THỂ LOẠI KHÁC Biên Khảo LÊ MINH QUỐC: NHÀ VĂN HỌC VĂN - Bài 2: Tú Mỡ - học văn từ Tú Xương đến dân gian

LÊ MINH QUỐC: NHÀ VĂN HỌC VĂN - Bài 2: Tú Mỡ - học văn từ Tú Xương đến dân gian

Mục lục
LÊ MINH QUỐC: NHÀ VĂN HỌC VĂN
BÀI 1: Phan Khôi - cuộc tìm về tiếng Việt
Bài 2: Tú Mỡ - học văn từ Tú Xương đến dân gian
BÀI 3: Nguyễn Công Hoan - mải mê học tiếng Việt
Tất cả các trang

 

Bài 2: Tú Mỡ - học văn từ Tú Xương đến dân gian

 

“Võ vẽ hay làm văn quốc ngữ/ Xì xồ ít nói tiếng Âu tây/ Bạn mà bàn đến thi cùng cử/ Thời vội van luôn: Tớ lạy mày/ Bởi tính ngang phè như chánh bứa/ Già đời chẳng được cái mề đay”. Năm 25 tuổi, nhà thơ Tú Mỡ (1900-1976) đã tự trào và sau này tính cách ấy vẫn như thế, tức là ở một thi sĩ trào phúng vào bậc nhất của nền thi ca Việt Nam hiện đại dù ở độ tuổi nào cũng vui nhộn, lạc quan, tếu táo.
 

Năm 14 tuổi, Tú Mỡ đậu đầu bằng Sơ học Pháp - Việt, vào học tại Trường Bưởi (nay Trường Chu Văn An - Hà Nội). Câu “Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” rất đúng với cậu học trò tinh nghịch, ranh mãnh này. Trong lớp có hai anh bạn học giỏi môn Văn và thường làm thơ xướng họa nghiêm túc, đúng niêm luật là Hoàng Ngọc Phách (về sau nổi danh với tiểu thuyết Tố Tâm) và Nguyễn Pho. Thấy đôi bạn này lúc nào cũng nghiêm nghị, đạo mạo như ông cụ non, thế là Tú Mỡ cùng bạn thân là Quế trêu chọc bằng cách cũng làm thơ. Nhưng những bài thơ ấy chỉ “ngâm vịnh” những đề tài như… cái chuông điện, ông giám thị v.v… với lời lẽ hết sức bắng nhắng, bông đùa, hoàn toàn trái ngược với đề tài cổ điển về mây núi, trăng hoa, tuyết nguyệt… Chẳng hạn, bài thơ yết hậu Vịnh giám thị: “Bọn sú ba giăng có một anh/ Mặt sùi da cóc, rắn như sành/ - Đố ai, ai biết là ai đó? / Quỳnh”.
 

Thế rồi, dăm năm sau, Tú Mỡ bắt đầu “để ý” đến một cô gái ở Hàng Bông. Không lẽ, “tỏ tình” bằng những vần thơ nghịch ngợm như trước à? Thế là ông bèn chuyển sang làm thơ tình, làm hẳn một tập Câu cười tiếng khóc - lấy từ câu thơ Cuộc nhân thế câu cười tiếng khóc của Tản Đà, với lời lẽ rất sáo! Chẳng hạn, “Sáu khắc mơ màng tình bạn ngọc/ Năm canh tưởng nhớ bóng người vàng/ Ruột tằm chín khúc vò tơ rối/ Giấc mộng năm canh diễn khắc trường”.
 

Tập thơ này Tú Mỡ đưa cho đôi bạn Hoàng Ngọc Phách và Nguyễn Pho “nhuận sắc”. Cả hai đọc xong đều… thương hại và khuyên nên đọc Truyện Kiều để học hỏi thêm. Thay vì làm theo lời khuyên, Tú Mỡ quay sang học thuộc tất cả thơ của Tú Xương. Có lẽ những vần thơ trào phúng mới phù hợp với tính bông đùa, nghịch ngợm của Tú Mỡ. Về sau khi đã nổi tiếng, không ngần ngại nhận mình là học trò của Tú Xương, ông còn ký bút danh Tú Mỡ như một cách biết ơn thầy.
 

Năm 18 tuổi, ông thi đậu Thành chung và xin được làm chân thư ký trong Sở Tài chánh, chung phòng với Nam Sơn (về sau trở thành danh họa). Trong hồi ký, Tú Mỡ cho biết: “Lúc này, tôi quyết tâm học làm thơ. Trước hết tôi mua quyển Hán Việt văn khảo để nghiên cứu các thể thơ, ca, từ, phú rồi mua những tập thơ của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Yên Đỗ, Tản Đà, Trần Tuấn Khải, những tác phẩm mà tôi thích đọc nhất”. Sau 2 năm đi làm và nghiên cứu như thế, những cảnh trái tai gai mắt lại đánh thức… máu hài hước trong con người Tú Mỡ. Bài thơ bông phèn đầu tiên của ông là Bốn cái mong của thầy phán được Việt Nam thanh niên tạp chí chọn in: “Mong tháng chóng qua, tiền chóng lĩnh/ Mong giờ mau hết, việc mau xong/ Mề đây mong được dăm bảy chiếc/ Lương bổng mong tăng sáu bảy đồng”…
 

Tưởng rằng  chỉ làm chơi cho đỡ buồn thôi. Nào ngờ, thời gian này có một “lính mới” vào sở là Nguyễn Tường Tam (tức nhà văn Nhất Linh nổi tiếng sau này). Trong lần trò chuyện, ông Tam nói đến câu rất… kinh điển: “Nước trong ta giặt giải mũ, nước đục ta rửa chân” thì Tú Mỡ “đế” luôn: “nước đá cho vào bia ta uống”. Thế là mọi người cười ồ lên, ông Tam cũng cười và vỗ vai nói: “Khá đấy, anh nên làm thơ hài hước đi, anh có năng khiếu về trào phúng đấy”.
 

Không chỉ một câu nói, sau này khi thành lập Tự Lực văn đoàn và ra báo Phong Hóa, Ngày Nay chính Nguyễn Tường Tam đã phân công Tú Mỡ “chuyên trị” về trào phúng cho chuyên mục Giòng nước ngược và cũng chính là người “đánh dấu bước đầu trong sự nghiệp làm thơ của tôi, từ một thư sinh chỉ làm thơ phiếm sau trở thành nhà thơ trào phúng thực thụ… Tôi có thể nói anh Tam là người tạo ra Tú Mỡ vậy”, ông cho biết.
 

Nhưng đó là là chuyện về sau, còn lúc bấy giờ, cùng các đồng nghiệp trong Sở Tài chính vì yêu văn chương mà lập ra hội Tao Đàn. Tú Mỡ có nhiệm vụ làm thư ký, ghi chép lại những sáng tác này thành tập thơ Ngọn bút làng ta. Trong đó có bài Phú thầy phán của Tú Mỡ, Nguyễn Tường Tam đem gửi cho Nam phong tạp chí và ghi… vô danh! Sau khi in mọi người đều nhầm tưởng là thơ Tú Xương. Nhất là những câu: “Lỡ buổi đi trưa, nhìn trước nhìn sau lấm lét, rụt rè như rắn ráo mồng năm/ Lỡ khi lầm lỗi, đứng lên ngồi xuống băn khoăn, ủ rũ như diều hâu tháng chạp” v.v…
 

Để trở thành một người có thể đi xa trong sự nghiệp cầm bút, ban đầu có thể nhờ thiên phú, năng khiếu nhưng về lâu dài thì cần phải học. Nhà thơ Xuân Diệu viết hẳn tập sách Công việc làm thơ - nhằm nói lên cái sự học, nhọc công khổ luyện với chữ nghĩa. Ở Tú Mỡ cũng vậy. Ông cho biết đã học tập rất nhiều ở lối chơi chữ lắt léo của Hồ Xuân Hương; lối châm biếm sâu cay, chua chát như ngọn roi quất vào mặt bọn rởm đời của Tú Xương; lối cười thanh cao, xỏ ngầm của Yên Đỗ; lối mỉa mai, giễu đời mà đời không giận được của Tản Đà. Bên cạnh đó, ông còn học tập ở Voltaire, La Bruyère, René Buzelin, La Fontaine…
 

Mà nào chỉ có thế, ông cho biết còn học cách nói từ dân gian: “Người nước Nam mình, nhất là các bà ở nông thôn, gặp bất cứ việc gì, là các bà nghĩ ngay bằng ca dao, tục ngữ, bằng lối pha trò của phường chèo, bằng truyện tiếu lâm, hoặc ví von  bằng các nhân vật truyện dân gian, bằng câu Truyện Kiều. Cho nên muốn làm thơ, tôi cho việc đệ nhất cần là phải học cho thuộc ngôn ngữ dân tộc và văn học dân gian”. Để rồi “nhờ đó mà những bài thơ tôi viết, tập trung thành tập, đã có nhiều màu sắc, nhiều hình thái, nhiều lối, nhiệu điệu đáp ứng được sở thích của các tầng lớp người đọc”.
 

Thì ra, bên cạnh năng khiếu bẩm sinh, nhà thơ còn phải học tập nhiều lắm đấy chứ? Với Tú Mỡ có lẽ còn phải nhấn mạnh đến vai trò của người đã có “mắt xanh” phát hiện ra sở trường của ông, đó chính là vị chủ soái của Tự Lực văn đoàn. Vì lẽ đó, tập thơ đầu tay Giòng nước ngược của Tú Mỡ có bốn câu đề tặng: “Ít lời lẽ ngang phè/ Mấy vần thơ lỗ mỗ/ Tặng anh Nguyễn Tường Tam/ Đáp tấm ơn tri ngộ”.

L.M.Q

(nguồn: Báo Phụ Nữ TP.HCM ngày 14.11.2018)



Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com