THỂ LOẠI KHÁC Biên Khảo LÊ MINH QUỐC: Thêm một tư liệu về Lục Vân Tiên

LÊ MINH QUỐC: Thêm một tư liệu về Lục Vân Tiên

Năm thứ hai ở Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Tổng hợp, chúng tôi đi sưu tập văn học dân gian ở An Giang. Sau chuyến đi đó, tôi viết Ghi chép ở Cốc Đá Nổi và đăng trên báo Văn Nghệ TP.HCM. Nay đọc lại vẫn còn thấy hữu ích, vì thế tôi post lại đổi tựa cho phù hợp với nội dung bài viết hơn. Nhân đây tôi cũng post luôn bìa tập Kỷ yếu Lễ kỷ niệm Nguyễn Đình Chiểu tại miền Nam. Tài liệu quý này tôi đang lưu giữ, nếu điều kiện tôi sẽ trình bày rõ về nội dung của tập Kỷ yếu.

1340190971

 

Theo sự hiểu biết của tôi, Lễ kỷ niệm Nguyễn Đình Chiểu trước nhất có lẽ là chương trình do Hội Khuyến học Nam kỳ tổ chức vào ngày chủ nhật 27.6.1943 với nhiều hoạt động phong phú. Chẳng hạn, ngoài phần nghi lễ còn có biểu diễn tuồng Nguyệt Nga cống Hồ tại Nhà hát lớn Sài Gòn do nhà văn Hồ Biểu Chánh soạn, nghệ sĩ Nam Phỉ thủ vai chính…

Nhờ có tập Kỷ yếu Lễ kỷ niệm Nguyễn Đình Chiểu in năm 1971 tại miền Nam, chúng ta được biết, chương trình  lần này quy mô lớn hơn nhiều - “nhằm làm sống lại hình ảnh hào hùng của một văn tài lỗi lạc, một nhà đại đức đáng kính, một bậc chí sĩ đầy khí phách” kéo dài từ ngày 11.7.1971 đến ngày 19.7.1971. Mở đầu là cuộc viếng mộ cụ Nguyễn Đình Chiểu tại Ba Tri (Bến Tre) - trong đoàn có nhà văn Sơn Nam, nhà thơ Mộng Tuyết, Kiên Giang, nghệ sĩ Năm Châu v.v…; ngày 16.7.1971, GS Nguyễn Duy Cần thuyết trình Con người toàn diện Nguyễn Đình Chiểu tại Đại học Văn khoa Sài Gòn; tại Trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn diễn tuồng hát bội Lục vân Tiên do nhà nghiên cứu Đỗ Văn Rỡ soạn v.v…

Được biết chương trình này được thực hiện ở miền Nam là nhằm kỷ niệm 150 năm ngày sinh của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, tính theo tuổi ta.

Còn tại miền Bắc lại tổ chức vào tháng 6.1972. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nêu rõ: “Thông qua kỷ niệm lần này, cần động viên học tập và phát huy tinh thần yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, củng cố lòng tin sắt đá vào tiền đồ của Tổ quốc, nâng cao ý chí chiến đấu, bảo vệ và tăng cường miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ra sức chi viện tiền tuyến lớn đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Dịp này Viện Văn học có xuất bản tập sách Nguyễn Đình Chiểu - tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật, dày 670 trang.

Và sau đây là những gì tôi ghi chép ở Cốc Đá Nổi liên quan đến Cụ Đồ Chiểu và tác phẩm Lục Vân Tiên.

 

Cốc Đá Nổi hiện nay nằm trên dòng kênh 20 thuộc ấp Bình An, xã Bình Phú, huyện Châu Phú (An Giang). Truyền thuyết kể lại rằng: Vào khoảng đầu thế kỷ những người yêu nước hoạt động trên núi Cấm bị Pháp khủng bố phải tránh về một gò đất gần mương bà Phán Nhơn. Trong một đêm tối trời giông bão dữ dội, ông Bảy, một người trong nhóm nghĩa quân đã nằm mơ thấy ông Bụt hiện ra bảo đào sâu xuống chỗ gò ông nằm thì sẽ thấy báu vật. Sáng dậy, ông Bảy mang những điều đã nghe được trong mơ thì thấy dưới ấy có đủ cột, kèo, gạch ngói và chén bát quý… Tất cả  những thứ ấy đủ để xây dựng một ngôi chùa. Sau đó một ngôi chùa được dựng lên, tức chùa Trung Sơn Tự ngày nay. Và gò đất ấy đổi tên là Cốc Đá Nổi. Xem như gò đất này nổi lên giữa dòng kênh như một sự thiêng liêng, huyền bí…

Tôi được nghe bà Bảy Từ, năm nay 75 tuổi, ở cùi cụi một mình lo nhang khói cho chùa Trung Sơn Tự kể lại chuyện đó. Theo bà, người ta thêu dệt câu chuyện này thêm phần huyền bí cũng không ngoài lôi kéo, quy tụ nhân dân ở vùng này đứng lên về phía nghĩa quân chống Pháp. Đó cũng là một trong những biện pháp tuyên truyền chính trị thời bấy giờ. Từ nhà anh Tư Hây, trưởng ấp Bình An, chèo xuồng cui đến Cốc Đá Nổi phải mất hơn một tiếng đồng hồ. Trong lúc ngồi nghỉ mệt, tôi nhờ bà Bảy Từ hò lại một số câu hò mà bà còn nhớ từ thời son trẻ để tôi ghi chép. Trong hàng trăm câu ca dao, dân ca mà tôi ghi được trên vùng sông nước này - tôi đặc biệt chú ý đến câu hò câu hát có liên quan đến tác phẩm Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu (1822-1888). Thật vậy, sức mạnh của truyện thơ Lục Vân Tiên có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống nhân dân Nam bộ như chúng ta đã biết.

Để làm quà cho bạn đọc của báo Văn Nghệ TPHCM, tôi xin trích gửi đến những câu hò, câu hát chưa được phổ biến, in ấn trên báo chí - nhằm cung cấp thêm một ít tư liệu chung quanh ảnh hưởng của truyện thơ Lục Vân Tiên:

Huyền Trang Tam Tạng tu cần

Tám mươi mốt nạn mà không lụy mình

Trịnh Hâm là đứa bạc tình

Thời sau mắc nạn thiên đình xử phân

Vân Tiên mắc nạn mấy lần

Thời sau Người được ấn rồng trị dân

Nguyệt Nga trinh tiết liều thân

Gian nan xá kể gai chông đã nhiều

Bà Bảy Từ còn hò ở một đoạn khác:

Nói cho thiên hạ xét soi

Vân Tiên nào phải con nòi đế vương

Bởi chưng tâm tánh hiền lương

Thấu đến thiên đình trời phật mến thương

Cho chàng kế vị Sở Vương

Trịnh Hâm là đứa bất lương ra gì!

Phải chăng, những câu hò câu hát ấy đã có nhuốm màu sắc tôn giáo? Điều này cũng dễ hiểu, giáo sư Trần Văn Giàu đi tìm “Mấy đặc tính nông dân đồng bằng sông Cửu Long - Đồng Nai” đã phát hiện ra rằng: “Trong thời kỳ thuộc Pháp, xuất hiện hai nhân tố lịch sử đã ảnh hưởng lớn tính chất của nông dân Nam bộ: Cách mạng và Tôn giáo, hai nhân tố đó tác động không ngừng" và “cả hai đều ráo riết tuyên truyền và cả hai đều ảnh hưởng sâu sắc đến tâm trí dân làng”. Tôi nghĩ, nó phản ánh được quan niệm “ở hiền gặp lành” trong đời sống tinh thần của nhân dân Nam bộ, họ căm ghét kẻ độc ác bạc nghĩa, bạc tình như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm… Họ yêu mến người có nhân có nghĩa như Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga…

Hiu hiu gió thổi vườn đào

Gặp người có nghĩa tui muốn chào làm quen

Hoặc đằm thắm nhưng không kém phần mãnh liệt:

Tôi đây họ Lục Vân Tiên

Cả kêu người nghĩa bên chiếc tiểu thuyền

Khoan khoan bớt mái

Đợi tui kết nguyền gá nghĩa lương duyên

Và quần chúng đã mượn những nhân vật mà mình yêu ghét rạch ròi trong truyện thơ Lục Vân Tiên để nói lên điều đó. Rõ ràng những nhân vật như Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga, đã đi vào trong máu thịt của họ. Sau đây tôi ghi trọn vẹn một bài hát mà ông Trần Văn Học - năm nay 70 tuổi, ở ấp Bình Quới, xã Bình Phú, còn nhớ được. Một bài hát từng được phổ biến sâu rộng ở Nam bộ trong những năm 20 của thế kỷ này. Người hát không biết tên tác giả. Tôi nêu lên đây, mong được sự chỉ bảo của những bậc học sâu, hiểu rộng biết tường tận xuất xứ, thể loại, tác giả… của bài hát này - nhằm tìm hiểu thêm sức mạnh của truyện thơ Lục Vân Tiên:

Người tiên cô phụ, người tiên không vợ

Gái vô phu, tố nữ không chồng

Phạm Công xưa cũng có lòng

Vai mang bức tượng vốn trông nước nhà

Đời xưa có chị Nguyệt Nga

Vân Tiên mắc nạn đã ba năm trời

Tiểu Đồng vốn thiệt người ngay

Nằm lăn mà khóc ngày ngày khổ lao

Cơm không ăn thì đói miệng không nói thì câm

Có ông tiểu chánh thần hoàng

Làm trai như ai, làm trai như chàng giống bực trượng phu

Làm gái hiền thê như thiếp - đại trượng phu kết nguyền

Cùng ra Cốc Đá Nổi với tôi còn có ông Tư Dện - năm nay đã 65 tuổi (hiện ở ấp Bình Thới) còn khỏe mạnh và trí nhớ tốt. Và qua ông Tư Dện, tôi được biết: Thời xưa ở Nam Bộ, ngoài nghệ thuật hát thơ Lục Vân Tiên theo bộ và không theo bộ - còn có nghệ thuật hát thơ rơi theo điệu Vân Tiên. Đó là những bài thơ viết theo thể song thất. Những bài thơ này phần nhiều do lớp người hay chữ sáng tác ra, nội dung là tâm sự nhớ nhung, hẹn hò thề non hẹn biển của trai gái gửi cho nhau. Nhưng cũng có khi là tâm sự của những người xa xứ gửi cho người thân của mình (như bài Xứ Trà Lơn…). Loại thơ rơi này cũng được những người xẩm ở bến phà, bến xe hát cùng truyện thơ như thơ thầy Thông Chánh, thơ Sáu Trọng, Sáu Nhỏ, v.v… Ông Tư Dện cũng như bất cứ ai muốn học thuộc phải cho người xẩm 2 cắc để họ dạy lại. Tôi xin trích một đoạn thơ rơi có liên quan đến truyện Lục Vân Tiên để bạn đọc thưởng thức:

Chiều trời mát ngợi khoanh tay ngọc

Gió hiu hiu nhớ tới bạn vàng

Đêm năm canh trong dạ bồi hồi

Ngày sáu khắc không nguôi dạ ngọc

Đó em noi cô Nguyệt Nga mà học

Họa tượng chồng thờ Lục Vân Tiên

Nào hay đâu cống xứ qua Phiên

Nhảy xuống sông xa vời hồn phách

Lòng dặn lòng xin em chí mực

Em đừng thương đó bỏ đăng

Tiếc cuộc đời như thể bóng trăng

Khi tỏ rạng đến ngày lại khuyết

Những điều ghi chép ở Cốc Đá Nổi có lẽ cũng cung cấp cho chúng ta thêm đôi điều về nguồn cảm hứng từ truyện thơ Lục Vân Tiên đã ảnh hưởng trong đời sống tinh thần của nhân dân Nam bộ.

LÊ MINH QUỐC

(TP. HCM 10.1986)

(nguồn: báo Văn nghệ TP.HCM số 19.12.1986)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com