yêu đương với những bộ sưu tập mở rộng từ tranh, hình chụp, tượng, băng dĩa... về đề tài tình dục. Tất cả hiện vật này bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ XVII đến nay do các cá nhân thu thập.

Venustempel khai trương từ năm 1985 với nhiều sự lo ngại. Vì những bộ sưu tập ban đầu chỉ là những vật thể, tượng về tình dục của thế kỷ XIX và giới hạn trong một góc trưng bày nhỏ. Không ai dám đoán chắc ý tưởng này sẽ thật sự thành công hay không. Tuy nhiên, những quan khách đầu tiên đã rất nhiệt tình cho rằng cần mở rộng bộ sưu tập. Và công chúng đã bị mê hoặc bởi nhà bảo tàng mới này.

Có rất nhiều nhà bảo tàng cho mọi đề tài, trừ giới tính (sex). Mặc dù sex hấp dẫn tất cả mọi người và luôn là đề tài nóng bỏng, nhưng chỉ đến khi Venutempel được mở ra thì khía cạnh lịch sử và nghệ thuật của sex mới được thể hiện và nhấn mạnh đầy đủ. Vì thế nó thành công, dẫu muộn màng, cũng là điều được mong chờ tất yếu. Nghệ thuật yêu đương đã được thể hiện bằng một ngàn lẻ một động tác khác nhau qua nhiều thế kỷ. Đó cũng là chủ đích của tất cả những gì mà nhà bảo tàng này muốn thể hiện.

Khi các bộ sưu tập dần dần tăng lên, bảo tàng cần phải mở thêm nhiều phòng. Như là một định mệnh, người ta tìm được hai tượng về tình dục dưới móng của toà nhà thứ nhất, một mảnh vỡ của viên gạch gốm xanh (Delft Blue) đã lộ ra một người đàn ông ở tình trạng cương cứng đang chơi bài và một bức tượng cổ thần Hermes với dương vật khổng lồ. Giới khảo cổ khám phá ra rằng, bức tượng thần Hermes là do thương gia Hà Lan mua về từ Địa Trung Hải từ hàng trăm năm trước. Không biết đó có là điềm báo thành công rực rỡ của bảo tàng Sex ở Amsterdam thành sự thật?

Cho dù thế nào thì Venustempel vẫn đang thu hút 500.000 lượt khách tham quan mỗi năm, trở thành một trong những bảo tàng được tham quan nhiều nhất tại Amsterdam. Nhiều nhà bảo tàng sex được mở ra trong vài năm gần đây: Berlin, Copenhagen và Paris nhưng dường như không có nơi nào thành công như Venustemple.

Những bộ sưu tập được trưng bày ở hai khu nhà phía sau lưng của tòa nhà chính và một khu phía trước của toà nhà chính được nối với nhau bằng các dãy hành lang thiết kế đặc biệt. Kết quả là các phòng và hành lang lại trở thành một mê trận thú vị. Khách tham quan đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác vì tầm nhìn trêu ngươi. Điều này cộng thêm với bộ sưu tầm không ngừng tăng lên từ nhiều thời kỳ, văn hoá đã làm thoả mãn thị giác và thính giác của người xem.

Lấy lịch sử kinh điển làm ví dụ: Cleopatra được biết như là người có thể “chiến đấu” với cả một trung đội đàn ông khi mà Caesar ở tiền tuyến. Người Hy Lạp cổ “làm chuyện đó” vui sướng và thường xuyên. Đó có thể là đàn ông hay phụ nữ nhưng dĩ nhiên là theo “kiểu Hy Lạp”. Nhưng người La mã thì lại là biểu trưng cho trường phái quá độ kiểu tình dục hoang dại. Và cũng chẳng có gì là ngạc nhiên nếu cả thế giới sex có nguồn gốc từ Latinh.

Dĩ nhiên có những thời kỳ sex được nhìn ở nhiều góc độ khác nhau, nói một cách nhẹ nhàng là bị kiềm chế. Vào thời trung cổ, khoái lạc tình dục thì bị tin là công việc của Quỉ sứ. Những ai không biết kiềm chế thú tính sẽ bị nhà thờ hành hạ và có thể bị thiêu sống. Thông minh nhất là phải biết giấu những hành vi sex của bản thân. Sau đó, đạo đức trở nên bớt khắt khe. Hình thái nghệ thuật ngày càng phong phú vào thời kỳ các Hiệp sĩ và tư tưởng tình dục một lần nữa được nhìn nhận “tinh khiết, trong sáng và quí phái” và đạt đến cao trào vào thế kỷ XVIII.

Trong một giai đoạn ngắn, một làn sóng Thanh giáo thổi vào từ Anh, tình dục lại trở thành một điều cấm kỵ ở thời các nữ hoàng Vitoria. May mắn vào thế kỷ XX là sự kết thúc của trào lưu kiểu cách này. Ngày nay ai cũng muốn biết và đặc biệt là muốn làm lại mọi thứ. Đàn ông và phụ nữ đều có nhu cầu được thể hiện như họ muốn và bình đẳng khi “lâm trận”. Cuộc cách mạng tình dục (thứ hai) đã bắt đầu.Và tương lai? Chúng tôi nhường lại điều này cho trí tưởng tuợng của bạn”.

Rời khỏi Venustempel, đêm đã khuya.

Trên đường về tôi bắt gặp một hình ảnh để sau đó, một nỗi bùi ngùi bám trong trí nhớ, không chịu rời xa mà cứ dùng dằng mãi và len lỏi vào tận mộng mị. Giữa phố phường người qua kẻ lại tấp nập, ánh sáng hoa lệ sáng lòa cả một góc trời, dòng người trôi qua và chẳng một ai để ý dưới mái hiên của một ngôi nhà đã đóng cửa có một cô bé tóc vàng đang hồn nhiên đứng kéo violon. Gương mặt em sáng sủa như một thiên thần. Tiếng nhạc thánh thoát bay lên vòm trời như réo rắc, như chia sẻ niềm vui với một người. Ở dưới chân em đang đứng là hộp đàn đang mở nắp, tôi thấy có vài đồng xu nằm chỏng trơ. Sau lưng em lại là cánh cửa sắt đã kéo xuống, người ta vẽ nguệch ngoạc lên đó những hình ảnh ngẫu hứng đầy màu sắc, vô tình lại trở thành một tấm “phông” ngộ nghĩnh. Tôi kéo tay Thịnh và Dũng dừng lại trong giây lát để tận hưởng âm thanh từ bàn tay bé bỏng kia. Có lẽ thấy chúng tôi nhìn và lắng nghe một cách say sưa nên giây lát sau, trong lúc đang kéo đàn, em liếc mắt tròn xoe và nở một nụ cười như thầm cám ơn. Ánh mắt ấy ám ảnh không nguôi. Thế đấy! Có những lúc trên cõi trần này, ta đi thênh thang vô tận đến cùng trời cuối đất, để rồi trong một giây bất chợt ta lại gặp một hình bóng xa lạ. Thoáng gặp nhưng lại nhớ. Và từ đó, chẳng bao giờ ta có thể gặp lại một lần nữa. Chẳng bao giờ.

Nghe xong bản hòa tấu, đặt vào đó vài đồng cent, chúng tôi lại bước đi. Trong khi chân đã bước, tôi ngoái lại vẫn thấy em dìu dặt từng âm thanh trong vắt. Trên vòm trời đang lấp lánh những ánh sáng. Một thứ ánh sáng nhợt nhạt không rõ sắc màu.

Đi tiếp một đoạn nữa, cũng ở một góc đèn vàng chúng tôi lại gặp hai chàng thanh niên đang chơi guitare một cách say sưa, không cần biết có ai dừng lại để thưởng thức hay không? Mồ hôi chảy dài trên gương mặt thư sinh đã sạm sương gió. Chẳng cần. Họ cứ chơi như một nhu cầu tự thân. Ai dám bảo cô bé kia, chàng trai này không phải là nghệ sĩ? Họ là nghệ sĩ của đường phố. Đường phố cần có những hiệp sĩ để săn bắt cướp, nhưng cũng cần có những nghệ sĩ để ru hồn người lắng lại trong tốc độ mưu sinh ngày một chóng mặt. Các nghệ sĩ ấy không trơ trẽn mở miệng van xin lòng thương hại của bất cứ ai, nhưng ai đồng cảm cứ ném vào trong cái mũ đang đặt dưới đất vài xu lẻ. Thế thôi.

Những nghệ sĩ này, tôi đã gặp nhiều ở quảng trường DAM. Có thể là một chàng trai vừa đánh trống vừa hát cuồng nhiệt như đang biểu diễn trước đám đông cả hàng ngàn người, nhưng không, lúc ấy chỉ dăm ba người hờ hững bước qua; có thể đó là một người đàn ông mặc áo giáp sơn màu sặc sỡ, tay cầm kiếm gỗ đứng bên cạnh người đàn bà hóa trang thành một công nương. Trông buồn cười như họ vừa bước ra từ hài kịch của Shakespeare. Nếu du khách muốn chụp ảnh lưu niệm với họ, cứ việc ném dưới chân họ vài xu. Và đêm nay, trước mắt tôi là một nghệ sĩ đang thổi lửa và nhảy múa cuồng nhiệt. Đời cũng vui. Tất cả chỉ là những trò chơi, chơi khi bóng đêm sụp xuống để ngày mai, mặt trời lên lại tất bật với công việc.

“Uống đi thôi!” Thịnh mời. Những cái ly thủy tinh lại nâng lên chạm vào nhau. Uống xong một ngụm bia và liếm môi bởi những bọt bia trắng xóa, ấy là lúc tôi bắt đâu ngã người ra sau ghế, nhắm mắt và lơ mơ với thơ. Bài thơ viết tặng Thịnh đã hoàn thành trong giây phút này, cũng là vần điệu khép lại những trang ghi chép trong một chuyến đi ngắn ngủi:

Uống bia ở Amsterdam

Nắng khuya lững thững bóng vàng nhẹ tênh

Vuốt ve từng ngọn cỏ mềm

Chạm giọt sương đã ngủ quên ban chiều

Đường về chân bước liêu xiêu

Sông xanh soi bóng dập dìu gió thơm

Sắc màu Van Gogh chập chờn

Bông hoa tulip cô đơn đứng chờ

Đêm nay tôi ngủ và mơ

Phố phường thân mật ngẩn ngơ đường về

Về thôi. Tôi vùi sâu trong giấc ngủ yên lành bởi quanh tôi đang có những tiếng chuông nhà thờ vọng đến như vỗ về, như chúc tụng ngày vui đã qua mau...

LÊ MINH QUỐC

(Amsterdam-Sài Gòn 7.2005)


 

LỜI BẠT

Lê Minh Quốc là một người rất hay đi. “Khi tôi lớn thèm đôi chân của biển’. Thơ Quốc đấy. Tuổi thơ Quốc lang thang khắp Đà Nẵng và miền Trung. Đất nước thống nhất, 15 tuổi ra Hà Nội. 18 tuổi đi lính. Nửa năm sau lên Tây Nguyên. 19 tuổi ra biên giới Tây Nam. 20 tuổi sang Kampuchia. Năm năm sau vào Thành phố Hồ Chí Minh học tại Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp. Luận văn tốt nghiệp của Quốc viết về hình ảnh Con thuyền trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.

Tôi cứ hình dung Quốc như một người lúc nào cũng đang vận động trên đường. Anh chàng này đi đến đâu cũng gây lên tiếng vang ở nơi đó. Hình như anh ta có tướng tinh con ngựa, cổ đeo một chiếc lục lạc rõ kêu. Nghệ sỹ là những nguời mua vui cho thiên hạ mà.

Đây là tập bút ký - du ký của Lê Minh Quốc khi lần đầu tiên được đến thăm đất nước Hà Lan. Tuy là lần đầu sang nhưng dường như tâm hồn anh đã đến đất nước này, đến châu Âu từ ngàn vạn ngày trước đó rồi. Bạn đọc sẽ dễ chịu và thích thú khi được thưởng thức lối viết giàu hình ảnh của một tâm hồn khoáng đạt và phong phú. Những liên tưởng tự nhiên và bất ngờ dưới cái nhìn của một thi sĩ có trái tim trẻ trung đã làm cho cuốn sách thêm duyên dáng, nhiều nhan sắc. Cấu trúc cuốn sách thanh thoát, nhẹ nhàng và mực thước, vừa tầm quan sát sau một chuyến đi, vừa tầm khiêm nhường của một người ưa xê dịch và cũng đủ thời gian nghe chuyện của một bạn đọc bình thường.

Tập bút ký được viết trong tâm trạng đang yêu nên nói nhiều về hoa và hương thơm nhân ái. Hoa vốn đã đẹp. Sữa vốn đã thơm. Quốc không tìm cách đưa cái đẹp vào cái vốn đã đẹp, đưa hương thơm vào cái vốn đã thơm. Những trang sách này là kết tinh của Tình cảm - Thiên nhiên - Sự sống. Tất cả hòa quyện vào nhau như Nước - Cát - Nắng vàng.

Và có thể còn hơn thế nữa.

Đọc tập sách này bạn sẽ tin điều đó.

Nhà thơ, Nhà biên kịch ĐOÀN TUẤN

(Hà Nội, tháng 8.2005)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com