Báo TRUNG BẮC CHỦ NHẬT (số TẾT 1941)

Mục lục
Báo TRUNG BẮC CHỦ NHẬT (số TẾT 1941)
* HÃY CAN ĐẢM MÀ BƯỚC SANG NĂM MỚI
* TÍNH SỔ KẾT TOÁN CANH THÌN
* Ngày xuân (VŨ BẰNG)
* Năm Tân Tỵ sẽ đem cho ta những gì?
* NĂM MỚI CHÚNG TÔI XEM CHIẾT TỰ Bốn ông chủ báo hàng ngày
* Nàng mai
* Đảo phi hoa
* Ba vợ chồng táo quân
* Thiếu một cây nêu
* NHỮNG PHONG TỤC LẠ trong ba ngày Tết ở khắp trong nước
* TẾT TÂY Ở TA
* TẾT TA DƯỚI TRỜI MỸ
* TẾT Ở LÀO
* BA CHUYỆN LẠY MỪNG TUỔI LẠ ĐỜI
* Ba mươi Tết của trâu bò gà lợn
* LÀM CÂU ĐỐI ĐỂ CHƠI CHÙA
Những ngày đầu tiên một năm vô duyên (NGUYỄN TUÂN)
* Ý xuân (trích “NGƯỜI MẸ” nữ sĩ Pearl S.Buck)
* Ngày Tết ở Nhật
* THƠ TẾT
* NGHỆ THUẬT ĂN TẾT - đồng bào ba kỳ ăn Tết ra sao ?
* Thơ mán Vẩn-bao
* NGHỆ THUẬT CHƠI TẾT
* Nụ cười đầu xuân
* ĐẦU NĂM XIN THẺ
* CHƠI BÀI
* Các quảng cáo
Tất cả các trang

 

Hơn mười năm trước, lúc tòa soạn Báo PN còn ở 188 Lý Chính Thắng, có một nhóm bạn sinh viên Khoa Báo chí trường Khoa học Xã hội - Nhân văn đến gặp tôi. Các bạn có nhờ tôi xem qua công trình khảo sát một số báo, tạp chí trước 1945 do các bạn thực hiện. Qua trao đổi, hầu như tôi không góp ý gì nhiều, chỉ hướng dẫn một vài chi tiết trong đề cương để các bạn tiếp tục làm tốt nhất công việc khó khăn này. Không rõ sau đó, công trình về báo chí Việt Nam của các bạn đã đến đâu?

 

images847837_DSCF9244


Chiều nay, sắp xếp lại tài liệu, tôi tình cờ tìm lại được. Đọc kỹ, thấy hữu ích nên công bố cho mọi người tham khảo. Xin cám ơn các bạn sinh viên đã tin cậy trao tôi tài liệu này. Và tôi sẽ post lần lượt dần, không biên tập gì thêm. Tất nhiên, người đọc có thể trao đổi thêm điều này điều kia, nhưng giá trị ở đây là các bạn đã tiếp xúc tư liệu gốc nên rất đáng tin cậy. Thiết nghĩ, việc làm đáng khâm phục của các bạn sinh viên có thể giúp ích cho nhiều người - nhất là những ai quan tâm đến sự hình thành và phát triển của nền báo chí nước nhà.

Cẩn chí,

L.M.Q

Báo TRUNG BẮC CHỦ NHẬT (số TẾT 1941)
Phụ-trương đặc-biệt của báo Trung-bắc Tân-văn
Thứ tư 22-1-1941
Giá mỗi tập 0$50


HÃY CAN ĐẢM MÀ BƯỚC SANG NĂM MỚI


Từ thâm tâm, chúng tôi xin chúc các bạn đọc một năm mới hoàn toàn tốt đẹp
Xuốt một năm vừa qua đây, các bạn đã yêu mến báo này. Thư từ gửi về khen đã chứng tỏ chúng tôi đến vừa kịp lúc. Chúng tôi đã là một người bạn tin cẩn được, một người bạn đỡ đần được của các bạn khi sầu muộn, cũng như khi vui vẻ.

Chúng tôi tin ở sự ... của lời mừng. Vậy nên không bao giờ we không cảm động khi chúc mừng ai điều gì. Tự ở đây, chúng tôi đã thấy vẻ mặt của các bạn và we  tưởng đả được biết các bạn mong mỏi gì trong dịp đầu năm.

Vâng, bao giờ các bạn cũng thấy ngày Tết đem lại một mối hi vọng lớn. Chúng ta xây đắp những mộng tưởng rất lạc quan, chúng ta quyết định rằng tương lai sẽ đem đến cho chúng ta sự đắc thắng mà chúng ta mong mỏi.

Năm tân tỵ đến. Đến là để mang những sự mới mẻ đến cho tâm hồn chúng ta. Bất cứ ở trường hợp nào, chúng ta cũng không thất vọng. Chúng ta phải can đảm mà bước sang năm mới.

Các bạn ! các bạn dừng9 nói : “Đã đành thế, nhưng tôi sợ cuộc đời tôi, tôi thiếu can đảm thì sao ?”
Chúng tôi tin rằng ở đời này không có một người nào lại thiếu can đảm cả. can đảm ởtrong ta, bất di bất dịch, cũng như mặt trời là của trời vậy, trời có mặt trời cả ban đêm. Người ta không đem thi hành cái can đảm mà thôi đó. bảo rằng không can đảm thì bao giờ dám xuất đầu lộ diện ra.

Các bạn có biết câu chuyện người Ấn Độ đi tìm chân lý và phàn nàn với nhà hiền triết rằng không có chân lý ở đời không ? Người hiền triết không trả lời gì cả. sấy đến giờ mà cả người Ấn Độ và nhà hiền triết cùng đi tắm ở giòng con sông nọ. Nhà hiền triết nắm cổ người Ấn Độ và dìm anh ta xuống nước kỳ cho đến lúc anh ta vùng vẫy và nhoi được lên mặt nước. Nhà hiền triết bàn rằng:

Thôi đừng nói dài lời nữa. Anh đã biết rằng anh tốn nhiều hơi sức lắm mới ngoi lên mặt nước. Nếu anh cũng dùng ngần ấy sức để tìm chân lý thì anh phải tìm được. Khốn nhưng anh lại lưới nhác và không có lòng sốt sắng.

Ấy đó ! Một số đông chúng ta đã ước muốn hạnh phúc như vậy đó. lắm khi một chuyện rất nhỏ mọn vu vơ cũng làm chúng ta quên hẳn nó và đưa chúng ta đi lầm đường...

Chúng tôi xin chúc các bạn có can đảm là vì vậy. Can đảm nhìn thẳng vào cuộc đời, can đảm mà sống, can đảm mà làm việc.

Chúng tôi xin chúc các bạn được vui vẻ.

Chúng tôi xin chúc các bạn luôn luôn tin chắc ở lý tưởng của ta, tin chắc ở hạnh phúc của nhà và của nước.

Mùa xuân năm Tân-Tỵ.
Nguyễn Doãn Vượng.


TÍNH SỔ KẾT TOÁN CANH THÌN

Một năm chiến tranh tàn khốc nhất cho nhân-loại

Theo lệ thường cứ hết một năm, chúng ta lại phải ôn lại những chuyện trọng đại đã xảy ra trong năm ấy. Năm Canh Thìn (1940) vừa qua thực đã để lại cho chúng ta biết baóac mộng. Với những ngày xuân vui vẻ, tươi thắm trở lại đây, ta nhớ lại vẫn còn phải hồi hộp, rúng mình. Ta có thể nói rằng năm “Canh Thìn” là năm mà cuộc chiến tranh đã lan rộng hầu khắp thế giới, từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam, từ miền Phần-lan gần Bắc cực cho đến miền Đông Phi gần xích đạo.

Cũng như mọi năm, năm nay hãng “United Press” lại lựa lấy mười chuyện mà hãng ấy cho là quan hệ nhất trong thế giới. CHuyện thứ nhất là việc ông Roosevelt được bàu lại làm Tổng-thống lần thứ ba - Chuyện thứ hai là cuộc chiến tranh ở nước Anh - Thứ ba là cuộc thất-bại của nước Pháp và vụ đánh phá hạm đội Pháp ở Oran - Thứ tư là những phương-pháp phòng thủ của Tây-bán-cầu - Thứ năm là việc Đức chiếm Nauy, Đan-mạch, Hà-lan, Bỉ - Thứ sáu là trục Bá-linh-La-mã nối thêm đến Đông-kinh và việc mở mang thế lực của Nhật-bản về phía Nam - Thứ bảy là cuộc chiến tranh giữa Ý và Hi-lạp, thứ tám là cuộc tấn côngbằng ngoại giao ở miền Ba-nhĩ-cán - Thứ chín là việc Ý-đại-lợi tham-dự vào Âu-chiến và thứ mười là sự bí mật của Nga-Sô-viết đã ảnh hưởng đến việc mở mang của Nhật ở Viễn-đông thế nào và chương trình của Đức ở Âu-châu và miền Ba nhĩ-cán.

Cách sắp hạng những việc trọng đại trên này là theo óc của người Mỹ họ cho việc bàu cử Tổng-thống Hoa-kỳ là quan hệ nhất trong các việc trọng đại kể trên đây, nhưng theo óc của người Việt Nam chúng ta thì lại khác hẳn : việc quan hệ thứ nhất trong năm 1940 vừa qua ai cũng phải công nhận là cuộc chiến tranh trên đất Pháp rồi đến việc Nhật dự vào hợp-ước Bá-linh được Đức, Ý công nhận cho quyền chủ trương trong việc lập trật tự mới ở Á-đông.

Nhưng việc xẩy ra trên trường quốc tế.

Dưới đây chúng tôi xin ôn lại những việc đã xảy ra trên trường quốc tế theo thứ tự về ngày tháng.

Năm Canh Thìn đã bắt đầu giữa lúc hai quân Nga và Phần-lan đang đánh nhau rất dữ dội trên các bể tuyết ở gần Bắc-cực. Quân Phần tuy thắng nhưng cuối cùng : nagỳ 12 Mars đã phải ký hoà ước với Nga, nhượng cả miền Carélie và nhiều đất ở phía Bắc cho Nga nữa.

Ở Viễn đông, năm “Canh Thìn” đã bắt đầu bằng cuộc ném bom trên đường xe-lửa Vân-nam (Hai-phong – Vân-nam-phủ) vào ngày 1er Février. Ở mặt trận Tây-Âu, năm 1940 đã bắt đầu trong sự yên lặng, uể oải. Quân Anh, Pháp và quân Đức chỉ câm cự nhau ở trên đường cương-giới Pháp-Đức và một đôi khi lại bắn thí nhau một cách dữ dội.

Cuộc hoạt-động đầu năm không phải là sự hoạt-động ở ngoài mặt trận mà là cuộc hoạt-động trên trường ngoại-giao. Tháng Mars vừa bắt đầu thì ta thấy hai nhà độc-tài Hitler và Mussolini gặp nhau ở đèo brenner. Ngày 20 Mars Nội-các Daladier từ chức và ông Paul Reynaud được cử lên tổ-chức một nội các chiến-tranh mà các báo ở Pháp cho là giống hệt với Nộ-các Clémenceau hồi Âu-chiến trước.

Ta phải đợi đến 8 Avril mới thấy xảy ra việc quan trọng ở phía Tây-Bắc Âu-châu: đó là việc quân Đa71c đã đột ngột đem quân xâm lấn hai nước Đan Mạch và Na uy và chỉ sau một ngày đã chiếm được cả xứ Đan-mạch và nhiều nơi trọng yếu ở Na-uy, cuộc can thiệp, của quân đồng-minh Anh, Pháp trên đất Na-uy gặp rất nhiều sự khó khăn nên cuối cùng, các đội quân Anh, Pháp lại phải xuống tàu về Anh.

10 Mai, một ngày quan hệ đáng ghi vào lịch-sử thế-giới

Ngày 10 Mai, Tổng-thống Hitler ra lệnh cho các sư-đoàn cơ giới hoá và bộ binh cùng các đội phi cơ rất mạnh đồng thời tiến công ở mặt trận Tây-âu sang hà-lan, Bỉ và Lục-xuâm-bảo.
Chỉ trong 4 hôm quân Đức chiếm được quá nửa ba xứ đó và quân hà-Lan đã phải đình chỉ cuộc kháng-chiến... tướng kiêm ngoại-giao Nga Molotov sang Bá-linh hội-kiến với Hitler, Ribbentrop.
Về phía Anh, cuộc vận động về ngoại-giao cũng không kém vẻ hoạt-động nhưng mục-đích lại khác hẳn. Ở Ba-nhĩ-cán ta vẫn thấy Thổ và Hi-lạp tuy đã tuyên bố là trung lập nhưng vẫn thân thiện với Anh.
Việc giúp đỡ của Hoa-kỳ đối với Anh càng ngày càng thêm nhiều và có hiệu quả.

Tình hình Viễn-đông và Đông-dương

Tình hình Viễn-đông về năm 1940 không thay đổi mấy, đó là vì các cường-quốc lớn có quyền-lợi ở miền này đều theo thuyết giữ nguyên-trạng miền Đông-Á và Thái-bình-dương.

Phong-trào chính-trị quan-trọng nhất là phong-trào lập nền tảng chính-trị mới ở Nhật và lập nền trật-tự mới ở Á-đông để cho các nước trong miền đó đều có thể thịnh-vượng về kinh-tế và tài-chính.

Năm 1940 cuộc Trung-Nhật chiến-tranh đã bước vào năm thứ ba. Chính-phủ Tưởng-giới-Thạch vẫn kháng-chiến và người Nhật vẫn dùng hết cách về võ-lực và về ngoại giao để giải quyết cho xong vụ Trung-hoa. Trong năm 1940 ta thấy Trùng-khánh, kinh-đô tạm-thời của Trung-hoa, bị phi-cơ Nhật ném bom đánh phá hàng mấy chục lần. Ngoài ra hầu hết các thị-trấn khác của nước Tàu tự-do đều luôn luôn bị đánh phá. Nhật lại cố phong tỏa và chặn hết các đường vận tải lương-thực và chiến-cụ của Trùng-khánh. Vì thế mà ta thấy Nhật yêu-cầu với Pháp và Anh đóng cửa biên giới Đông-dương sang Tàu và đóng đường Diến-điện. Nhật đã được hài lòng lúc đầu nhưng đến Octobre thì người Anh lại bắt đầu mở đường Diến-điện nên ta thấy phi-cơ Nhật nhiều lần đánh phá con đường quốc-tế đó và ném bom vào Côn-minh là thị-trấn cuối cùng trên đường đó.

Cuộc giao-thiệp giữa Nhật và các nước độc-tài Đức, Ý ngày càng thêm thân-thiện và đã kết-liễu bằng hợp-ước liên-minh giữa ba nước ký ngày 27 Septembre 1940 ở Bá-linh. Trái lại cuộc giao-thiệp của Nhật và Anh, Mỹ thì lại càng ngày càng thêm găng và cả Anh lẫn Mỹ đều tăng thêm công cuộc phòng-thủ ở miền Thái-bình-dương. Cuộc giao-thiệp giữa Nga và Nhật mấy tháng nay tuy có cơ khá hơn nhưng trái lại cuộc giao-thiệp Trung-Nga lại không được hòa hảo như trước. Thực là đối với cả Âu và Á, ta thấy Nga vẫn giữ một thái-độ bí-mật rất khó hiểu.

Về nội-tình nước Tàu thì ngày 30 Mars 1940, nhờ có sự ủng hộ của quân Nhật, chính-phủ Nam-kinh của Uông-tinh-Vệ đã thành lập cũng theo đúng hiến-pháp của chính-phủ Trùng-khánh và theo thuyết tạm-dân của Tôn-Văn. Từ hồi cuối tháng Juillet, Hoàng-thân Cận-Vệ lại lên giữ chức thủ-tướng Nhật thay thủ-tướng Mễ-Nội rhì việc điều-đình với Uông-tinh-Vệ càng dễ dàng và ngày 30 Novembre 1940 một hòa-ước đã ký xong Nam-kinh giữa tướng A-Bộ đặc-sứ của Nhật và Uông-tinh-Vệ. Uông lại được tôn lên làm Tổng-thống nứơc Tân-Trung-hoa thân Nhật. Cả Mãn-châu-quốc cũng ký hợp-ước thân-thiện với Nam-kinh.

Người Nhật và họ Uông mong với hoà-ước Trung-Nhật ngày 30 Novembre cuộc giao thiệp giữa hai nứơc sẽ điều-hòa, việc lập nền trật-tự mới ở Á-đông cũng tiến được một bước dài, nhưng liệu người Nhật có sẽ được như ý chăng? Chỉ thời gian mới có thể trả lời ta câu hỏi đó.

Mấy ngày mà dân Đông-dương nên nhớ về năm 1940

Đông-dương và đề-quốc Pháp không khỏi phải chịu ảnh hưởng về cuộc Âu-chiến.

Từ hồi tháng Juin đến nay, ngoài một vài việc hành động của phái de Gaulle ở Phi-châu xích-đạo thuộc Pháp và việc phiến-loạn tại Nouvelle-

Calédonie ở gần Úc-đại-lợi, thì hầu hết cả các xứ trong đế quốc Pháp vẫn tỏ lòng trung thành với chính-phủ Vichy. Cũng nhờ đó mà hầu khắp thế giới đều bị nạn chiến-tranh mà xứ ta vẫn được hưởng thái-bình. Từ hồi tháng Juin đến nay có một vài ngày mà chúng ta nên nhớ kỹ vì có quan-hệ đặc-biệt  đến tình hình xứ này. Trước hết là ngày 20 Juillet, ngày quan Toàn-quyền Decoux trọng nhậm-chức Thủ-hiến Đông-dương thay đại-tướng Catroux. Rồi đến ngày 29 Juin là ngày phái-bộ Nhật đến Hanoi để kiểm soát về việc vận-tải khí-giới cho Tàu qua Bắc-kỳ theo cuộc điều-đình giữa đại-sứ Pháp là M. Arsène Henry và bộ ngoại-giao Nhật. Và sau cùng là ngày ký hợp-ước Nhật-Pháp về Đông-dương sau một cuộc điều-đình kéo dài đến ba tháng mới xong.

Theo hợp-ước đó, chính-phủ Đông-kinh công nhận chủ-quyền nước Pháp ở Đông-dương và đảm-bảo cho sự nguyên-vẹn đất đai ở xứ này. Trái lại, Đông-dương cho quân Nhật được hưởng một vài sự tiện-lợi về quân sự ở Bắc-kỳ như đóng quân và được phép dùng ba trường bay ở Bắc-kỳ. Hợp-ước đó vừa ký xong chưa kịp báo tin đi thì xảy ra vụ xung-đột ở Lạng-sơn do quân đội Quảng-tây gây ra. Nhưng cũng may chỉ mấy hôm sau thì việc lôi thôi đã dàn xếp song và ngày 26 Septembre thì quân Nhật bắt đầu theo đúng hợp-ước đổ bộ ở Haiphong. Hiện nay thì việc Lang-sơn chỉ còn như một cơn ác-mộng ở trong óc chúng ta và một phái-bộ kinh-tế Pháp và Đông-dương do quan nguyên Toàn-quyền Robin đứng đầu đang điều-đình về các vấn đề giao dịch về thương-mại giữa Nhật và Đông-dương.

Về cuối năm ở biên giới Thái-lan lại xẩy ra nhiều việc xugn-đột do quân Thái-lan gây ra, có ý để khiêu-khích và tìm cớ đòi lại mấy tỉnh của Cao-miên và các đảo ở trong lòng sông Cửu-long  mà Thái-lan nhận là của mình!

Kinh-tế Đông-dương năm 1940 cũng phải chịu ảnh hưởng tai hại của cuộc Âu-chiến và cuộc phong-tỏa do chiến-tranh gây ra. Hiện nay Đông-dương đã mất các thị-trường tiêu thụ sản-vật ở Âu-châu nên đành phải quay về buôn bán với các nước bên Viễn-đông nhất là với Nhật. Chính-phủ Vichy cho Đông-dương được tự-trị về quan-thuế là có ý mở đườngcho cuộc hợp-tác về kinh-tế giữa Nhật và Đông-dương. Tất cả các chính giới ở Pháp và xứ này đều mong cho cuộc điều đình ở Đông-kinh sẽ có kết-quả tốt về tất cả các phương-diện.

Về xã hội, chúng tôi mong rằng những cuộc cải-cách về thanh-niên, về gia-đình, về học-chính, về thể-dục ở Pháp sẽ có ảnh-hưởng tốt đến tình hình xã hội ở xứ Việt nam. Cái khẩu hiệu “Gia-đình, Tổ-quốc, Cần-lao” của Thống-chế Pétain dùng làm nguyên-tắc trong cuộc phục hưng nước Pháp cũng tương-tự với những  nguyên-tắc di-truyền làm nền-tảng cho xã-hội Việt-nam: “tu, tề, trị, bình”.

 

Kết luận

Kết-luận bài này, chúng tôi mong rằng cuộc chiến-tranh đã tàn-phá thế-giới suốt từ 1939 cho đến năm 1940 và thay đổi cả trật-tự ở Âu-châu sang năm 1941 sẽ chóng kết-liễu, người đời từ nay có thể hiểu biết và thân-ái với nhau hơn. Chúng tôi xin nhắc lại lời tuyên bố của đức Giáo-hoàng Pie XII về dịp lễ Noel vừa rồi:

- “Ra khỏi chiến-tranh, cuộc thí nghiệm và bài học đau đớn đó, tinh thần thế giới sẽ khá hơn, nhân-loại sẽ yêu chuộng hòa-bình hơn và chịu nghe theo tiếng gọi của lẽ phải và công-lý. Chỉ có như thế thì thế-giới mới có thể dự vào việc xây dựng một nền trật tự mới căn cứ vào công-lý”.

Một nhà đại văn hào Pháp cũng nói:
- “Cuộc chiến-tranh này dẫu kết-quả như thế nào cũng mang lại cho Âu-châu một nền trật-tự, vì khủng-bố cũng có trật-tự của nó, và tội ác, trong óc một hạng người nghĩ ra nó, thì lại có sức kiến-thiết”.
Chúng tôi mong rằng nền trật-tự mới do chiến-tranh gây ra sẽ có ích-lợi cho nhân-loại và trật-tự đó sẽ là cuộc hoà-bình lậu dài cho thế-giới.

(Ảnh: HỒ HOÀN-KIẾN MỘT CHIỀU SƯƠNG XUỐNG: Những cành liễu thướt tha rủ trên bờ cỏ. Tháp Rua buồn bã soi mình xuống mặt nước êm du, sương chiều lắng xuống làm mờ các rặng cây xanh đằng xa tít, cảnh vật dường như buồn bã nhớ nhung trong cảnh đông về lạnh lẽo.)
HỒNG-LAM



Ngày xuân

Ngày xuân em hãy còn dài
(Nguyễn Du)

Năm nào cũng thế, cảnh vật vào dạo này lại thay đổi, đem mùa đông già cỗi đi nơi khác để mùa xuân thắm thiết thay vào.

Mùa xuân như một tiếng nhạc...như một cô con gái tỉnh giấc trong sương...Mùa xuân như một đội quân ra trận - tin chắc ở mình, tin chắc ở sự đắc thắng- mà hàng tiền đạo thì là cái dân tộc hoa đào xâm lấn hết đất đai ở thôn quê, và, cùng với mưa phùn, gió đông, tràn ngập cả những phố xá thị thành với một làn sóng thơm kín đáo. Những bãi cỏ bắt đầu xanh rờn đến chân trời. Hoa cúc, hoa mai, hoa trà, như có một bàn tay phù-thuỷ đụng vào, cùng một lúc nở bung ra ; người ta thấy sự vuốt ve, rất lạ, lững lờ bay ở không trung ; những cành lá chớm ra như những điểm hy vọng ở trong óc người ta vậy. Có thể bảo rằng Hoá-công đã đem phép màu nhiệm lay động cảnh vật cho sống lại. Những ngày trong sáng dài hơn, những đêm thơ mộng êm đềm hơn và khi nào bóng tối mờ đi thì người ta thấy loè ra ở đỉnh cây ngọn cỏ những vệt ánh sáng mỗi lúc một giống những thứ hoa lạ ở trong cái màn mờ của buổi bình minh.

Ấy là giờ tôi thích nhất trong một ngày : người ta chưa biết cái thời gian huyền ảo đó sẽ đem lại cho ta những gì, nhưng cái ánh sáng lan dần, rõ dần ở khắp đó đây thì chứa đựng hàng trăm nghìn lời hứa hẹn về cái ngày đương nở.

Bao nhiêu nỗi lo sợ vẩn vơ về đêm tối tiêu-tan với ánh sáng trong sạch như được trời rửa lại. Mặt người nào cũng hớn hở, vì dù ở tình thế nào người ta cũng phải can đảm mà kêu gào hạnh phúc.
Hạnh phúc, ta phải có gan chờ nó.

Cũng như ở buổi bình minh của một ngày, bao giờ đến mùa xuân - bình minh của...- tôi cũng coi như là một sự tái tạo, một mối hy vọng mới, một sự bay bổng về tương lai.
Tôi tiếc những thì giờ đã mất, tôi tiếc những mùa xuân tươi đẹp khác đã qua nhưng không bao giờ tôi âu sầu.

Một nhà làm báo đã viết vào đầu năm Canh-Thìn một câu : “Mùa xuân năm nay đã đến hơi sớm quá. Tôi không ưa sự vội vàng ấy của Hoá công, tôi nghi ngờ làn gió xuân nhẹ ngàng quá, cái làn gió lành lạnh đem đến cho ta mùi đất, mùi đất thó, cái làn gió có một mùi Số-mệnh...”

Mùa xuân năm nay- Tân-Tỵ - Số-mệnh đã định rồi. Mùa xuân không làm cho ta sợ hãi như năm ngoái nữa. Sự tái tạo không báo cho ta chết chóc bởi vì chúng ta đã ở trong cảnh đó rồi. Trái lại, sự tái tạo chỉ báo cho ta sự Hồi-sinh và Hoạt-động.

Tôi cảm phục câu nói ấy, nên, đầu xuân năm nay, tôi lại càng thấy lòng tin tưởng của tôi dũng mãnh hơn, tôi thấy cuộc đời tưng bừng một cách lạ và tôi muốn đi khắp các phố để xem cái sống nó lộng lẫy, nó nên thơ đến thế nào...

Tôi đi mãi, tôi đi mãi. Tôi đi vào xem các phiên chợ Tết, tôi đi qua bãi cỏ, cánh đồng ; tôi đi cùng khắp các phố để xem những người đi sắm Tết. Một khối nặng từ ở linh hồn tôi rơi xuống. Tất cả mọi người đều nhìn tôi với một con mắt thân yêu, tất cả mọi người đều sung sướng, tất cả mọi người đều thấy cửa vàng mở  rộng để đón mình vào trong.

Chao ôi, tôi cảm động không biết chừng nào nữa ! Cuộc đời về mùa xuân, phút chốc biến thành tươi đẹp, khoẻ khoắn và thắm thiết đã làm cho tôi nhớ đến những người con gái nhà nghèo, ăn không no, ngủ không đủ, tiều tuỵ đến làm cho ta phải thương hại, thế mà bỗng chốc trở nên đẹp đẽ, mỹ miều, khả ái.
Anh sẽ phải hỏi cái sức huyền bí gì đã đem ngọn lửa thần vào các cặp mắt kia, thoa màu hồng vào đôi má kia và làm cho những cái ngực thanh-tân phồng lên giẹp xuống nên thơ như vậy. Phải, phải, ai đã ném sự tươi tắn vào nụ cười ? Ai đã làm cho sự vui vẻ loè lên như chớp nhoáng? Ai đã đem cái đẹp ấy dâng cho những người con gái kia ?

Tôi đã đoán biết người đó là AI rồi. Nhưng tôi nghĩ “ Ngày tháng qua đi không ai biết. Biết đâu ngày mai ta lại chẳng trông thấy những nét mặt xanh xao hồi trước, mắt mờ những lệ, nụ cười héo hon và những cử chỉ e rè, sợ sệt : người ta bảo đó là dấu vết của sự lo nghĩ, sự âu sầu, sự hối hận ; đó là dấu vết của sự “sớm nở tối tàn”. Ta sẽ phải tiếc rằng “xuân đi mau quá, sắc đẹp tàn vội quá. Chao ôi, ta chưa đủ thì giờ để yêu !”

Tôi vừa đi vừa nghĩ nên về hơi chậm. Một giờ khuya. Sự thắc mắc làm cho tôi ngại bước. Nhưng đến một cái cửa sổ gác nhà kia, tôi thấy trong ánh đèn một người con gái tay trắng như ngà cầm một bó hoa- áng chừng hoa xuân- đưa cho một người đàn ông và cả hai đều cười trong cái im lặng của một đêm xuân im lặng.

Tôi giật mình một chút và thấy vững tâm hơn. Càng thấy mình trơ trọi bao nhiêu, tôi càng thấy bóng người trên gác đương cười với bó hoa xuân có cái ý nghĩa rõ ràng là thiên hạ đều vui vẻ trong ngày xuân mới : người viết báo nghĩ một mình, nhưng sung sướng với người khác bởi vỉ đã thấy người khác sung sướng vậy.

VŨ BẰNG


Năm Tân Tỵ sẽ đem cho ta những gì?
của THANH-VÂN CHÂN-NHÂN

Cũng như mọi năm chúng tôi cho là bổn phận phải mượn một nhà tiên tri chung kết năm Canh-Thìn và dự đoán năm Tân-Tỵ để độc giả biết đại khái về những điều kiết, hung sẽ xảy đến trong năm mới này.
Ông Thanh-Vân Chân-nhân, một người bạn của chúng tôi, có biệt tài về khoa tướng số đã vui lòng cho chúng tôi những kết quả mà ông đã tìm thấy trong việc dự đoán năm Tân-Tỵ.
Mong rằng các bạn sẽ tìm thấy ở trong các lời dự đoán dưới đây những điều ích lợi cho đời sống của chúng ta và lấy đó làm một phương-trâm để can đảm mà bước sang một năm mới tốt đẹp và chứa chan hy vọng.
T.B.C.N.

Tính số Thái-ất về năm nay là năm Tân-tỵ ta thấy rằng:
Tân (hàng Can thuộc Kim)
Tỵ (hàng Chi thuộc Hỏa)
Can-chi (Kim-hỏa) phối hợp với nhau (Kim-hỏa tương khắc) phải nói quả quyết rằng có điềm sung khắc, bất yên.
Nhưng xét cho kỹ thì bất yên về mặt nào?
Kim (là sắt, là thép, là đồng...) xung khắc với Hỏa (là khói, là lửa...). Được cái Kim-Hỏa là khắc-suất (nhẹ nhàng) thì việc xẩy ra kia có thể nói là không lấy gì làm quan trọng cho lắm và có xẩy ra chỉ xẩy ở bên ngoài (khắc suất chứ không khắc nhập) không đáng lo ngại cho lắm.
Năm nay có một phong trào mới. Thiếu niên khuynh hướng về các việc kinh tế. Người nào cũng dự-định việc buôn bán kinh doanh theo một mục đích kim tiền ( Kim-chỉ, kim-tiền ). Nhưng xin mách các bạn thanh-niên rằng muốn kinh doanh việc gì phải coi chừng, phải suy tính. Hễ ai buôn vàng, buôn sắt, buôn đồng phải tính kỹ nếu không thì nguy đấy (kim-khắc). Buôn các thứ để đốt, để thắp, để cháy (hỏa), lưỡng hỏa thanh viêm, như buôn than, củi, dầu, ét-xăng, diêm thì có cơ phát tài to. Thế mà buôn hàng gì – xa xôi cách sông, cách nước, cách bể (thủy hỏa tương khắc) có thể nói là bất trắc lắm. Năm nay những ai có tiền tậu đồn điền, tậu ruộng (thuộc thổ), tậu nhà (thuộc thổ và mộc) thì bền chắc hơn cả, nhưng phải coi chừng khi hết hạn Kim-hỏa (tức thời kỳ chiến-tranh hết) mà không biết suy tính phòng sự sụt giá thì phá sản có ngày. Những người tuổi thổ, tuổi mộc trong số Tử-Vi có sao thủ mệnh như Thiên-cơ, Tham-Lang, Thiên-Lương, Tử-Vi, Thiên-Phủ là có cơ phát đạt, thịnh vượng... nên kinh doanh sự nghiệp. Còn những người tuổi Kim, tuổi thủy mà trong số Tử-Vi có sao thủ mệnh như: Vũ-Khúc, Thất-Sát, Thiên-Tướng, Phá-Quân, Thái-Âm, Thiên-Đồng thì có làm gì cũng phải nên rè rặt.
Năm nay không những thiếu-niên xô nhau phần đông vào thương trường. Thiếu nữ cũng có tư-tưởng mới: kén chọn ý chung nhân hay để ý đến những người có tài doanh nghiệp, sự thực thì họ đã biết coi rẻ hư-danh. Ta sẽ trông thấy ở những thành thị thương mại lớn, trong các hãng buôn: các thiếu-niên có học thức chủ-trương, các thiếu-nữ tân học, tân kiến giúp việc... Ta sẽ thấy ở  các tỉnh nhỏ về cất hàng... không phải là các chú lái, các cô lái mang tay nải, vác bồ nữa, mà là những thiếu-niên tân-học diện Âu-phục bảnh bao và những thiếu-nữ tân thời đặc biệt... trong năm nay, rồi về  sau nữa... Ngoài ra, mọi việc đều yên. Các ngành kỹ nghệ và công nghệ khác đều mở mang cả, nhất là Văn-tinh chiếu nhiều lắm, ta cho rằng nghề văn, nghề báo sẽ phát đạt mà ảnh-hưởng sẽ lan rộng ra vô cùng, ảnh-hưởng đến tinh thần của dân nước nhất là thanh-niên nam nữ.
Thanh-Vân Chân-nhân


NĂM MỚI CHÚNG TÔI XEM CHIẾT TỰ
Bốn ông chủ báo hàng ngày

ĐỂ ĐOÁN XEM TRÌNH ĐỘ BÁO GIỚI NĂM NAY THẾ NÀO?

Bước sang năm mới, báo giới Bắc-kỳ liệu có tiến hơn bây giờ không?
Đó là điều mà chúng ta thường tư hỏi. Năm mới ai không muốn một chút ít hi-vọng về tương lai. Muốn biết về tương lai của nước ta, chúng tôi tưởng không gì bắng xem ngay tương lai báo giới của người mình, bởi vì chúng ta đã biết rằng báo giới là cái loa truyền những điều hay lẽ dở cho dân nước. Có thể nói được rằng nếu người ta muốn biết rõ kiết hung và vận mệnh nước nhà năm Tân-tỵ có giầu mạnh hay không thì cứ trông ở trình độ báo giới mà đoán định.
Vậy, nhân dịp đầu năm, muốn giúp ích cho bạn đọc thân yêu, chúng tôi đã đến tìm một ông bạn đã từng đi ngoại quốc về và có biệt tài về môn chiết-tự và chiêm-tinh-học, nhờ xem giúp chữ ký của bốn ông chủ báo hàng ngày ở đây để mong tìm một chút ánh sáng trong cái tương lai báo giới Bắc-kỳ ta vậy.
Các bạn đọc sẽ thấy ở dưới đây những sự khám phá lạ lùng về từng ông chủ báo một và chúng tôi mong rằng các ngài sẽ có một ý-tưởng về vận mệnh báo giới Bắc-kỳ năm Tân-tỵ này.
T.B.C.N.

Chữ ký ông Nguyễn-văn-Luận chủ-nhiệm báo Trung-Bắc Tân-Văn
(1) Chữ đầu toàn hình cong hợp lại rõ ràng, không khuất khúc và không có những nét móc như lưỡi câu (so với nét móc ở chữ đ của chữ ký ông Luyện và chữ h ở chữ ký ông Phú) tỏ ra một người mềm mại, giầu tưởng tượng, dễ hăng hái, dễ lo, không khuất khúc, một người trọng tình hơn lý.
(2) và (3), ví như hai nhịp cầu nối ở giữa bởi một vạch hơi xa (v). Tinh thần cân đối thích nhịp nhàng. Có thể tỏ ra một người yếu ớt về dự định. Cái tỏ ra yếu ớt ấy chính là nét vạch (v), hình như nhiều khi trong chương-trình hành động ông định vượt lên một bước cải-cách hay mưu cầu gì lớn hơn nhưng lại thôi, từ nhịp cầu số (2) ông lại đến nhịp cầu số (3). Các bạn đọc có thấy ở nhịp cầu số (3) nét đầu ấn mạnh và cáu kỉnh hơn nét (o) không? Cái đó tỏ ra rằng sau khi thấy mình yếu ớt trong dự định, ông tự cáu với mình, nhưng không bao lâu lại trở về sự mềm mại tự nhiên.
(4) Cái vòng tròn (4) quay một vòng thực nhanh định đưa về phía tay phải theo hình tên (--->) tỏ ra ông có lòng vị tha đấy nhưng chẳng biết nghĩ tức giận thế nào ông lại quay ngoặt về tay trái hình tên (<---) tức là vị-kỷ. Ông hay nghĩ về dĩ vãng.
Tiền vận khá – Trung vận giữ thăng bằng - Hậu vận lại lên.

Chữ ký ông Bùi-xuân_Học chủ-nhiệm báo Việt-Báo
(1)    Thẳng như khúc gỗ
(3)và hình tên(--->): hai nét này rất nhanh nhưng nhanh một cách không mỹ thuật , tỏ ra một tinh thần bộc bệch không thâm thúy.
(4)Chấm vô nghĩa, về tâm-lý học thì linh-giác chỉ bảo tôi đó là một chấm đen tỏ sự nóng tính hay gắt-gỏng.
(5) vô nghĩa (plat).
(6)Tỏ vẻ oai vệ, hay trưng cái “tôi”, thích người khác để ý đến mình. Tất cả nét ký nhanh: hoạt động ốm vặt, thẳng hay đam mê, nhưng làm gì cũng hay chán, ít tưởng tượng và tuy cười nói nhiểu nhưng buồn rầu.
Không tin tưởng điều gì cả.

Chữ ký ông Nguyễn-văn-Luyện chủ-nhiệm báo Tin-Mới
(1)Bắt đầu một đường gãy, chắc tính ông này không mấy người ưa vì nghiêm khắc quá. Ông ngoằng một chữ đ khó hiểu, tỏ vẻ không ưa bộc-lộ ý tưởng một cách rõ rệt. Hay “bọc” ý nghĩ, và có tính nhiêu-khê.
(2)một đường cong thông minh tỏ ra một tính tình dễ cảm-súc, nhưng cảm-súc thuộc về lý, về tư-tưởng (sensibilíe cérébrale) hơn là thuộc về tình. Về tình nét ký của ông tỏ vẻ lạnh. Óc tưởng tượng, óc xây dựng dồi dào, nhưng tự tin quá có thể thành hỏng việc được.
(3), (4), (5) nét tháu: rất nhanh cùng một ý với chữ đ.
(3), (4), (5) chữ cách xa nhau, nghêu ngao, “làm ra” to, tỏ vẻ muốn làm đàn anh hơn người. Nhưng thế chữ ngã xuống về bên phải, có khi báo trước sự muốn bỏ dở để về nghỉ ngơi trước khi chưa cần về nghỉ ngơi.
Tiền vận và trung vận khá hơn hậu vận.

Chữ ký ông Ngô-văn-Phú chủ-nhiệm báo Đông-Pháp
(c) Chữ p hình cong con tôm. Tỏ sự uốn mình mềm mại. Nhưng nên nhận net 1cong đây viết chậm chứ không nhanh. Nét cong nhanh tỏ sự mềm mại tự nhiên của bản tính hay là sự giầu tưởng tượng. Nét cong chậm và ấn mạnh tỏ một vẻ mềm mại đắn đo tính toán. Vì một mục đích gì mới mềm mại, chứ thực tính ông cứng và không được thanh lam. Cuối chữ P, nét co vào hình tròn tỏ lòng vị kỷ rất mạnh cái gì cũng thu vào mình.
(1)    nét thẳng có móc lưỡi câu: thẳng và khó tính, có khi thành nóng nẩy.
(2), (3), (4) đều một nét thẳng con rõ ràng trong từng một cử chỉ một. Nhưng (2), (3), (4) cứ từ từ to mà thuôn nhỏ dần đi: thích giấu ý nghĩ.
Những nét ấy lại nối nhau bởi những nét hơi cong (hình tên --->). Tất cả lộ hình một con sông nhiều khúc gấp, tầu đi trong sông dễ bị nguy hiểm vì không đoán trước được mà tránh. - Óc biến báo xoay trở.
Các nét rất chậm và ấn mạnh là kiến văn không thâm thúy lắm nhưng đắn đo trong việc làm, không dễ bồng bột, không dễ tin. Trọng lợi hơn trọng tình. Hoạt động chắc chắn.
Trung vận khá hơn tiền vận và hậu vận.

Tóm lại
Ông Luyện và ông Luận giống nhau vì chữ ký có nhiều nét cong tỏ ra người có óc tinh-nhụê (esprit de finesse); nhưng ông Luyện tinh nhuệ mà lại thiên về lý khác ông Luận thiên về tình. Trong bốn chữ ký, chữ ký ông Luận tỏ ra là người dễ cảm động nhất. Chữ ký ông Luyện thuộc của một người “đời bên trong” cũng giầu, nhưng lại lạnh lẽo hơn, ông ưa lý luận hơn tình cảm. Ông Phú rõ là một người cứng đấy mà biết mềm, một thứ mềm mại tính toán chứ không hồn nhiên như ông Luận. Ông khắc khổ trong hành vi và hay biến báo. Ra đời ông “láo” hơn ông Luyện và ông Luận. Nhưng tôi sợ hậu vận của ông không được như ý sở cầu. Ông được cái dấu sắc (`) mạnh mẽ ở cuối chữ u nó cứu vãn một ít tình thế về sau và cái vạch ngang ở dưới chữ ký tỏ ra óc ông trông rõ hiện tại, nhưng cũng như chữ ký từ to đến nhỏ, cái vạch ngang ấy không dài hết chữ mà chỉ đến đầu chữ u đã ngoặc xuống tỏ ra hậu vận đoản. Còn ông Học, chỉ được cái hoạt động, nói nhiều, thích oai chứ về tình lý thì không có gì xuất sắc như ông Luận và ông Luyện, về đắn đo thì không thận trọng như ông Phú.
Xem như thế, chúng ta có thể kết luận một câu rằng làng báo Bắc-kỳ sang năm Tân-tỵ không thể đặt nhiều hy vọng vào ông Học. Về ông Phú, ông chắc chắn nhưng ở cuối cùng nhà xem chiết tự lại nói “trung vận khá hơn tiền vận và hậu vận” cái đó ta con ngẫm cũng như ta còn phải ngẫm câu “sự muốn bỏ dở về nghỉ ngơi trước khi chưa cần về nghỉ ngơi” nói về ông Luyện vậy.
Duy có một điều ta biết chắc rắng cái vận mệnh báo giới hàng ngày ở Bắc-kỳ, nếu cứ trông vào ở bốn ông chủ báo hàng ngày ở đây hiện giờ thì quả thực cũng ít hy vọng được tiến bộ hơn năm Canh-Thìn vậy.
Chúng ta cũng nên mong rằng một sự lạ, hay một vài người khác trẻ hơn bốn ông này, hăng hái hơn bốn ông này sẽ bước vào trong hàng ngũ báo hàng ngày để lay động làng báo và đem thêm chút sinh khí cho nó.
Chúng ta chờ ...
Và như lời nhà đại văn hào Mỹ Louis-Bromfild đã nói thì: chờ cái gì mà chẳng đến với ta.
VĂN THÁI-SƯ


Nàng mai
của Từ-Thạch
Ảnh Võ-an-Ninh
Tết đã đến rồi. Tết đến năm nay là năm thứ bao nhiêu ?
Tết cũ lắm, thế mà Tết bao giờ vẫn là mới. Bao giờ người ta đón Tết cũng như đón một tin mừng.
Xin những ai có vẻ mặt ưu tư chán nản, hãy từ giã vẻ mặt ấy đi ! TỪ giã nó và cười lên ; cười lên để đón xuân về. Nàng xuân yểu điệu lắm, tươi vui lắm, mà lại nghiêm trang nữa. Tâm hồn nàng tưng bừng như một đám hội và áo mặc của nàng thì vô số là màu dễ cảm.
Này hãy nhìn một màu trong muôn màu của xuân mới. Ý tôi muốn nói các bạn hãy nhìn những cây hay những cành đào, mai bán phiên chợ Tết. Thân màu nâu thẫm có mấu ; cành có hoa và có nụ. Các bạn thích đào thắm hay đào phai, hay thích mai ? Tuỳ ý. Thắm hay phai đều có nhị vàng. Còn những cành mai kia, quên sao được ? Tên nó cũng đã gợi trong lòng nhiều bạn những kỷ-niệm thời qua hay đáng có. Nàng “Mai” của các bạn đấy. Nó mong manh, mong manh ! Những chữ mà tôi biết, khổ quá, chẳng có chữ nào mà tả rõ được sự cảm-động của tôi khi thấy hoa mai. Các bạn nhắc tôi mấy, có phải mai làm nẩy trong lòng bạn một cảm tình êm-ái và tưởng nhớ không ? Mà sao lại không tưởng nhớ được, trừ những dạ vô tình ? Mai đến trong có ít lâu với những ngày xuân tươi thắm, mai lại đi, để lại sự nhớ nhung trong lòng bạn. Vậy các bạn yêu hoa mai đi nhé. Mua nhiều hoa mai vào. Nhưng mà sao đào vẫn bán chạy hơn mai ? các cụ yêu đào vì đào sắc đỏ, vì đào mang lại màu tươi. Còn mai thì hơi buồn. Có phải khôna các bạn nhỉ ? Hay là tại tôi đa cảm ?
Nhưng thôi hãy mua cả đào cả mai, rồi đi mua thứ khác chứ. Ai lại để “nàng tiên đi trên nước” đợi bao giờ ! Các bạn có biết “nàng tiên đi trên nước” là ai không ? nàng thuỷ-tiên đấy ! Ồ Thuỷ-tiên ! Thuỷ-tiên . Tôi tức quá, các bạn ạ, tức vì biết có mỗi một thứ tiếng không đủ tả tất cả các vẻ đẹp của thứ hoa ấy. Nếu tôi biết tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng La-tinh, tiếng Hi lạp tôi sẽ viết hết cả ra đây để tả, để tả những sắc và hương của “nàng”. Tôi lại không biết cả vẽ nữa, thế mới khổ. Ai vẽ hộ cho tôi cái là thuỷ-tiên dầy, xanh, nhỏ bản, cái thì vươn ra ngoài miệng cốc pha lê đựng nước trong như nước suối, cái thì cong lên chầu vào hoa. Cánh hoa đơn mỏng trắng, năm cánh khum khum giữ lấy nhị vàng. Con bướm đa tình nào được hút nhị ấy ? Đừng để cho bướm đến lẳng lơ, các bạn nhé. Nàng thuỷ-tiên chắc không bằng lòng đâu. Nàng chỉ ưa những tâm hồn thanh nhã như tâm hồn của bạn. Hương thuỷ-tiên ! Hương thuỷ-tiên !
Những lời của tôi nặng nề vô duyên quá, sao nâng được cái nhẹ của làn hương ấy, sao đằm thắm được bằng cái hương mong manh đầu mùa ấy ? Hương thuỷ-tiên ! Hương thuỷ-tiên ! . Các bạn đón lấy nó bằng tất cả ngũ quan nhé. Đừng để nó bay đi nơi khác, yêu nó vì nó mong manh ! nó nhẹ !
Thuỷ-tiên có rồi, đào có rồi, mai có rồi, hãy còn ít quá ! Sắm nữa vào. Tết đến tưng bừng, đừng thờ ơ với Tết. Các bạn quên cúc hay sao ? Đừng để cho cúc tủi ! Tết đến trong lòng hoa với bao nhiêu duyên hò hẹn, mà để cho hoa tủi thì thực các bạn chẳng phải là thi sĩ. Mà cúc có xấu gì cho cam. Rực rỡ trong màu vàng. Mấy chục mấy trăm cành vàng, nhỏ ấp lên nhau ken vào nhau mà vẫn hở nhị. Là cúc xanh nhiều khi có những vết bùn, các bạn nhớ lau đi nhé. Hương của cúc hắc, tôi không ưa bằng hương thuỷ-tiên. Hương này cao, hương cúc thấp. Hương này thiết thực, hương tt phiêu diêu.
Mấy thứ hoa này đã tạm đủ. Bây giờ ta đi mua vài chai rượu mùi. Absinthe, anisette hay cognacq ? Ôi chào ! vẽ vời. Rượu nào chẳng được, miễn là uống vào các bạn thấy ngà ngà trông đến những cành hoa đào trên cành mà tưởng là đào bay trong gió. Các bạn cứ vào bất cứ hiệu nào có bán rượu.
- Kia, ông cho tôi chai kia kia
- Thưa ông chai này ?
- Ừ, chai xanh xanh ấy, hau đo đỏ cũng được. Nhưng sao nó đục thế này ?Ồ ! tôi không thích, tôi thích nó trong.
Nó trong, phải đấy ! Chọn lấy thứ gì trong trong ấy ; có trong mới là màu của Tết. Xanh trong hay đỏ trong suốt như nước sụối màu xanh hay màu đỏ, đựng vào những chai đẹp đặt trên bàn giải thảm.
- Bạn uống một cốc !
- Bạn uống cốc nữa.
- Bạn uống cốc thứ ba nữa.
Rồi thì đào bay trong gió. Bạn say, bạn say cái phong vị đầu mùa của Tết. Ngoài đường thì vắng. Một thứ vắng hẹn hò. Người ta đã tìm được giờ xuất hành chưa ? MÀ sao cửa phố đóng im ỉm cả thế ? Mặc, bạn cứ yên lặng mà hưởng cái ấm áp của Tết trong gia-đình. Một tiếng oanh ở đâu thế ?
- Cậu ra mà xem, bánh chưng ép thế nào mà phô cả nhân ra đây này.
Rõ thực bất nhã quá. Đang mơ màng với hoa vì rượu mà người nội-trợ nói đến bánh chưng phô  nhân thì còn thi-hứng đâu nữa ? Nếu bạn là thi-nhân, bạn hãy lờ đi như không nghe tiếng.
- Cậu !
- Cậu diếc đấy à !
Bạn sửng sốt, giật mình. Năm mới mà bảo là bạn điếc. Bạn nghiêm nghị quay lại nhìn người nội trợ...Rồi bạn hết cả nghiêm nghị. Lòng bạn lúc đó du dương như một điệu đàn. Sao lại có thể yêu hoa đào, hơn màu đào ở hai mà người nội trợ được. Hương ở mái tóc kia không ấm ấp hơn hương của thuỷ-tiên sao? Bạn mỉm cưởi, âu yếm hỏi:
- Mợ bảo gì?
Và lúc này là lúc người nội trợ giỗi. Gọi bạn đến ba tiếng mà bạn không thèm quay lại, ai chẳng giỗi.
- Mợ.
- Mợ điếc đấy à ?
Rõ thực trẻ con. người nội trợ quay lại cười lườm bạn, lườm yêu. Lòng bạn say say cái phong vị đầu mùa của Tết. Tết đến đã đem về cho bạn tình yêu vạn vật.
Từ Thạch
(ảnh Võ-an-Ninh :
ĐÓN XUÂN :Vài cành hoa thược-dược mỉm cười trước gió xuân...
HOA THỦY-TIÊN: Trong chiếc bát sứ cổ, hoa thuỷ-tiên vươn mình như khoe khoang những cành lá xanh và những bông hoa trắng, nhị vàng thơm mịn...)


Đảo phi hoa
của TẢO-TRANG - Nguyễn-Huyến vẽ
Vĩ-Sinh là một danh sĩ đất Sơn-Nam. Văn-thơ rất hay, có cái khí-tượng siêu-thoát và kỳ-vĩ của thầy Trang, thày Tô. Tâm hồn rất khoáng-đạt, hồn nhiên nhuyễn trong tư tưởng cao-siêu của đạo Lão cùng đạo Phật. Chàng là một người phong-lưu nên giao du rất rộng. Sự nghiệp văn-chương cùng tâm tính hào-nhã đã khiến chàng nổi tiếng một thời.
Một buổi sáng mùa xuân, Sinh có hai người khách đến chơi - một vị sư và một nhà văn-sĩ – cùng uống rượu ngắm hoa và chuyện phiếm. Phong cảnh ngoài vườn trong tiết xuân, nhuốm một vẻ êm đềm vui tươi lạ lùng. Ánh mặt giời rắc phấn vàng trên những đoá cúc trắng. Chậu thủy-tiên đầy hoa như những đĩa ngọc-thạch đựng những chén vàng diệp tí-hon. Cánh cánh hoa lê lác đác bay, ngập ngừng lượn vòng như còn lưu luyến cành thơm mà chưa muốn sa hẳn xuống đất. Trong đám ấy, lẩn lút một vài cánh bướm trắng tự-do hơn, phóng-khoáng hơn, lên xuống dịp-dàng như vồn-vã mảnh hoa rơi.
Bên hiên, chủ và khách rượu đã ngà say. Câu truyện ngả dần về văn-chương : vị khách văn sĩ lấy tay chỉ ra vườn vế phía gốc lê rải-rác hoa và bướm mà nói :
- Ngắm cảnh này tôi chợt nhớ đến một câu thơ không biết ở đâu:
Ly biên da hồ diệp
Do thị lạc hoa phi
(Bên rào đàn bướm lượn
Tưởng mấy đoá hoa bay)
Con mắt nhà văn sĩ kể cũng lạ lùng thật ! Nhìn con bướm mà dám tưởng là cánh hoa sau khi rụng đã hoá thành tráo-lộn cả càn khôn như thế ; duy có thi-sĩ là có quyền.
Vĩ-Sinh nói:
Cái nên thơ chính là ở chỗ tráo-lộn muôn vật đó. Những câu thơ bất-hủ thường tỏ rõ cái ngông của thi nhân vốn có một cảm-giác phi-thường bắt ép tạo-vật phải theo trí tưởng-tượng của mình.
Nhà sư gật đầu, tiếp rằng :
Vâng, có lẽ như vậy lắm. Vì thế đạo Phật và đạo Lão thuần những tư-tưởng u-huyền, thoát-tục, đã giúp ích cho các nhà thơ nhiều hơn là đạo Khổng, thiết-thực và khô-khan. Nhưng chưa chắc hẳn là những câu thơ như trên chỉ tả những cảnh không-hư do thi-sĩ tưởng-tượng ra. Biết đâu trong hai mươi tám cõi vũ-trụ này lại chẳng có những dây liên-lạc vô-hình mà mà mắt phàm-tục của người ta không thấy, chỉ riêng cái cảm-giác tinh-tế và và linh-diệu của nhà thơ mới nhận được ? Biết đâu từ đời trước, hay ngay bây giờ nữa, ở một nơi xa lạ nào, bướm chẳng là những cánh hoa ghép thành, mà cái kiến thức hẹp hòi của chúng ta chưa đạt tới ?
...Câu truyện đương nồng nàn, thì có một chú tiểu sang mời nhà sư về Chùa có việc cần. Đồng thời vị khách kia cũng xin cáo-thoái, chủ-nhân lưu lại thế nào cũng không được.
Sau khi tiễn khách đi khỏi, Vĩ-Sinh lại quay vào thư-trai, lặng ngắm những cánh bướm vồn vã bên những chùm hoa và ngẫm nghĩ nhời nhà sư vừa nói...
Bỗng người nhà báo có khách. Sinh vui vẻ ra tiếp thì là một đạo-sĩ lạ mặt. Đạo-sĩ bước tới thi lễ :
-    Bần đạo nhân qua chơi đây, mộ cái phong độ cao thượng của ngài nên xin vào yết-kiến, mong không đến nỗi bị khước-từ.
Vĩ-Sinh khiêm tốn mời ngồi. Câu truyện của hai người mới quen biết dần trở nên thân mật như đôi bạn cố-cựu. Rồi nhân lúc cao hứng. Sinh đem kể lại câu thơ lúc nãy cùng nhời bàn của vị sư. Đào-sĩ nghe xong mỉm cười nói:
Câu nói của nhà-thiền có nghĩa-lý lắm và nhân thể muốn tạ lòng ưu đãi của ngài, bần-đạo xin giúp ngài thấy một chứng cứ rõ ràng.
Đoạn, đạo-sĩ lấy trong bọc ra một vò rượu nhỏ đặt lên chiếu mà nói :
Rượu này tên là bách-hoa-lộ. Uống nó khả dĩ khiến tâm hồn thanh sảng và đối với một người có căn duyên như ngài, tinh-thần có thể trở nên sáng suốt như một vị tiên, nhưng công hiệu chỉ trong một thời khắc ngắn mà không được mãi mãi. Nếu ngài không chối từ, chúng ta hãy cùng uống một vài chén, rồi tôi xin đưa ngài đến một cảnh rất tươi đẹp.
Vĩ-Sinh khái-nhiên nhận lời.
Rượu rót ra trong suốt như pha-lê, mùi thơm thoảng như hoa-lan. Uống vào miệng vị rất ngọt và hương như thấm vào da thịt. Một hai chén đã thấy say, say nhẹ nhàng như tưởng chừng tê dại, hình như say không vì men rượu mà vì hương thơm, thứ hương êm nhẹ mà dễ làm cho ngây ngất.
Chốc lát vò rượu hầu cạn. Đạo-sĩ đứng dậy chìa tay mời:
Nào, bây giờ đôi ta cùng đi.
Vĩ-Sinh nhanh nhẹn bước theo người khách lạ, bước đi như chỉ lướt trên mặt đất. Thân thể cảm thấy nhẹ bỗng tưởng không còn là thịt xương. Giác quan cũng thấy minh-mẫn hơn, cảm nhận một cách rõ rệt cả những cái rung động rất tế nhị của sự sinh sống muôn loài. Đường lối khác lạ hẳn, không còn phải ở trong thôn xóm chàng thường đã sống tự thửa trẻ thơ. Một chốc, đến một làn nước rộng lớn, nước trong suốt và êm lặng. Gần bờ có một con thuyền nhỏ sẵn sàng như đón chờ ai. Đạo-sĩ dắt Vĩ-Sinh xuống thuyền. Rồi chẳng cần chèo lái, thuyền cứ từ từ trôi đi nhẹ nhàng, gần như huyền ảo trên một mặt hồ êm lặng tựa như một tấm gương. Không khí như trong nhẹ hơn và đượm một mùi hương ngát không biết từ đâu đưa lại. Lắng nghe sẽ thấy một điệu nhỏ nhẹ quá, hầu như tiếng gợn sóng trên mặt nước trong một giấc mơ nào. Thuyền đi rất thong thả, thế mà lúc quay lại phía sau, Vĩ-Sinh ngạc nhiên khi thấy bờ đã xa tít và không còn nhận rõ được nữa trong khoảng sương mù. Một  lúc sau, thuyền ghé bên một cái đảo khá lớn. Hai người bỏ thuyền bước lên và Vĩ-Sinh cảm rằng hương thơm và cả âm-nhạc nữa có nhẽ đã phát nguyên tự chốn này.
Từ lúc ra khỏi nhà, đạo-sĩ vẫn giữ nét mặt rất điềm-đạm và Vĩ-Sinh cũng không muốn hỏi. Chàng muốn im lặng để hưởng cái thú sống hồi hộp trước những sự đột ngột xảy ra giữa một thế giới thần-dị. Trong trí lởn vởn những hình-ảnh mơ-hồ của những chuyện truyền-kỳ về Từ-thức hay Lưu- Nguyễn thời xưa. Mãi đến lúc bước lên bờ, đạo-sĩ mới chỉ tay bảo rằng:
Đảo này tên là đảo Phi-Hoa. Ngài thấy mọi chỗ đều là hoa, trên cành, dưới đất và cả ở không trung nữa cũng có những cành hoa bay bên cạnh những bướm lượn.
Vĩ-Sinh đứng lặng nhìn. Chàng đương ở trong một bàu trời đầy hoa thắm. Dưới đất những cánh min rơi chồng chất đủ các màu như một tấm thảm nhung sặc sỡ. Ở trên là những cành cây hoa phủ kín: có cái hàm tiếu, có cái còn là nụ, có cái đã nở hẳn. Những cánh hoa tàn bay rơi lả tả như một trận mưa, quyến luyến nhường mơn trớn thân người du-khách. Trong đám hoa rụng ấy có những cánh hoa linh hoạt hơn, bay lượn lên xuống rất nhẹ nhàng : đó là những con bướm nhỏ. Đạo-sĩ lấy tay chỉ miệng nói tiếp:
- Ngài có nhìn thấy những con bướm kia không? Nếu chúng không bay lên, ta sẽ tưởng chỉ là những cánh hoa rời rã. Nhận kỹ hơn ta sẽ thấy một vài cành hoa vừa lìa cành được chốc lát nếu may gặp một cành hoa khác :đôi mảnh hoa sẽ dính liền nhau mà cùng lượn bay lên : chúng đã hoá ra bướm. Ngài thấy chưa ? Câu thơ “Ly biên da hồ diệp. Do thị lạc hoa phi” không phải là bịa đặt và đảo Phi-Hoa này cũng có tên nữa là đảo Hồ-Điệp.
Vĩ-Sinh đứng lặng, chàng ngẩn người nắm cảnh chung quanh mình ; những cây muôn màu sắc, những cánh hoa rơi trong hương thơm, những con bướm sinh ra do một sự gặp gỡ bất kỳ. Và tiếng nói của đạo-sĩ bên tai, chàng tưởng như tiếng đồng vọng mơ hồ ở đâu đưa lại. Đạo-sĩ dắt tay chàng và cười chỉ đằng xa ;
Thôi ta đi thăm cảnh đi thôi. Ở trong còn nhiều chốn đẹp khác.
Chung quanh hai người chỉ là tấm đệm bằng cánh hoa chồng chất lên nhau. Vĩ-Sinh rụt rè không biết đặt chân vào đâu, không nỡ làm đau đớn những vật mỏng nhẹ mềm mại ấy dưới gót giầy. đạo-sĩ thấy vậy lại cười mà bảo:
Ngài không ngại. Rượu bách-hoa-lộ đã khiến thân thể nhẹ nhàng chẳng khác gì khinh-không bước đi dù nhanh hay mạnh cũng chẳng làm cánh hoa nhàu nát. Chúng ta đi mau lên thôi. Và kia là nhân vật trong đảo Phi-Hoa.
Vĩ-Sinh nhìn theo phía tay đạo-sĩ trỏ. Chàng nhận thấy trong đám cánh hoa bay ẩn hiện có những bóng người thong thả đi lại. Quần áo họ mặc đều là những màu khá tươi, lẫn trong sắc hoa, họp thành một bức vẽ sướng mắt vô cùng.
Bỗng một người trong đảo đi qua gần đó. Đạo-sĩ cúi mình thi lễ, Vĩ-Sinh cũng chào theo, và người kai kính cẩn đáp lại. Đạo-sĩ ngỏ ý muốn nhờ dẫn đường thăm cảnh thì khách lạ vui vẻ nhận lời.
Vĩ-Sinh để ý nhận kỹ thấy khách là một người đứng tuổi nét mặt điềm đạm, đôi mắt trong sáng, phong cách rất thanh kỳ. Y phục như làm toàn bằng lá cây còn giữ nguyên màu tươi tốt. Mũ là một cái lé sen gập đôi rồi cụp lại. Áo dệt bằng những sợi tơ xanh biếc mịn màng của cây liễu. Dưới áo dài hé lộ đôi ống quần óng ả mà Sinh đoán là lá chuối nõn. Giấy màu vàng như do sợi dây tơ hồng dệt thành...Từ lúc này bao nhiêu thứ khác thường đã xảy ra, Vĩ-Sinh đều bình tĩnh đón tiếp, vui vẻ nhưng không muốn suy nghĩ bận bịu sợ làm giảm cái tình cảm hồn nhiên khi nhận những lạc thú tân kỳ.
Người khách dẫn hai người đi thăm đảo. Bầu trời có một màu asáng lờ mờ như sữa. Mặt trời không thấy đâu, mọi vật tắm trong một ánh sáng êm dịu mơ hồ, phiếu-diểu như trong một làn sương. Hết thảy là êm đềm, yên tĩnh nhẹ nhàng. Bỗng tiếng khách cất lên, thong thả và nhỏ dịu :
Đảo này có tự thủa khai thiên lập địa. Sau khi thượng-đế tạo xong vũ trụ rồi ngài mơ tưởng một nơi nào vượt ra ngoài sự thay đổi quá rộn ràng, bèn lập ra chốn này. Ở đây mặt trời mặt trăng không có, đêm ngày không phân biệt rõ rệt. Mưa gió khôn hề đếnn rung động làn không khí lúc nào cũng trong trẻo êm đềm như ánh bình minh. Ở đây chỉ có những vật sống trong sự yên thản, trong sự bình tỉnh không giới hạn, hầu như trong hư vô : hoa và bướm...
Đạo-sĩ mỉm cười nhìn khách nói tiếp:
Hoa và bướm và những kẻ nào đã quên lãng cả sự thăng-trầm của đời người cùng quên cả sự náo động của tâm hồn, phải không thưa ngài ? Cái mộng của thấy Trang-Chu thủa xưa thấy mình hoá bướm, chỉ là một sự thật hiển nhiên. Bướm là hoa và những người tiên là hiện thân của hoa và bướm. Nhưng người đời có hiểu đâu thế ! Phải sáng suốt nghĩa là phải bình tĩnh – có bao giờ mặt hồ được trong suốt mà không yên lặng ? - mới óc thể nhận rõ những dây liên lạc giữa muôn loài !
Vĩ-Sinh lắng nghe những nhời nói của hai người, lòng đột nhiên tưởng như bừng sáng. Chàng không muốn góp chuyện, tin rằng khoái lạc sẽ đầy đủ hơn nếu được lắng mãi dưới đáy tâm hồn yên tĩnh. Không khí chung quanh chàng hình như đọng lại, và cả mảnh hoa bay, cả cánh bướm liệng trên đầu chàng nữa, chúng có một dịp rất êm nhẹ, rất đều đặn gần như bất động ! Chàng hiểu lắm, hiểu tại sao ở trên trần gian huyên náo kia người ta lại không nhận thấy rằng bướm là do những cánh hoa biến ra. Người ta trông thấy sao được sự liên lạc điều hoà giữa vạn vật, vì chính mình đã thiếu sự điều hoà trong tâm hồn !
Rồi dần da giữa cảnh đương êm đẹp một cách huyền hồ, chàng thấy trong lỏng cũng thênh thang, thanh thản như một dải hồ rộng lớn không chút gợn sóng. Chàng bước đi một cách chậm rãi vô ý-thức dường như quên cả thân mình. Hương thơm quanh quẩn cạnh người như một làn khói say sưa. Chàng lặng yên trước cảnh vật, không cảm giác, không ý nghĩ, triền miên trong mộ giấc mộng đẹp muốn mãi mãi kéo dài...
Chàng đã ở trong cái cảnh hoàn toàn không-khoáng của tâm hồn đã được bao nhiêu lâu rồi, nào ai có biết ? Nhưng Sinh bỗng thấy thấy thân mình dần dần như nặng hơn lên, chàng chợt nghĩ tới câu nói của đạo-sĩ mà giật mình, tưởng rằng rượu tiên uống vào trong người đã bay, đã hả rồi và gót chân nặng nề của đời tục sẽ dẫm xéo nhàu những cánh hoa mềm-yếu. Chàng quay lại định tìm đạo-sĩ thì không thấy ai quanh mình. Hoảng sợ - chàng càng hoảng sợ thêm khi thá6y một đàn bướm rất đông ở đâu bay tới, xúm xít quanh chàng khiến chàng tối tăm mặt mũi. Chàng kinh hãi, khoa tay chống cự.
Vĩ-Sinh giật mình tỉnh dậy. Chàng kinh ngạc khi thấy mình vẫn nằm dưới mái hiên thư trai, trông ra vườn. Mặt trời đã khuất sau rặng tre già. Đạo-sĩ không thấy đâu, nhưng trên chiếu, bàu rượu cạn vẫn còn, và bên miệng bàu bay liệng vòng đôi, ba con bướm trắng như mê mải tìm một ít hương thừa. Khắp cả phòng còn thoang thoảng một mùi thơm ngát. Nhất là áo chàng tưởng chừng đã được ướp trong một rừng hoa nào.
Và trong khoảng mấy mươi ngày sau, như hình ảnh những cảnh thần-tiên còn phảng phất trong trí nhớ, hương thơm vẫn tản-mạn mơ hồ nơi phòng văn của Vĩ-Sinh.

Tảo-Trang


Ba vợ chồng táo quân từ tục thượng quỷ đến chuyện hai ông một bà


Cứ đến Tết là người ta phải nói đến vợ chồng ông già này
Cũng một óc sùng-thượng quỉ-thần như người Tàu, trong sự sinh-hoạt hàng ngày, người mình từ xưa vẫn tin là có năm vị thần luôn luôn soi xét sự hành-động của mỗi người từng phút, từng giây không thể che giấu được, tức là : thần cửa, thần giếng, thần bếp, thần cổng, thần mái gianh. Vì vậy người xưa đặt ra có ngũ tự, nghịa là năm chỗ thờ ở trong nhà. Trong năm vị thần ấy, riêng có thần bếp, người ta lại gọi là tư mệnh thần, nghĩa là vị thần hiểu biết sự sống chết của người ta, lại thay quyền Thượng-đế xem xét các điều thiện ác của từng người đã làm trong mỗi ngày, người thiện thì cho được hưởng phúc lành, kẻ ác thì bắt phải chịu tai vạ. Do ở điều tin tưởng ấy, trong năm vị thần dần dần người ta thờ ơ hẳn với bốn vị kia mà chỉ chú trọng về một thần bếp, trong mỗi nhà đều có đặt một bàn thờ Táo-quân với thổ công suốt mấy ngàn năm nay, óc tin tưởng và sự thờ cúng không hề sao-nhãng. Theo tục truyền, mỗi năm cứ đến ngày 23 tháng chạp, Táo-quân đem các tấu tập trong có ghi các điều thiện ác của từng người trong mỗi nhà rồi cưỡi các lên Thiên-đình tâu bày với Thượng-đế, vì thế ngày 23 tháng chạp mới thành một ngày quan-trọng, gọi là Tết ông Táo, đến ngày ấy nhà nào nhà nấy xô nhau mua những các chép gọi là ngựa ông Táo, cùng sắm sửa mũ áo và sắp đặt cỗ bàn để cúng tiễn Táo-quân lên giời, trong lòng chỉ nơm-nớp lo sợ, nếu có một chút không kính, không thành, đắc tội với Táo-quân, tai vạ sẽ đến ngay liền, trong sự thờ cúng như ngụ ý hối lộ, nếu đã trót có điều chi làm ác mong Táo-quân đổi trắng thay đen.
Xét cái vi-ý của cổ-nhân đặt ra có ngũ tự, cũng chỉ là dùng thần-đạo để thiết-giáo, muốn cho ai nấy trong sự sinh-hoạt hàng ngày, bất cứ lúc nào hay ở đâu, cũng đều phải cẩn-trọng giữ gìn, ngay như một chỗ xó bếp là nơi tối tăm thầm kín, nếu coi thường mà làm điều gì càn quấy, sẽ có Táo-thần xét biết ngay. Cổ-nhân chỉ có một ý mượn chuyện quỉ thần để khuyên răn, ngờ đâu đã vì đó mà gây nên một cái óc mê tín cho trăm ngàn đời về sau, câu chuyện Táo-quân này là một, trong dân gian mỗi nơi lại có những truyện mê-tín đáng nên tức cười.
Không biết căn-cứ vào đâu, người Tàu họ lại chỉ ra được các tính danh Táo quân nữa mới kỳ cho chớ. Sách Cổ-chu-lễ nói: Ông Chúc-Dung làm Táo-thần. Hoài nam-tử nói: Vua Hoàng-đế làm ra bếp lấy chỗ nầu nướng, sau khi chết làm Táo-thần. Ngũ-kinh dị-nghĩa nói; Táo-thần họ Tô tên là Cát-Lợi, phu nhân họ Vương, tên là Bác-Đầu. Dậu-dương tạp-trở nói: Táo-thần họ Ngỗi, hình-dáng như con gái đẹp. Lại có họ là Trương, tên là Đan, tên tự là Tử-Quách, phu nhân tên tự là Khanh-Kỵ, sinh ra sáu con gái đều gọi tên là Sát-Trị, Còn nhiều chuyện nữa, đều là những chuyện quái-đản hoang-đường, tóm lại đó chỉ là do những kẻ hiếu-sự hay những kẻ “thần-côn” lợi dụng óc mê-tín của dân ngu để làm kế mưu-sinh đã bịa đặt ra cả, không phải là sự thực đáng tin.
Về chuyện Táo-quân ở nước Tàu lại có một tục rất ngộ-nghĩnh và có vẻ khôi-hài, là tực Tuý-tư-mệnh. Nhiều nơi ở miền Hoa-Bắc họ tin rằng Táo-quân là một vị thần sinh thời có tính nghiện rượu, khi ngài đã say tít rồi chẳng còn biết giời đất là gì nữa, ngày 24 tháng chạp là ngày ngài lên giời, đến đêm nhà nào cũng đua nhau đốt hàng đống tiền giấy, gọi là “tiền thế mạng cho cả nhà”, dán tranh ngựa lên tường bếp, rồi dốc từng hũ rượu ra nền bếp và cửa bếp như dội nước, họ làm như vậy là để Táo-quân say mèm, say khướt, lỡ có điều gì ác, khi lên thiên-đình ngài cũng bứ miệng ra chẳng còn biết lối nào mà tâu nữa. Thế ra người Tàu họ lấy rượu mà đánh bả Táo-quân, các Táo-quân Tàu đã vì tham miếng ăn, miếng uống mà làm hỏng cái trách-nhiệm nặng-nề do Thượng-đế đã giao-phó cho.
Tục thờ Táo-quân của người mình cũng chẳng khác chi người Tàu, chỉ khác một chỗ người Tàu thì lấy ngày 24 tháng chạp là ngày Táo-quân triều thiên, mà người mình thì lại lấy ngày 23. Chỗ khác nhau đó chẳng hay vì cớ gì, theo óc mê-tín, có lẽ nước Nam mình đã được thượng đế ban cho một ân điển đặc biệt, được lên chầu trước Táo-quân Tàu một ngày chăng ? Đi bước trước được nhiều cái may, nếu quả như lời nói ấy, thì ta cũng tự lấy làm vẻ vang cho các cụ Táo của chúng ta lắm nhỉ.
Chỗ hơn kém trước sau nhau một ngày ấy ta lại thấy rõ trong hai bài thơ của hai thi sĩ Bắc-Nam
Bài tho “thập nhị nguyệt nhị thập tứ nhật tống Táo” của Lu-Ẩn đời Đường có câu:
Nhất trản thanh trà nhất lũ yên
Táo-quân Hoàng-đế thương thanh thiên
Nghĩa là:
Một chén trà, một nén hương.
Tiễn đưa cụ Táo thăng đường lên mây
Bài thơ tiễn ông Táo của Tú-Xương có câu:
Hôm nay tháng chạp hai mươi ba:
Ông Táo lên trời mách chuyện ta
Một điều nữa, ta lại nhận thấy ông Táo ta khác với ông Táo Tàu, cái điều lẩn thẩn và chẳng hay gì tức là chuyện “hai ông một bà” chẳng rõ kẻ hiếu-sự nào đã đặt điều cho các ông, hay các ông đã cố ý làm cái việc nếu phải là người trần tất đã bị các ông tâu với trời để trách phạt. theo tục truyền thì có nhiều chuyện lắm, duy có chuyện sau này người ta có thể còn nguyên tình được cho các ông. Họ nói xưa kia có hai vợ chồng nhà nghèo rất thương yêu nhau, sau vì một cớ, người chồng phải bỏ nhà đi phương xa, trước khi đi chồng dặn vợ nếu quá ba năm không về thì được phép đi lấy chồng khác. Sau khi vắng chồng, người vợ ở nhà chăm chỉ làm ăn, thấm thoát đã ba năm không được tin tức chồng ra sao, rồi bốn năm, năm, sáu năm nữa, cũng không thấy tăm hơi gì, nhiều người khuyên dỗ đi lấy chồng, người vợ chỉ khóc than thương tiếc người xưa, nhất quyết ở vậy không ôm cầm thuyền khác. Sau vì cảnh nhà nghèo mẹ già không tiền cung dưỡng, có một ông già nhà giàu hiếm con, thường vẫn cung cấp cho mẹ nàng, cảm ơn ấy, trước khi chết bà mẹ dặnphải lấy ông già ấy để báo ơn và lấy nơi nương tựa. Tới khi mẹ mất, lại cần có tiền lo chôn cất, bất đắc dĩ nàng phải vâng lời. Vừa vui duyên mới được hai tháng giời thì người chồng cũ ở đâu dẫn về. Thấy cơ sự đã xoay ra thế, chàng chẳng trách vợ, chỉ trách mình đã vô tài để cho vợ vì cảnh nghèo mà phải bán mình, xiết bao hổ thẹn và đau khổ trong lòng rồi thắt cổ chết. Thấy vậy người vợ cũng tự trách mình rồi đâm đầu xuống sông chết theo. Ông già nghĩ chỉ vì mình đã rẽ duyên người lại làm cho hai người cùng phẫn uất mà chết, càng nghĩ càng thấy mình không phải rồi cũng tự tử nốt. Cả ba oan hồn xuống đối chất dưới diện Diêm-la, Diêm-vương xét rõ tình thực của từng người, tâu lên Thiên-đình xin định đoạt. Thượng-đế hỏi người đàn bà đối với hai tình ra sao, nàng tỏ ý đối với người xưa vẫn một lòng yêu mến vì đã bao năm nghèo khổ có nhau, đối với người sau cũng một dạ kính yêu vì đã có ơn chu cấp cho trong khi cùng quẫn. Xét rõ chỗ khó xử ấy, Thượng-đế liền hạ chỉ cho nàng được hưởng ơn đặc biệt, nhận cả hai người làm chồng và cho cả ba được làm Táo-quân, cùng xum-họp cả trong một nhà.

SỞ-BẢO


Thiếu một cây nêu
Của Tùng-Hiệp Mạnh-Quỳnh vẽ

Giời lạnh lắm !
Những hạt mưa bay phất-phới trùm lên cảnh vật núi non một bức màn u-ám, mịt mờ ! Ánh đèn điện trên bờ đường chiếu xuống mặt bể thành những vệt trắng dài – tuy giời mới về chiều chưa tối hẳn. Xa xa vài chiếc thuyền nhỏ bập-bềnh theo làn nước nổi trôi...
Cảnh Hồng-kông chiều nay chìm đắm trong một bầu giời lạnh lẽo. Những người đi lại trong phố phường có vẻ vội vàng để mau về được chốn gia-đình êm-ấm, khác hẳn cảnh mưa gió bên ngoài. Và ở giữa đám đông ấy có một người thu thu hai bàn tay vào túi áo,, chậm rãi bước một trên vỉa hè và đưa mắt lơ đãng nhìn cảnh vật bên ngoài với một bộ mặt thẫn thờ của một tâm hồn trống trải.
Chiều nay là chiều ba mươi Tết ở Hồng kông- một kinh-thành rộng rãi, đông đúc, sáng sủa vào bậc nhất Á-đông ! Mọi người ở đây vui quá phải chăng vì – khác người lữ-khách nọ - họ được ăn Tết trên đất nước quê hương ?
Tiếng pháo thỉnh thoảng lại nổi lên từng chuỗi ngắn. Những màu xanh đỏ rực rỡ huy hoàng toả ra qua những cánh cửa vừa sơn lại và mở rộng ra ngoài đường. Một mùi thơm của hương hoa, của trầm đốt làm say đắm lòng người !
Từng làn gió lạnh ở phía bể thổi vào. Người lữ-khách rẽ ra phía bờ bể để dạo qua xem buổi chợ hoa họp từ sáng thâu đêm - một đặc điểm về Tết của đất Hồng kông – và người ấy mua một bó hoa hồng trắng đẹp, trên cánh hoa còn nặng chĩu những hạt nước lóng lánh y như sương sớm lóng lánh dưới ánh mặt giời !
Người lữ-khách tay cầm bó hoa lững thững rẽ đám đông để trở lại nhà. Nhà đây là một gian phòng có ánh đèn êm dịu, có mùi hương đốt thơm thơm, có sắc hoa hồng rực rỡ, có rượu, có bánh, có thuốc lá, có trè Tàu, có đủ những vị cần để gợi một cái Tết y hệt Tết ở quê hương của người lữ-khách nọ !
Không khí hôm nay hình như có chứa một cái gì nặng nề khó thở. Gian phòng những bữa trước người lữ-khách cho là có đôi chút chật hẹp thì chiều nay chàng thấy nó rộng rãi bát ngát lạ lùng.
Mưa bay đập và chẩy thành dòng trên cửa kính.
Nặng nề bước một trong phòng, chàng muốn làm một cử chỉ gì mạnh mẽ để thoát được cái cảnh đè nén của tâm hồn lúc đó. Chàng mở tung cửa sổ và nhìn ra một thửa vườn con con. Ở đó có một cây dừa cao vót, một cây dừa gần chết với thân cây trơ trọi, những lá dừa đã sớm dụng theo gió đông rồi !
Nhìn thấy cây dừa nọ nổi bật lên da giời tím nhạt, một hình ảnh bỗng chạy qua óc người lữ-khách.
Nhi ấy sực nhớ đến cây nêu năm năm cứ mỗi lần Tết đến thường vươn mình đứng trước thửa sân ngay cửa nhà chàng. Cây nêu – linh hồn Tết của người An-nam – lúc này không có ở trước ngôi nhà chàng ăn Tết !
Tết đã đến rồi. Quê hương chàng xa lắm. Giời Hồng-kông lạnh lắm.
-    Chỉ thiếu một cây nêu.
Người lữ-khách hồi tưởng lại những cái Tết khi chàng còn nhỏ tuổi, khi còn nhởn nhơ sống những ngày êm đẹp vô-tư trên đất Việt-nam.
Hồi ấy mới lên mười hai tuổi, và đang lúc sống trong luỹ tre-xanh, mỗi lần Tết đến, xuân sang là lòng chàng lại nhộn-nhịp tưng-bừng cùng cây cỏ. Và cứ mỗi ngày 29 Tết là chàng lẽo đẽo theo cha chàng- một ông già gót sáu mươi tuổi đầu – ra sau vườn để xem ông lựa chọn trong rặng tre lấy một cây tre thật cao, thẳng, đẹp, chặt ngay từ gốc rồi phát hết mấu làm cho thân tre nhẵn lì, trên ngọn cùng chỉ còn lơ thơ vài chùm lá nhỏ. Ở ngay ngon, cha chàng buộc một cái vòng cũng bằng tre quấn lạt và vải đỏ. Ở quanh vòng ấy và ở những sợi dây dăng ngang dọc giữa vòng, cha chàng buộc những con cá, những chiếc khánh bằng sành nung đen sẫm, và những tua vải hồng hồng mỗi lần gió thổi lại nhẹ tung bay.
Cha chàng vác cây tre ấy ra giồng ở một nơi quang đãng sạch sẽ ngay trước nhà chàng. Rồi gió nổi lên ; những tua vải khẽ bay, vòng tròn quay lại, quay đi : các con cá, các chiếc khánh sành khẽ chạm vào nhau kêu leng keng như khúc nhạc.
Đó là một cây nêu!
Một cây nêu ! Chỉ có thế. Thật tầm thường giản-dị ! Nhưng đó là tất cả linh hồn chất-phác của dân quê, tất cả thi-vị say sưa của một mùa xuân, của ba ngày Tết...Tất cả một cuộc đời dĩ-vãng, tất cả những chuỗi ngày êm đẹp đã qua rồi...đã qua rồi ! Và không quay về được nữa !
Gió bể thổi dạt-dào ! Người lữ-khách buồn rầu đóng cửa sổ lại !
Trời lạnh... Trời ơi ! Lòng người trống trải, lòng người nhớ Tết, nhớ quê hương chưa đủ lạnh hay sao ?
Năm ấy, khi cây nêu đã dựng trước nhà và các chiếc khánh, các con cá sành đã bắt đầu leng keng lên tiếng, các tua vải đã tung bay trước gió thì đêm ấy cuộn mình trong chiếc áo bông dầy để ngồi sửơi  quanh nồi bánh chưng sôi sùng sục, cậu bé con mười hai tuổi kia đã khẽ hỏi cha già:
-    Cha ơi, sao cứ mỗi lần Tết đến cha lại giồng cây nêu để làm gì ?
Người cha hiền từ quay mặt lại nhìn con. Ông cầm chiếc điếu cày, cời một que lửa đỏ và làm tung những tia lửa lên cao, đoạn ông hút một hơi dài. Ánh lửa chiếu lên làm mặt ông hồng hào và mắt ông sáng quắc ! Những làn khói ông thở ra đặc sệt nhè nhẹ tan dần trong bóng tối với một màu bàng bạc của sương đêm... Ông đặt điếu xuống, vỗ vào vai con:
-    Cây nêu là tinh-thần ngày Tết của dân Annam. Không những thế nó còn là một cái di-tích của một thời-đại có lẽ hoang-đường nhưng không vì vậy mà kém phần thơ mộng...
-    Thật vậy sao cha ?
-    Phải, phải ! Thời ấy, người ta còn ở trong các khe đá, ăn toàn đồ sống, không mặc áo quần ! Người ta phải luôn luôn vật lộn với đất giời và các thú dữ ! Người đời xưa hầu như không biết sợ, vì giời mưa, nắng, bão táp, người ta đã có hang hốc để ẩn mình. Để chống lại và săn bắn thú dữ người ta đã có khí giới sắc làm bằng đá mài và cung tên, giáo mác làm bằng thân cây vót nhọn. Cuộc đời lúc ấy nếu chỉ có thế thì đẹp đẽ biết bao.
Nhưng buồn thay...
Buồn thay người thường cổ luôn luôn phải giữ mình vì khắp trên mặt đất hồi ấy đều có những giống ma-vương quỷ-sứ ngày ngày đi lùng khắp mọi nơi để bắt giống người về ăn thịt ! Người ta lo lẩn tránh, nhưng số người bị giết ngày một tăng thêm. Các hang động hâu như không còn ai ở nữa và mỗi vhiều khi bóng tà chìm dân xuống đầu non thì trong các khu rừng và trên các đường đá cheo leo giữa núi không một ai dám qua lại.
Sự khốn khổ của loài người lúc ấy may thay bỗng lọt vào mắt một người có phép thần thông quảng đại.
Người đó là đức Phật Thích ca. Ngồi trên toà sen chói lọi, ngài giương cặp mắt tinh thông ra  và nhìn rõ thấy cái nguy nan của người đới đang vì sự tàn ác của giống ma-vương quỷ-sứ mà dần dần đi tới sự diệt-vong.
Đức Phật buồn rầu ! và một lòng thương nhân-loại bỗng tràn ngập lòng ngài...
Người đứng lên và từ toà sen nhẹ nhàng bước xuống. Cõi trần bỗng chói lọi sáng ngời và đầy một mùi thơm ngào ngạt.
Đức Phật bước xuống trần. Các ma-vương quỉ-sứ đã từng biết phép thuật cao-siêu của ngài vội vã xô lại gần để ngăn cản. Nhưng hào quang ở người phát ra làm cho lũ quỷ không cất nổi bước. Vua Quỉ đành đứng từ xa hỏi lại:
-    Đất này là đất của chúng tôi ! Ngài xuống đây định làm gì ?
Đức Phật điềm tĩnh trả lời:
-    Ta muốn mua lại một mảnh đất con con của nhà ngươi !
Vua quỷ lắc đầu:
-    Đất cùa Ma , Quỉ chúng tôi không bao giờ bán cho ngài.
Đức Phật mỉm cười:
-    Ta chỉ cần một mảnh đất thật nhỏ mà thôi. Bằng một tấm áo Cà-sa này chẳng hạn. Ta sẽ trả lại cho các ngươi rất nhiều vàng bạc châu báu.
Vua quỷ vẫn không ưng:
-    Không, không !
Đức Phật giơ tay ra phía trước vẫy liền ba cái và bảo:
-    Các ngươi thử nhìn đây kia !
-    Dãy núi đen sì hồi nãy  giờ đây bỗng biến thành những núi vàng bạc kim-cương. Ánh mặt giời buổi sớm rọi vào đónhững ánh lửa hồng và làm lấp lánh ngàn vạn tia sáng rực trời. Lũ quỷ hét lr6n:
-    Trời ơi ! Núi vàng ! Chúng tôi bằng lòng bán đất. Xin đức Phật giải áo cà-sa ra để lấy đất.
Đức Phật nhẹ nhàng cổi chiếc áo cà-sa như-ý và vứt tung ra. Tức thì sấm sét nổi lên và chiếc áo bỗng trở nên rộng nhớn và lan ra bao trùm khắp mặt đất. Lệ đã định rồi: chiếc áo cà-sa của đức Phật che đến đâu thì lũ quỉ phải xa nơi ấy. Bởi vậy trên mặt đất ma vương quỉ-sứ không còn chỗ nương thân. Chúng căm hờn vô hạn và năm năm cứ đến ngày ba mươi Tết, chúng lại trở về tràn khắp mặt đất để lẫn lộn vào các vong hồn khác để đi cướp những đồ lễ cúng bái. Các vong-hồn tuy nghe lời khấn của con cháu để trở về hưởng lễ mà vì vậy cũng chẳng được ăn gì !
Thấy vậy đức Phật lại hiện lên và bảo nhân dân:
Hãy nêu lên một cây tre cao có mảnh khánh buộc ở trên để tỏ ra rằng đất này là đất Phật. !
Ai nấy vội nghe lời. Những cây nêu từ đó Tết Tết bắt đầu thi nhau vươn mình trước ngọn gió xuân. Và các vong hồn lại được yên vui giở về gia-đình cũ để nhìn thấy con cháu, để hưởng những lễ phần và để ngắm lại những nơi êm đẹp xưa kia mình đã sống...
Đêm đã khuya rồi ! Sương mù nổi lên mờ mịt che gần hết những ngọn đèn điện. Mặt biển không còn lấp lánh những vệt sáng dài...Tiếng còi tầu chốc chốc lại nổi lên. Các tiếng pháo vẳng từ xa đưa lại mỗi lúc một thưa dần.
Những mẩu thuốc lá nhiều thêm trên đĩa sứ. người lữ-khách đưa tay lên vuốt mái tóc rồi đứng dậy đi lại trong gian phòng. Hết đi dọc lại đi ngang, người ấy ngồi xuống ghế ngửa mặt lên nhìn chao đèn đang có một ngọn gió vô hình lay động.
Hình ảnh cây dừa trơ trọi ngoài vườn vẫn đeo đuổi người lữ-khách.
Xa nhà, xa đất nước, người lữ-khách buồn bã nhớ cây nêu. Không phải lần này là thứ nhất chàng có cái chán nản của tâm hồn ấy. Chí giang hồ đã thấm vào linh hồn chàng tự lâu.
Hơn một lần rồi, giữa những ngày đông lạnh lẽo của một năm tàn tạ sắp qua, trong những đám mưa bay, sương mù bao toả, trên những con đường đất lội nặng nề chàng đã đóng vai người khách bộ-hành điềm-tĩnh ra đi để vẩn vơ nhìn biết bao nhiêu người khách bộ-hành khác đi trong mưa lạnh mà lòng không lạnh. Vì hơn chàng, họ có một gia đình !
Cứ thế và cứ thế...bao nhiêu ngày ba mươi Tết đã qua. Và mỗi một lần một năm qua chàng lại nhớ đến cây nêu ! Những cây nêu vô tình một cách lạ . Chúng rung động đều đều trong mưa bay, trong sương toả. Những lần đóng vai khách bộ hành như thế chàng tưởng như không cất nổi bước chân đi ! Chàng muốn dừng lại để lặng lẽ nhìn cây nêu, lòng dường như thầm nhủ :
- Gió ơi đừng rung động cây nêu. Tiếng khánh cũng đừng vang lanh lảnh để cho ta đỡ nỗi nhớ nhà...
Giờ đây lại một lần nữa năm sắp hết, chàng lại ăn Tết xa quê...
Người lữ-khách đứng lên, ngồi xuống !
Phải chăng người ấy đã để lại ở quê hương cũ một người cha già ốm yếu, một bà mẹ hiền-từ ngày ngày tựa cửa chờ con...
Hay chàng đã để lại ở quê-hương cũ một người vợ thảo với một đứa con xinh đêm đêm thao thức tưởng nhớ người xưa.
Hay chàng đã để lại một người tình dịu dàng, đằm thắm mỗi lúc sự nhớ nhung đè nén tâm can chỉ còn biết nhìn gió mưa mà lặng lẽ thở dài ?

Người lữ-khách lặng lẽ thở dài...
...Vì chàng biết rằng trong khi ấy ở cách đây xa, xa lắm, những cây nêu vẫn điềm nhiên rung động các khánh sành tiếng vang lanh lảnh...để đem lại cho lòng  trăm ngàn người khác những giờ vui vẻ đầm ấm của ngày Tết, của buổi xuân sang, của những giờ họp mặt nào anh em, chú bác, cha mẹ, con cháu, vợ chồng cùng xum họp trong những gia-đình êm ấm mà cỏ cây, non nước của mùa xuân mới dường như đang hứa hẹn một tương lai đầu dẫy những ngày vui đẹp, thắm tươi...
Xa xa pháo nổ từng hồi. Một năm nữa lại qua...
Mai kia đây thành phố Hồng-Kông lại nhộn nhịp tưng bừng thản nhiên sống những ngày mới chan hoà ánh sáng.
Nhưng người lữ-khách thiếu quê hương kia vẫn trơ trọi một mình, “đi đầy” ở giữa cảnh huy hoàng lộng lẫy của thị thành mà tâm hồn thì tràn ngập những hình ảnh người thân xum họp trong một gia đình êm ấm...
Mưa nặng hạt rồi...
Lòng nặng lắm rồi...

TÙNG-HIỆP



NHỮNG PHONG TỤC LẠ  trong ba ngày Tết ở khắp trong nước

Trên thế-giới này, từ các dân tộc dã man, bán khai cho đến các dân tộc cực điểm văn-minh, đã biết chia ngày, giờ ra làm tháng, làm năm, lấy năm làm một cái mốc để đánh dấu trên con đường đi của thời-gian, hết thảy đều có tục ăn Tết trong lúc năm cũ đã qua nhường chỗ trên khoảng thời-gian cho năm mới. Người ta thường lấy những ngày đầu năm làm những ngày vui mừng nhất có thể nghỉ ngơi, ăn chơi cho thoả-thích sau một năm làm việc khó nhọc. Giữa những ngày xuân tươi đẹp đó, người đời ai cũng như thấy mình có quyền tạm nghỉ chốc lát sau 365 ngày cần lao như một người đi đường đến một cái trạm dọc đường, có quyền nghỉ chân vậy.
Ở nước ta, tục ăn Tết Nguyên-đán có từ thời lập quốc mấy nghìn năm về trước, hoặc trước nữa, khi dân ta mới nhóm thành những bộ-lạc nhỏ ở giữa những thung-lũng, hoặc trong rừng núi. Ta cứ xem ngay hồi Hùng-Vương ở ở nước ta cũng đã có tục ăn Tết bằng bánh chưng bánh dày. Một cái tục mà dân ta vẫn giữ cho đến mãi ngày nay và vẫn coi là một tục đáng bảo-tồn mãi mãi. Ta có thể nói phong-tục là một đặc tính của một dân tộc, một xứ. Ngay trong một xứ, một dân tộc, như dân tộc Việt-nam ta cũng có nhiều nơi mà phong-tục khác nhau nên tục ăn Tết Nguyên-đán cũng khác hẳn nhau.
Những tục đó là do tập-quán hoặc di-truyền gây ra, người ta vì tôn-giáo hoặc vì óc bảo-tồn cổ-tục nên vẫn giữ nguyên từ đời này qua đời khác.
Ba ngày Tết đối với dân ta không những là những ngày nghỉ ngơi, vui chơi trong một năm mà lại còn là những ngày thiêng-liêng biểu-hiện cho tinh-thần gia-tộc. người Việt-nam ta từ xưa đến nay vẫn cho ba ngày Tết là những ngày con cháu tỏ lòng nhớ đến tổ-tiên ông cha - những người đã có công với gia-đình. Những nén hương nghi ngút, mùi thơm ngạt ngào, những đèn nến sáng trưng rọi vào những đồ thờ bằng đồng đánh sáng bóng hoặc bằng gỗ sơn son thiếp vàng, tất cả những thứ đó bày một cách có thứ tự trong một cảnh lộng-lẫy hoặc giản-dị, tuỳ từng nhà một, nhưng dẫu sao cũng giữ một vẻ rất trang-nghiêm, tĩnh-túc để tỏ lòng thành kính, tưởng nhớ đến những người đã quá-cố trong gia-đình.
Đó là cái cảnh bàn thờ của một gia-đình đặc Annam trong ba ngày Tết, một cảnh đặc-sắc nhất của gia-đình Việt-nam đã làm cho tất cả người Việt-nam mỗi khi trông thấy như nghĩ đến tổ-tiên, những lúc ở nơi đất khách phải nghĩ đến quê hương, làng nước và phần mộ, ông cha.
TẾT, đối với người Nam không những là “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ, nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh” mà lại còn có vẻ thiêng liêng nhắc lại cho người Nam nhớ đến tinh-thần gia-tộc.
Cũng vì thế mà đối với phong-tục về Tết, hàng trăm, hàng năm, người ta vẫn bảo-tồn không muốn bỏ. Nhân dịp “Trung-Bắc Chủ-Nhật” ra số Tết về năm Tân-Tỵ chúng tôi có mở cuộc điều tra về những phong-tục lạ trong ba ngày Tết, được nhiều bạn đọc ở khắp ba kỳ rất hoan nghênh. Những thư của các bạn đọc gửi về giúp chúng tôi về cuộc điều tra đó rất nhiều không thể nào đăng hết lên báo được, chúng tôi chỉ lựa chọn những bức thư nói về những phong tục lạ nhất để làm món quà quí tặng các bạn đọc thân yêu vậy.
T.B.C.N
 

Tết Hanoi

Bắt đầu từ mùng một tháng Chạp đã thấy ở Hàng Bồ và chợ Đồng-xuân la liệt những hàng tranh và hàng thuỷ tiên, ấy là chưa kể tháng trước, các phố hàng Ngang, hàng Đào đã tấp nập những người mua the, lụa, gấm vóc, giầy giép, để may mặc về dịp Tết sắp tới. - Rồi đến ngày hai mươi ba, là ngày ông táo lên chầu trời. – Sáng sớm đã nghe bên tai văng vẳng những tiếng rao: “Ai mua cá ông Táo ra mua” Đến trưa, trong nhà đã thấy có mũ áo ông Táo và đã thấy cúng. - Nếu bước chân ra phố thì thấy quang cảnh rất là nhộn nhịp, nhất là mưa xuân đã thấy lớt phớt bay và hai bên bờ hè cùng giữa đường, hồi đó chưa giải nhựa như bây giờ, nên bùn lầy lõm bõm, làm cho sự đi lại rất khó khăn bẩn thỉu, tuy vậy mọi người vẫn chen chúc nhau giữa đường bùn lầy để sắm Tết. Từ ngày ấy các hiệu thợ cạo đã bắt đầu tăng giá ; các cành đào đã thấy vác bán rong ngoài phố và các hàng hương, hàng pháo đã thấy bày đầy hè ở các phố hàng Giép, hàng Ngang, hàng Đường, - Rộn rịp như vậy cho mãi đến trưa ngày 30. Phải chỉ đến chưa, chứ không đến chiều hôm 30 như bây giờ vì chiều hôm 29, đi chơi qua các phố ta đã thấy lắm nhà đặt cánh cửa ra ngoài đường, rội nước để rửa cọ. Sáng ngày 30 đã có nhiều nhà dán hai câu đối ở hai bên tường, và cánh cửa. Đến trưa ba mươi đã có nhà đốt pháo đón ông vải về ăn Tết rồi.

Về cái tục dán câu đối ở tường và cánh cửa hồi đó rất thịnh hành, đi ngoài phố, trông vào nhà nào cũng chói lọi câu đối thì một màu đỏ rực, và nếu nhà nào không có, trông có vẻ trơ trẽn hình như thiếu thốn một cái gì. Nhất là theo tục nhà nào có đại-tang thì không dán câu đối đỏ vì vậy nhà nào không có câu đối dán cửa mấy hôm Tết thường bị coi như nhà có tang.
Sau vì báo hô hào cổ động bỏ lối chơi câu đối ấy viện lẽ câu đối làm bằng giấy hồng điều mua của người Tàu như vậy là “gánh vàng đi đổ sông Ngô” cho nên ngày nay, về dịp Tết, trong trăm nhà, hoạ ta mới thấy một hai nhà chơi câu đối thôi.
Chiều ba mươi khi trong các phố đã bật đèn, thì phố đã gần như vắng tanh, trong nhà đèn nến sáng chưng trên bàn thờ, và con cháu đã quây quần chung quanh ông bà , cha mẹ.
Vào quãng tám, chín giờ đã thấy tiếng súc sắc, súc sẻ hoà với tiếng ống tre đựng vài đồng xu đập trên mặt đất, của những kẻ nghèo đi chúc Tết kiếm xu từng nhà. Lúc bấy giờ là lúc người cha hoặc người con trưởng khăn áo chỉnh tề lên lễ trước bàn thờ ông vải rồi ra đi, trong túi dắt sẵn bao diêm với bánh pháo. Đi đâu ? Đi lễ Giao-Thừa. Đi ra đình để hội họp với các ông bạn cùng một mục đích như mình, chờ giờ tốt lành trở về nhà xông đất. Nếu không phải là dân đình nào thì họ ra đền Ngọc-Sơn, Bạch-Mã v.v. đứng xem tế để chờ giờ Giao-Thừa về nhà. Khi người cha hoặc người anh ra đình, hoặc chùa hay đền vắng, thì ở nhà cửa đóng hẳn không một ai được ra vào, dù có thiếu vật dụng gì, đi mua cũng không được.
Lễ Giao-thừa, thường thường bằt đầu từ 12 giờ đêm. Đến giờ đó các đình, chùa và các tư gia đều đèn hương chỉnh tề, và tiếng pháo bằt đầu nổ, tiếng xa tiếng gần nghe thật vui tai. Lúc bấy giờ là lúc trong các đình các đền bắt đầu tế lễ. Tế xong ai về nhà nấy xông đất. với vẻ mặt hoan hỉ người ta đi tế lễ về lúc này mới gọi cửa lấy diêm ra đốt pháo, và làm lễ ông bà ông vải, chúc mừng ông bà, cha mẹ vợ con, anh em, xong xuôi cả nhà quây quần ngồi ăn mâm cỗ đã làm để cúng giao thừa.
Sáng mộng một, dù cho co muốn ngủ trưa cũng khônmg được, chưa mở mắt đã nghe thấy tiếng pháo nổ ran khắp mọi nơi mà pháo đốt càng lúc càng nhiều, nhất là về buổi trưa pháo đốt càng dữ hơn cho mãi đến 7,8 giờ tối mới ngớt. Sáng hôm đó ai nấy đều cố hết sứclàm ra vui vẻ, dễ tính, vì theo tục năm mới phải kiêng mọi sự không hay: kiêng xô sát kiêng nói tục, kiêng cứng đầu cứng cổ v.v.
Đêm giao thừa đã xông đất rồi, thì hôm nay có thể mở cửa đón khách. những người khcáh tới trước tiên thường thường là đôi vợ chồng trẻ gánh nước trên vai, đi ngoài đường thấy nhà nào mở cửa là tự do tiến vào, miệng chúc câu : “Năm mới vợ chồng tôi chúc ông bà năm nay của vào như nước”. Chủ nhà hoan hỉ, vui mừng, để cho cặp vợ chồng người gánh nước đổ vào chum, rồi mở hàng cho vợ chồng người gánh nước, răm bảy xu một hào, lại đèo thêm miếng giầu điếu thuốc. Nhưng không phải hàng nước nào cũng vào nhà được đâu. Nếu đi gánh nước một mình với bộ áo rách rưới, bộ mặt rầu rầu thì đừng màng chủ nhà mở cửa cho vào.
Sau hàng nước đến các người ban thiếp. Tay cầm một tập giấy hoa tiên viết mấy chữ “Cung chúc tân niên”, “Nhất bản vạn lợi” tiến vào miệng cũng chúc câu: Năm mới...
Trong khi đó ở ngoài phố, như hàng Ngang hàng Buồm chẳng hạn thì có tụi Khách đến trước cửa từng nhà đánh trống thổi kèn tầu chúc mừng. bọn này thường được chủ nhà phần nhiều là khách ở những phố đó phong bao rất hậu.
Trong các gia đình. mỗi người một việc, vợ trông nom nấu nướng cỗ bàn, chồng đèn hương bàn thờ. Công việc xong xuôi chồng đi lễ và đáp lễ, vợ ở nhà tiếp khách, và các con thì đi chơi chùa, cứ rộn rịp như vậy suốt ngày.
Tối đến cả nhà ngồi quây quần nói chuyện hay đánh tam cúc.
Mồng hai, mồng ba cũng như mồng một, nhưng kém vẻ rộn rịp, tấp nập và tiếng pháo cũng thưa dần, tuy vậy Tết vẫn kéo dài tới mồng bảy là ngày hạ cây nêu ở chốn thôn quê.
Ngay bây giờ cái Tết cũng không khác mấy cái Tết 20 năm về trước, tuy lòng người ta, vì luật tiến hoá đã thấy coi thường cái Tết, nhưng tục lệ về Tết vẫn còn, các sở vẫn được nghỉ ba ngày và vẫn được vay trước nửa tháng lương, các nhà buôn vẫn kiêng kỵ cẩn thận, vẫn chọn ngày tốt lành để mở cửa hàng, và Pháp-luật vẫn thấy nới tay trong mấy ngày Tết nghĩa là ba ngày trước Tết và bảy ngày sau Tết không cho tống đạt hoặc thi hành bản án nào cả.


TÙNG-QUÂN


TẾT TÂY Ở TA

Cũng như người mình, cứ về cuối năm người Âu cũng rộn rịp, sắm Tết một cách bận rộn.
Hiện này chiều 31 cuối năm đã nghe thấy tiếng pháo ở một vài nhà ở các phố tây. Tuy không có những tục kiêng như mình, nhưng những người vui vẻ, ăn nói có duyên những câu chúc tụng bao giờ cũng vẫn được hoan nghênh. Bởi vậy nên hôm Tết thường thấy có những chúc từ của con cái đọc để tán dương công đức của ông cha.
Tết của người Âu có ba cái đặc điểm sau này: quà Tết, đi lễ Tết và gửi danh thiếp ngày Tết.
Quà Tết
Bây giờ trở thành một cái lệ chung bên Pháp, và thường thường là của người nhớn cho trẻ con, người già cho người ít tuổi và người trên cho kẻ dưới. Các người nhận được quà không cần phải biếu trả lại. Quà Tết thường là hoa, là kẹo là sách hay đồ vật gì quí giá.
Quà Tết bắt đầu có từ đời vua Tatius Sabinus ở La-Mã. Nguyên là nhà vua muốn lấy may mới nhận của dân biếu những cành cây Mỹ-nữ-anh lấy ở trong rừng cấm của nữ thần Strennia. về sau người ta mới đổi những cành Mỹ-nữ-anh bằng mật ong, chà là, và có ý cho là mong người thân được cái ngọt cái vui trong suốt năm. rồi dần dần người ta thay các thứ kể trên bằng tiền, bằng mề-đay bạc sau rốt bằng các vật quí giá bay giờ.
Đi lễ Tết
Các người làm công thường chúc Tết ông chủ vào ngày trước Tết hay buổi sáng hôm mồng một Tết. Nhưng chính ra hôm mồng một chỉ dành riêng cho các người trong họ và bạn thân, còn các người thường thì trong suốt tháng giêng ngày nào đến chúc cũng được.
Danh thiếp
Danh thiếp.- Danh thiếp thường người chưa vợ hoặc góa vợ gửi trước cho những người có vợ, đàn ông phải gửi trước cho đàn bà, người trẻ phải gửi trước cho người già, người dưới phải gửi trước cho người trên.
Ai nhận được dt phải gửi lại đáp lễ ngay, nhưng một người đàn bà hay thiếu-nữ có thể miễn gửi đáplễ một người con trai chưa vợ.
Gửi danh thiếp bao giờ  cũng phải gửi trước ngày Tết để có đủ thì giờ để cho người ta gửi đáp lễ trả lại. Hiện nay, cứ đến Tết Nguyên-đán dương lịch hay Âm-lịch ở thành thị có nhiều người đã bắt chước người Âu cũng tặng quà Tết, đi chúc Tết, lễ Tết và rất sính gửi danh-thiếp chúc Tết.
Nhưng trong việc in danh-thiếp và những chữ đề trên danh-thiếp cùng cách gửi danh-thiếp nhiều khi rất là lố lăng, buồn cười. Có người trên tấm danh-thiếp vuông hay chữ nhật nhỏ xíu đề đặc đến hàng trăm chữ kể rõ cả đến gia thế, chức nghiệp, phẩm tước, hình như tấm danh-thiếp là vật để khoe khoang những cái “bám vào người” cho công chúng và mọi người đều biết. đã dùng danh-thiếp thì phải theo đúng phép xã giao của người Âu là in danh-thiếp chỉ cốt tên họ, chỗ ở và nếu muốn thì nói một cách rất giản dị về nghề nghiệp, phẩm tước mà thôi.
(Ảnh:  Đi lễ Tết: Mấy cô thiếu-nữ ăn mặc áo quần rực rỡ đang cùng nhau vui vẻ đi lễ Tết)
ĐÀM-KHÁCH

TẾT TA Ở TÂY
của NGUYỄN-HOÀNG    Tranh vẽ MẠNH-QUỲNH
Đây là một bức di-bút của ông Nguyễn-Hoàng đã gửi cho  một người bạn chúng tôi là Yên-Sơn.
Bạn Yên-Sơn có lòng yêu để chúng tôi đăng-tái lên T.B.C.N. là có ý muốn tặng độc-giả một món quà đầu năm của một thanh niên hiếu học đã mệnh một ở dưỡng đường Villeneuve vì nghèo khổ quá nên đã bị trùng lao đục nát hai buồng phổi. Ông Nguyễn-Hoàng đã sống với dân nghèo. Ông đã ăn Tết ở Paris với họ, ông cùng cảm như họ cho nên tuy bức thư này đề từ 1935 mà ta vẫn thấy lúc nào cũng hợp thời. Ở đời nay lúc nào còn người nghèo khó vui cái vui của người khác thì những cái Tết như Tết của ông Nguyễn-Hoàng  kể lại đây bao giờ cũng làm rung động những bạn có một tấm lòng nhân đạo. T.B.C.N.
Anh muốn biết cái Tết của dân nghèo – nghèo đến mức thiếu ăn, thiếu mặc ở Paris? Anh muốn biết cách tổ chức những việc nghĩa làm vào dịp ấy để lấy tiền mua đồ ăn, thức dùng cho đám dân nghèo của mấy hội từ-thiện hay của một cơ quan ngôn luận ở Paris (như một tờ báo của Saigon mấy năm gần đây quyên-tiền độc-giả trồng Cây mùa xuân (Arbre de Noel) để mua đồ ăn, đồ chơi cho bọn trẻ nghèo ?
Tôi rất lấy làm mừng khi thấy cái anh muốn cũng là cái tôi muốn mà chưa có dịp nói ra. Anh phài tin lời tôi nếu anh còn nhớ ngày tôi ở chung với anh trên một căn gác đường hẻm Pellerin, Saigon đầu năm 1930, từ chập tối đêm 30 Tết. vì chịu không nổi cái vui ầm-ỹ - vui bằng những tràng pháo, trận cười của những người hàng xóm ưa động, tôi phải đi ẩn-tránh vào Sở-thú ngồi đến khuya đợi giờ thiên hạ ngủ mới về.
Nhớ lại cái Tết ấy, năm nay tôi muốn làm quà cho anh một cái Tết ở Paris.
Nhưng tả cái Tết huy hoàng, rực rỡ của dân ăn chơi ở Paris thì trước tôi, trên mặt báo Tây Nam của xứ sở, đã có người tả nhiều rồi.
Không biết làm ăn ra sao cả và một người bạn bỏ đi về vùng ngoại-ô, cách kinh thành 8 cây số, ví đây nếu không là chỗ trú ngụ thì cũng là nơi lui tới của dân nghèo.
Chúng tôi đi bằng xe taxi. Xe chạy độ nửa giờ thì đến. Xe ngừng trước vườn hoa “Les Innocent” cách khách sạn Fradin lá khách sạn của dân nghèo, giá tiền trọ mỗi người chỉ có 5 xu, chừng vài trăm thước. Bạn tôi đã có lần đến chơi đây đi trước dẫn đường.
Trong lúc ngồi xe, chúng tôi đã định rõ mục-đích cuộc “thám hiểm”.
Bấy giờ độ 9 giờ. Còn sớm thế mà khách sạn của lão Fradin đêm nay đã đông khách. Nói là khách sạn cho sang chớ mấy gian nhà gác bẩn thỉu tồi-tệ của lão chẳng có gì chỉ được cái rộng đủ chỗ cho 6,7 trăm người nằm ngủ ôm lấy lưng nhau, và quí ở chỗ chủ nhân biết trọng người.
Vào thời tiết này, anh phải biết cái lạnh ở Paris, đêm nào về khuya, tuyết cũng phủ trắng mái nhà, ngọn cây, mặt đường. Mình đi ra ngoài bận thứ quần áo dạ thứ dày, ngoài khoác áo len dầy, cổ quàng khăn thế mà còn thấy lạnh còn phải xuýt-xoa cò-rò...
Rồi anh nghĩ đến cái khổ quần áo không có đủ mặc bánh không đủ ăn của đám dân nghèo ở đây...
Nhưng tôi không muốn nói ra ngoài đề. Trước cửa khách-sạn còn mở hé vừa đủ cho một người đi, đi bách-bộ có đến 50 người, hết thảy là đàn ông, từ 20 đến 50 tuổi, người được lành cái quần thì rách cái áo, áo rách hở cả lần lót, quần không rách thì cũng vá bằng đủ các thứ vải, vá dúm-dó như cái bị, giầy- toàn thứ giầy của thửa không há niệng thì cũng hở gót.
Họ đút tay vào túi đi khom lưng như ông già, hai hàm răng run lập-cập. Chốc chốc lại đưa mắt ngó quanh và hết nhìn những cửa sổ có ánh đèn dầu trên gác lại nhìn cánh cửa mở hé ở bên đường.
Không cần hỏi, tôi cũng đoán hiểu ý muốn của họ- và tôi cứ việc đến gần tấm bảng nhỏ treo trên mặt cửa vào ra- tôi đọc thấy: “Nhờ lòng từ thiện của ông X. và bà Y. 10 giờ đêm nay ở đây có phát quần áo và đồ ăn”.
Vừa thấy mắt chúng tôi- dân nghèo đã tranh nhau đến ngửa tay- chúng tôi chỉ giữ đủ tiền về xe còn bao nhiêu lấy chia cho họ cả.
Số tiền chẳng được bao nhiêu nhưng chúng tôi cũng được vui lòng vì đã giúp năm, bảy người được số tiền trọ.
Khách sạn mỗi lúc một đông, đông đến nỗi người gác cửa thỉnh-thoảng lại phải nhắc chừng bọn xấu số, giờ khách sạn đóng cửa – 10 giờ kém 15 phút.
Họ còn đợi gì nữa ?
Đêm nay nào phải như mọi đêm - mọi đêm người ta ăn chán, chơi chán, rồi không biết làm gì mới tìm đến khách sạn tìm xem cho biết hạng người ngợm của kinh-thành ánh sáng. Đêm nay, đêm vui nhất trong một năm của người-ta, người-ta thiếu chi cách giải-trí, thiếu chi cách mua vui mà phải đến đây để chứng-kiến những cảnh tội-nợ của đám dân nghèo !
Nhìn họ, tôi thấy đã có lắm người để lộ sự thất-vọng ra nét mặt và có người nhăn-nhó như muốn khóc.
Tôi không có can đảm nhìn lâu những dân “trời đầy” ấy.
Tôi phải quay về phía trong khách sạn nhìn đám người đang chuyện nở như pháo rang, đang khoan khoái đợi chờ giờ bố thí.
Nhưng tôi cũng không sao dẹp được sự thổn-thức trong lòng...
Chẳng muốn để tôi suy-nghĩ vì những cái không đâu – nói theo lời bạn tôi - bạn tôi liền kéo tay tôi đi chỗ khác.
Và cao hứng, anh ấy lại thuyết-lý một thôi dài.
-    “Với cái thói nàng Kiều của anh thì đứng đây lát nữa anh sẽ phải khóc. Phải khóc trước cánh cửa đánh ngay sát mũi của mấy chục người ấy. Không có tiền thuê trọ, hoặc có nhưng đến chậm quá, rối những người cơ-cầu ấy muốn tìm một chỗ kín đáo để ngủ sẽ phải đi đâu? Đi đâu cho khỏi bị lính tuần-cảnh xô đuổi!
Dưới gầm cầu, trong xó chợ trên ghế xanh ở phòng đợi khách của nhà ga, thì quanh-quẩn họ, chỉ biết tìm đến mấy nơi này !
Nhưng ở đây - chỗ ba-vạ - họ có mong gì ngủ được yên ? Anh còn phải não lòng hơn nữa nếu anh được thấy cảnh những con ma đói đứng nối đuôi nhau trước cửa một dạ-lữ-viện chầu-chực lấy một chỗ-ngủ, một chén cháo.
Cùng cảnh đói-khổ đáng-lẽ họ phải thương nhau, nhưng một khi họ bị đầy đến bước đường cùng, họ đâu còn biết nghĩ thế, rồi vô-tình họ đã bày nên cảnh tương-tàn, tương-hại. Kiệt liệt không khác gì chó đói tranh xương.
Rồi họ đánh-chửi xâu-xé nhau thường chỉ vì một chỗ ngủ. Và 10 lần như một, muốn tìm cách giải-hoà lính tuần-cảnh cũng phải can thiệp mà can thiệp tức là dẫn các anh về bóp. Về bóp thì các anh có coi ra mùi mẽ gì ! Về bóp còn được chỗ ngủ ấm hơn ở ngoài...”
Tôi vẫn chăm-chú nghe, bạn tôi lại nói tiếp:
Còn nhớ một đêm, cũng là đêm cuối năm thì phải, đi qua cửa dạ-lữ-viện  đường Aix, tôi được chứng-kiến tấn thảm kịch này:
Một bọn chừng bảy, tám ngươi đứng nối đuôi nhau, phần đói, phần rét nên trông sắc mặt và  điệu bộ ai nấy cũng như người chết giá: mắt lờ đờ, môi lập cập thế mà vươn cổ chăm chú nhìn tấm bảng treo trên mặt cửa mở hé.
Bảng yết: “Dạ lữ viện chỉ còn sáu chỗ”. Nhưng ở đây họ có đến bảy, tám người thì biết làm sao ?
Người đứng sau rốt lại là ông già - ông lo buồn lộ ra sắc mặt, ông cứ chòng chọc nhìn chàng trai trẻ ở hàng thứ năm.
Người thứ tư vừa bước vào, cửa chưa mở rộng chàng trai trẻ đã toan bước lên, thì vụt một cái ông già đã giật được mũ chàng và ném tung ra đường cái.
Chàng trai-trẻ mất mũ vội chạy đi tìm, lúc trở về chỗ cũ thì cửa đã đóng.
Thế là chàng bị mắc mưu ông già.
Ông già xem khuôn mặt không có chi ác, mà bảo xấu chơi như thế được.
Nhưng ở đời, có ai học đến chữ ngờ.
Ai chịu xét đến nguyên-nhân sự làm ác của ông già để dung thứ cho ông ?
Thử hỏi: nếu không phải tranh nhau vì chỗ ngủ thì ông đâu có chơi ác ?
Rồi quanh quẩn người ta vẫn nói xấu ông già cững bởi người ta không ai chịu nghĩ: Ta chỉ có thể nói chuyện đạo đức nhân nghĩa khi ta không phải lo thiếu thốn một thứ gì...
... Ngoài ra bạn tôi còn cho biết số dạ-lữ-viện  có trên hai chục mà quá nửa lập nên nhờ lòng từ thiện của tư-gia.
Hai mươi Dạ-lữ-viện  mà còn chưa đủ chứa số dân nghèo của Paris thì ra số này nhiều vô kể, nhiều đến nỗi đwêm nào dưới gầm cầu, trong xó chợ lúc nhúc có hàng trăm người ngồi.
Hàng năm Tết đến, đêm têt như đêm nay các dạ-lữ-viện  của tư gia muốn cho cái đêm vui chung của mọi người, bọn xấu số cũng được vui, vui chút ít- nên viện nào cũng tổ chức cuộc bố thí rượu bánh.
Thì chẳng lẽ trong lúc mọi người đều có Tết anh em lại không có Tết sao ?
Phải làm vậy cho anh em được vui cười, chè chén lấy một ngày chớ ? Rồi ra có phải khổ mấy, nhục mấy anh em cũng cam lòng !
Bởi ai cũng nghĩ vậy nên hàng năm đến đêm này trước cửa dạ-lữ-viện mới có hàng trăm người đứng chờ với những nét mặt hốc hác, thảm sầu.
Bấy giờ đã quá mười giờ.
Nhờ quen chủ-nhân chúng tôi mới được phép vào.
Tiệc ăn vừa xong. Họ có trên 100 người đang ngồi bao vây lấy một ông già; kẻ khoanh tay, người chống gối, ai nấy đều có vẻ cảm phục ông già lắm.
Ông già trên tay khoác cái áo redingote , thứ áo cổ lỗ sĩ - áo dùng lâu đến nỗi bạc cả mầu, mất cả cổ, sờn cả tay và rách lỗ chỗ như tổ ong bầu. Ông đứng gác chân lên thềm gạch, và bằng một giọng kẻ cả ông thong thả lên tiếng:
Đêm ấy cũng là đêm cuối năm (31 Decembre 1918), chúng tôi ở ngoài mặt trận chẳng còn biết Tết là gì, chúng tôi cứ làm việc như thường, làm việc ở dưới hầm gần Arcueil chỗ này cách trại của địch quân không xa.
Chẳng có gì ăn Tết mà nghe nói địch quân thì thừa ăn, thừa uống. Chúng tôi mới bàn nhau quyết đêm ấy đi phá đám.
Đến nơi, cách chừng vài thước, chúng tôi mới cho súng nổ đều một lượt, quân địch đang vui vẻ ăn uống , bỏ chạy tán loạn.
Thế là chúng tôi được bữa chén no say ! Thế là chúng tôi tôi đã ăn Tết giùm cho quân địch !
Câu chuyện chẳng có chi là thật.
Tết năm ấy quân đội của Đức – Pháp đã nghỉ đánh nhau rồi thì có ai phải ăn Tết ở ngoài mặt trận đâu !
Chúng tôi hầu hết đều biết chuyện bịa cũng chịu khó đứng nghe và cũng làm bộ cảm phục như mấy người khác xem ông cao hứng còn nói gì nữa.
Trước quang cảnh đầm ấm vui cười ấy, chúng tôi phải nghĩ thầm: đêm ba mươi Tết, nghèo xác-xơ, nghèo đồng xu không có dính túi, thế mà cũng thích nghe chuyện chiến tranh, chuyện đạo-tình ! Thì ra cái tâm hồn quá ư tê-tái của họ còn cần mơ mộng, cần tình nghĩa nhiều hơn ta. Họ phải tìm quên trong mơ mộng, dẫu biết mơ mộng chỉ làm họ quên trong chốc lát cái quá khứ trong chứa toàn chuyện thảm sầu và cái tương lai cũng chẳng hơn gì !!!
Quá 11 giờ, chúng tôi đợi họ sửa soạn đi ngủ, chúng tôi mới ra về. Biệt họ đi, chúng tôi không quên để lại một đôi lời cầu chúc năm mới mong an-ủi những tâm hồn tàn tạ.
Bạn anh:
NGUYỄN-HOÀNG (Paris)


TẾT TA DƯỚI TRỜI MỸ
(Ảnh: VUI VẺ ĐÓN XUÂN
Dưới ánh nắng mùa xuân, mấy chục cô gái mọi ở Đà-lạt đang sắp hàng để phô bày tấm thân đều đặn cho các cậu trai Mọi đến lựa chọn bạn trăm năm sau này.)
Tôi bị đày sang Guyane đã được sáu năm và đã bốn lần ăn Tết ở trong trại giam ở “Poste Forestìere” và hai lần ở “Crique des Anguilles”. Đến hết năm 1936. Tôi đã được ân-xá từ mấy tháng trước và trong khi đợi chính-phủ cấp giấy cho về nước, tôi đến ăn Tết ở một làng An-nam gần Cayenne - thủ-đô của xứ Guyane.
Hồi ấy người Annam ta ở Guyane có tới gót một ngàn, nhưng một phần phải giam trong các nhà tù, còn một phần được sinh-hoạt tự-do ở bên ngoài thì vì sinh-kế bắt buộc phải ở rải-rác mỗi người một nơi, nên cả thảy mới tổ-chức được có hai làng: một làng ở Cayenne và một làng ở Saint-Laurent. Cái làng ở Cayenne mà năm ấy tôi về ăn Tết có hơn 30 nóc nhà và toàn là nhà gỗ: tường gỗ, cửa gỗ, mái nhà cũng lợp bằng một thứ gỗ đỏ như ngói gọi là bardeau, vì gạch ngói ở Guyane rất hiếm.
Cái làng Annam ấy- người bản xứ gọi là làng tàu (village chinois),- không có đình chùa, không có luật-lệ, không có ngôi thứ, và đến cả cái tên cũng không có nốt. Nhưng giữa mọi người trong làngcó một mối tình đoàn kết rất chặt chẽ, một sự thân-yêu không ở đâu có. Hàng năm, cứ đến ngày Tết, những người được sinh-hoạt tự -do ở các nơi tấp-nập kéo nhau về làng ăn Tết như về quê-hương đất tổ của mình. Vì chỉ có ở đấy, những kẻ tha hương mới được sống lại trong mấy ngày cái đời sống của người Annam
Kiểm duyệt bỏ
Vì dân bản-xứ và cả đến những Hoa-kiều ở Guyane đều ăn Tết theo dương-lịch. Nếu đến Tết âm-lịch, người Annam nào không về hai cái quê hương tạm bợ ở gần Cayenne và Saint-Laurent kia thì chỉ còn cách ăn Tết một mình, trong khi mọi người xung-quanh vẫn làm việc tấp nập như thường.
Riêng về phần tôi, năm nào về làng ăn Tết, tôi cũng ở nhà ông già Huỳnh-Khản. Ông Khản người Nam-Kỳ, bị đầy sang đấy đã ngoài 20 năm và là người nhiều tuổi nhất làng. Cũng như phần đông các ông già khác sang Guyane vào lớp đầu, ông già Khản có vợ bản-xứ và đã được năm con. Người con gái lớn nhất của ông là Joséphin Huỳnh-thị-Lang, năm ấy đã 23 tuổi. Cô Lang nói tiếng Pháp rất thạo, nên được chính-phủ cho làm thông-ngôn ở tòa án. Nhưng chỉ đến phiên tòa cô mới phải đi làm thôi, còn những ngày thường thì được ở nhà.
Tuy cô Lang mặc đầm, nói tiếng Pháp, có nước da hung đen và mớ tóc hơi quăn, nhưng tính-tình và cử chỉ của cô thì hoàn-toàn là Annam.
Khách ăn Tết của ông già Khản chỉ còn ông Cả-Dinh và tôi. Ông Cả-Dinh năm ấy đã gần 60 tuổi và đã có 4 con với một người vợ thổ-dân. Nhưng thường thường, ông chỉ về ăn Tết có một mình, vì vợ con ông có hiểu gì đến cái Tết Annam quý mến của ông.
Ông Cả có đặ ban thờ riêng Đề-thám trong nhà ông già Khản. Những lúc thấy ông thành kính cúi trước ban thờ, nét mặt rầu rầu và cặp mắt đăm đăm như nhìn về cái thời dĩ vãng............xưa, tôi lại thấy bồn-chồn nhớ nhà nhớ nước, và hình ảnh mẹ già tôi đương đứng tựa cửa trông con bên phương giời xa tít kia lại hiện lên trước mắt tôi qua làn khói hương nghi ngút...
Tuy chúng tôi không mấy người còn óc mê-tín, nhưng muốn có một cái hình-ảnh rõ-rệt của ngày Tết bên nước nhà, nên chiều hôm ba mươi Tết, chúng tôi cũng dựng cây nêu, cũng rắc vôi bột, cũng dán cân đối...Tuy vậy, cái Tết của chúng tôi vẫn không thể hoàn-toàn là Annam được vì thiếu mất những thứ cần-yếu như bánh chưng không gói được, vì gạo nếp ở Guyane rất đắt, thời tiết trong ngày Tết lại không rét như ở xứ nhà, để có thể giữ bánh khỏi thiu. Dưa hành, thịt đông cũng không có, còn pháo thì không được đốt, vì trước kia, từ ngày tôi chưa sang, đã có lần người mình đốt pháo về dịp Tết gây nên một vụ hoả-hoạn, nên từ hồi ấy, chính-phủ cấm ngặt không cho đốt pháo nữa...
Sáng mồng một, sau khi cúng lễ tổ-tiên, mọi người lần lượt đến nhà nhau chúc Tết. Nhưng khác những câu chúc tụng mà tôi thường được nghe khi còn ở nhà, ở đây chúng tôi chỉ chúc nhau được chóng về nước hay được khỏe mạnh thôi. Nhất là cái năm ấy - 1936 — cái hy-vọng về nước sôi-nổi ở trong lòng mọi người, nên câu chúc kia càng có ý nghĩa hơn nữa. Cả đến những ông già như ông Cả-Dinh và ông Huỳnh-Khản vẫn yên-trí rằng đời mình
Kiểm duyệt bỏ
rồi sẽ phải gửi ở trong rừng Mỹ-Châu này, lú ấy cũng bắt đầu có hy-vọng...
Đến trưa, mọi người họp nhau trên một mô đất hay trong một khoảng rừng thưa để ăn uống. Trong mâm rượu có đủ các thức cao-lương mỹ-vị nhưng thiếu mất thịt mỡ, dưa hành và bánh chưng, chúng tôi vẫn không thấy gì là ngon. Còn rượu thì ngoài thứrượu mía (tafia) uống hàng ngày ra, có đủ cả champagne, quinquina và các thứ rượu nho, rượu vang, để thay cho rượu Văn-Điển hay Fontaine ở nhà.
Sáng mồng hai, chúng tôi tổ chức một cuộc đánh cá ở trên sông đào Laussat – con sông nhỏ ngăn đôi thành-phố Cayenne và làng Annam. Vì phần đông chúng tôi ở Guyane đều sinh nhai về nghề đánh cá nên rất chú trọng đến nghề này. Tôi òn nhớ hôm ấy tôi bắt được một con cá điện rất quý. Thứ cá này mình không có vẩy, đen và dài như cá nheo của ta, nhưng có một cái đặc tính là một khi sờ phải nó tay người bị bắn ra ngay như bị điện giật. Muốn bắt nó, người ta phải đánh nó chết trước đã...
Sáng hôm mồng ba, chúng tôi vào rừng đi săn. Ở trong rừng Guyane có rất nhiều con vật rất lạ mà thịt ăn rất ngon nên cuộc đi săn có phần hứng thú hơn đánh cá.
Đến tối hôm ấy, một tiệc rượu công-cộng nữa họp mặt tất cả mọi người ở trên bờ suối, rối sáng hôm sau, tôi từ-biệt ông già Khàn và cô Huỳnh-thị-Lang để trở lại với cuộc sồng hàng ngày ở Guyane.
(thuật theo lời một người tù ở Guyane)
(Ành Trần-đình-Nhung: Ngày xuân cảnh vật mơ màng)

HỌC-PHI

TẾT Ở LÀO


Ở Lào Tết ăn vào khoảng tháng ba tháng tư tây và ăn ròng rã trong bảy ngày.
Ngày hôm đầu là ngày “bao sái” hay ngày “ẩy trần”. Sáng ra, trong khắp các phố ở Luang – Prabang đầy những người ăn mặc quần áo Tết đi chợ mua những giống vật sống, nhất là chim sống, cá sống. Chiều đến, , vào quãng bốn giờ họ mới đi ra những cái cù lao nhỏ nổi ở giữa sông rồi họ thả cá xuống nước, thả chim lên trời.- Thản hư vậy cốt ý để chuộc các tội lỗi mà mình đã phạm trong năm vừa qua. Ở các nhà tư, người lào mời sư đến để tụng kinh, rồi người ta biếu nhà sư cơm, quả, bánh, hoa và nến.
Sáu ngày về sau, mọi người đều vui vẻ, tươi cười ; họ chúc tụng lẫn nhau, lại chơi nhà nhau, họ buộc vào cổ tay những cái dây bông để chúc cho nhau mọi sự sung sướng. - Họ buộc cà vào tay những tương ở các chùa, những dây này thường lại gài hoa.
Ơ các chùa thì bao nhiêu tượng đều hạ xuống và đặt trong khám để những người mộ phật đến tưới nước thơm lên. - Tưới như vậy là mong cho phật chữa cho khỏi bệnh tật. - Suốt ngày, họ tưới nước hoặc vào các nhà sư ngồi võng đi lễ Tết hoặc vào cung vua, vào nhà các đại-thần, vào các viên-chức lào, vì trong hai ngày ấy các vị ấy đi khắp trong tỉnh, hoặc bằng voi, hoặc bằng kiệu đăng-sơn.
Nước để tưới cho các nhà sư và cho nhà vua thường sạch sẽ thơm tho ; còn nước tưới cho các vị đại-thần và cho các công chức thì kém thơm hơn nhiều. Ngày nào cũng vậy, cho mãi đến 4 giờ chiều, các cô cố hết sức tưới nước vào các cậu đi qua đường và cố bôi nhọ mặt các cậu. - Về phần các cậu, thì các cậu không tưới nước trả lại nhưng họ cũng cố bôi nhọ mặt các cô, gây nên trò vui cười với nhau.
Từ bốn giờ chiều trở đi, họ đi tìm các thứ hoa rồi họ đem về tô điểm các chùa. -Tối đến, ở trong các chùa vắng tượng, trai gái thanh lịch họp nhau lại để chơi Tết cho đến khi nào các tượng lại đem về để lên bàn thờ mới thôi.
Sáng hôm thứ tu, bao nhiêu công chức lào v Luang – Prabang  đều mặc quần áo đại-trào vào chúc Tết đức vua. Đèn nến sáng trưng, giữa những màu sắc sặc sỡ của các bó hoa do mọi người đem đến, người chủ-tế, sau một hồi khấn vái, mới dâng lên đức vua các nhời chúc mừng của mọi người và kính-cẩn buộc vào tay đức vua những sợi dây bông.- Song rồi gọi người lần lượt đến quỳ trước mặt đức vua dâng đức vua một bó hoa con có kèm vài cây nến rồi cúi đầu chạm trán vào tay đức vua để tỏ lòng kính cẩn trung thành.
TẾT Ở CAO MÊN
Tết ở Cao-Mên cũng ăn vào quãng tháng ba, tháng tư tây. Trước ngày Tết, dân chúng đem rửa tượng phật ở các đền chùa và trong ba ngày đầu, đem đồ biếu đặc biệt đến biếu các sư. Lại biếu nước cúng, đồ uống cho những khách bộ hành, cho những người qua đường.- Ở trong điện nhà vua có những cuộc đánh vật, đánh đấm, máu mê nhễ nhại trông lắm lúc phải rùng mình.
Ở trong các gia-đình thì con trai dâng nước cúng cho cha mẹ, đầy tố, dâng cho chủ và các ông Hoàng thì đổ những nước ấy vào những chỉnh đựng hài cốt của ông cha. - Những người thuộc về đạo bà-la-môn thì dâng nước ấy cho đức vua trong những con ốc bể nạm vàng ; đức vua nhận lấy, đổ lên các tượng bà-la-môn rồi lại lấy để gội đầu. - Ở các vùng nhà quê thì có những cuộc thi chạy bò, chạy ngựa.- Ròng rã trong bảy ngày, con trai một bên, con gái một bên, hai bên theo tục lệ mà thi nhau thử trí, thử tài, thử sức, thi nhau ca hát để đón mừng xuân mới.
ĐÀM-KHÁCH

TẾT CỦA NGƯỜI THÁI TRẮNG Ở PHONG THÔ
(Ảnh Võ-an-Ninh: NGHĨ NGỢI: Tết đã đến rồi, cô Thái trắng đang mơ màng nghĩ đến những ngày tươi đẹp của tương lai.)
Tết của người Thái thì bắt đầu từ ngày ba mươi Nháng chạp.
Ngày cuối năm là ngày “tắm tất niên”của người Thái.
Không phải là họ cả năm ở bẩn đâu hoặc “để hôm ấy” mới tắm đâu ? Họ có lễ tắm vì muốn bước sang năm mới với tấm thân sạch sẽ.
Hôm ấy, đúng giờ ngọ, các thẩu-ké (kỳ-mục già), cùng “cụ-trùm” người thái (chức tri-châu) và các chức việc trong hạt cưỡi ngựa đi tắm, suối tắm cách xa làng độ một cây số.
Đám rước đi tắm thì vui vô cùng. Đi đầu là những ngọn cờ thần ngũ-sắc. Theo sau là phường kèn “pí-kẻo”, đàn và trống. Các tiểu thư thái mặc váy đen mới, áo trắng nịt hẳn vào người, thắt chiếc thắt lưng màu vàng, trắng, xanh, đỏ tươi, theo dịp kèn, vừa đi vừa phất cờ. Đoạn đến cụ-trùm, các “quan” (quan đại-lý và các viên chức làm việc nhà nước) và các chức dịch đều cưỡi ngựa kết hoa giấy và vải.
Theo sau có bộ “lục-quân Mèo” (tức là lính dõng) vừa đi vừa bắn súng hoả mai hay đốt pháo vang giời.
Đến chỗ tắm, sau khi đã bày cô tam sinh, “cụ trùm” đứng khấn trước đền thờ ; đoạn cởi bỏ áo ngoài và xuống tắm dưới suối. Những người đi sau cũng theo gương xuống suối tắm để lấy may. Chỗ đàn ông tắm trên đàn bà độ một trăm thước.
Chiều ba mươi nhà nào nhà nấy đều giết lợn, gà, vịt, bày bánh trái lên bàn thờ cúng để mới các tổ tiên về ăn Tết với con cháu.
Nhà “cụ trùm”nổi tiếng trống và la thanh, tiếng trống và la thanh ấy sẽ luôn luôn không ngớt, từ chiều ba mươi tháng chạp đến mãi nửa đêm mồng năm Tết. Trong các làng đã cử sẵn những trai-tráng đến túc chực để giữ tiếng trống ấy không bao giờ nghỉ, và theo tục trên này – ai đến hầu hạ nhà quan được đánh trống ngày Tết ở nhà quan qua năm mới sẽ gặp nhiều cái “may”.
Sau bữa cơm tối, có lễ dựng cây nêu. Trước sân cà thảy có hai cây nêu mà trên đầu mỗi cây đã đốt sẵn một cây nến to. “Cụ trùm” tự tay mình thắp nến và hương, rồi cho lệnh kéo lên và buộc nhiều hương đốt. Trong hai cây nêu ấy thì một cây cao hơn (để trỏ nhà quan) và một cây thấp hơn (để trỏ nhà dân). Cứ mội năm đến lễ dựng cây nêu là dân gian lấy làm lo âu vì họ tin rằng nếu cây nến thắp trên cây nêu cao sáng tỏ hơn cây nến ở cây nêu thấp thì tức là nhà quan may hơn, và dân sẽ gặp nhiều điều không hay sau khi nêu đã dựng. Vào độ 11 giờ đêm các cụ già gắp vài miếng than hồng đem dúng nước đem lên cân, để lát nữa so sánh với than năm mới xem than nào nặng. Than năm mới nếu nặng hơn thì năm mới sẽ “năng” hơn, nghĩa là sẽ đem đến cho dân làng nhiều sự không hay.
Đúng giao thừa thì nhà cụ trùm có hồi trống và đốt pháo báo hiệu cho moi người biết. Nhà nào nhà nấy vội vàng tay vác đóm, tay vác ống tre đựng nước ra bờ suối để lấy nước năm mới về cúng tổ-tiên. Tấm lòng thành kính đối với các bậc đã khuất thật cảm động.
Sáng sớm tinh sương, dân trong làng từ già đến trẻ đều đến mừng Tết quan luông (quan lớn: cụ trùm) của họ.
Họp nhau ở trước nhà quan, con giai, con gái tha hồ chơi đùa. Chỗ này “đánh én”, chỗ kia “tó má lè”. Đánh én thường thường hai giai hai gái đánh với nhau, bên nào vụng để én rơi xuống đất là thua sẽ bị vò tai.
Nhưng thú vị nhất có lẽ là đánh còn và xòe.
Chơi “còn” thì một bên trai, một bên gái đứng giữa một cây tre ở đẩu có buộc một cái vòng tròn bằng tre che giấy đỏ. Hai bên trai gái ném cho nhau. Ai mà ném còn (còn là một cái bao tròn độ nắm tay người lớn trong nhét hạt bông, và khâu vào một cái dải độ nửa thước, có tua vải ngũ sắc) chui qua vòng tròn sẽ được các “nàng sao” đi mời uống hai chén rượu thưởng công. Ai vụng về không bắt được còn, và để rơi xuống đất thì sẽ phải phạt. Gái thì bị mất trâm, mất thắt lưng, giai thì mất mũ, mất giầy ! Muốn lấy lại thì sau cuộc chơi, các cô phải mang trầu đi nói khó “chuộc” lại, các cậu con trai thì phải hi sinh “phong bao” độ đồng bạc hay vài hào.
Xòe thì vui nhất trong ngày Tết. Xòe luôn năm ngày. Tiếng trống, đàn, kèn, không lúc nào ngớt. Xòe có rất nhiều điệu; không thể tả hết được. Lúc thì các cô xòe với nhau, lúc thì trai gái, cặp nào cặp nấy hoặc ôm nhau nhảy, hoặc dắt tay đi; hoặc cầm nón, hoặc cầm gậy; hoặc cầm những dải lụa ngũ sắc. Xòe mệt đã có rượu. đã có bàn tiệc bên cạnh, ai đói thì ăn, ai khát thì uống. Vui hết ngày này sang ngày khác không ai còn nghĩ ngợi gì đến việc khác nữa.
NGỌC PHÚC và TRỊNH VÂN

TẾT NGUYÊN-ĐÁN CỦA NGƯỜI NHẮNG VÀ LỄ LỤC TÙNG
(Ảnh: Một cô gái Nhắng mặc quần áo Tết)
Cũng như người An-Nam, người Nhắng ở Laokay rất chú-trọng đến Tết Nguyên-đán. Suốt năm họ cặm-cụi làm-lụng trên những miếng đất khô-khan của đồi núi, nên ai nấy chỉ chờ xuân sang, trong lúc cây cỏ hình như đã chết hẳn vì tiết trời đông giá rét, bỗng chốc được lớp mưa bay nhuần tưới, được làn gió ấm vuốt ve mà lấy lại hết màu tươi thắm, trong lúc vạn vật đột nhiên thức tỉnh dậy để đón một sự gì mới mẻ , đầy hy-vọng, là người Nhắng cũng tạm gạt bỏ hết các công việc để thảnh-thơi ăn Tết.
Từ 20 tháng chạp trở đi, họ đã bắt đầu sắm-sửa các thức ăn và quét dọn cửa nhà. Các cột gỗ, thường ngày lỗ chỗ những vết mục nát, nay đều phủ một lượt giấy đỏ, có viết những câu đối hoặc mấy bài thơ cổ chữ hán. Giữa phố, lợn, gà chạy huyên-thuyên. Và bên bờ suối trắng, quanh co uốn khúc, rì rầm dưới dẫy núi dài, các cô Nhắng, quần vén tới bẹn để lộ bộ đùi tròn và chắc nịch, lội xuống nước vo gạo nếp, se sẽ ôn lại các bài hát cũ sắp dùng đến nay mai.
Người nhắng không cúng ông Công, ông Táo như ta. Cho nên suốt mấy hôm gần Tết, họ chỉ lo sắm sửa không thôi.
Ba mươi đến. Họ thức suốt đêm chờ cúng Giao-thừa. Lúc này mới nghe thấy lác đác tiếng pháo nổ mừng đón xuân sang. Chọn được giờ, mọi người xách đèn ra suối lấy nước đựng vào chiếc bình hay ống nứa. Nước này đem về nhà đun sôi rồi pha chè để cúng tổ-tiên. Trong khi xuất hành, họ không quên ngắt một cành lộc để mang về cắm trên bàn thờ.
Bàn thờ của người nhắng không có vàng mã, mũ ông Công như của ta. Một bát hương, vài đĩa hoa quả, hai cây nứa thật dài còn nguyên lá, uốn lại thành cái cổng trước bàn thờ, thế là đủ.
Mùng một, họ ăn chay và cúng toàn đồ chay, không ai đi chơi đâu, ở nhà chúc mừng lẫn nhau thôi.
Sang mùng hai mới là lúc đi chào các người họ, hàng, quen thuộc. Trên bàn thờ, cỗ chay đã nhường chỗ cho những mâm đầy thịt cá.
Dân ở gần lũ-lượt kéo đến nhà lý-trưởng lễ ông vải và chúc mừng người thay mặt họ. Ông Lý phải làm cỗ mời, thiếu thức gì phải cho tiếp ngay. Con gái, con trai ngồi riêng bàn. Khi rượu ngà ngà, các câu hát mới bắt đầu nối lên. Rồi thì chỗ này một đám “lục phoóng” (thò lò), chỗ kia một bàn xóc-đĩa, hoặc bài cẩu.
Bắt đầu từ mùng hai, người nhắng cũng ra đền lễ thánh. Nhiều cặp trai gái đã hẹn nhau từ trước, nên lễ xong, họ dắt nhau ra cánh đồng, đứng cách xa dùng hai ống nứa nối liền nhau bằng sợi chỉ dài để hát lượn.
Vui chơi như thế cho đến ngày Lục-Tùng là ngày hội chính của người Nhắng. Tết Nguyên-đán chỉ là một dịp cho trai gái cùng một làng chọn ý trung nhân. Còn Lục-Tùng là ngày hội mở chung cho cả tổng, có khi trai gái các tổng khác tới dự, nên vui hơn Tết Nguyên-đán nhiều.
Ở Ba-xát lễ Lục-Tùng  thường mở vào mùng sáu hay mùng bảy tháng giêng. Ở Mường-Hum, mở vào mùng mười hay mười hai, tuỳ theo ngày tốt, xấu.
Lễ Lục-Tùng tức là lễ cúng ông thần coi việc mùa màng. Ông Lý (trên mạn ngược lý-trưởng tức là chánh tổng ở vùng xuôi) phải đứng lên tổ-chức và chịu hết các khoản phí-tổn. Trâu, bò, lợn, dê, gà, vịt phải tích trữ cho nhiều.
Trong mấy hôm Tết Nguyên-đán, dân các làng xa không đến chào ông Lý được thì trước hôm lễ Lục-Tùng, đều có mặt ở nhà ông lý, rượu chè, cờ bạc đó.
Ngày hội, vào khoảng tám giờ sáng, các chứa dịch, dân hàng tổng theo sau “pẩu mô” (tức là thấy cúng) ra ngoài đồng dự lễ. Ở đấy đã bày sẵn một chiếc bàn to, kê sau một hàng rào nứa mới dựng, trên bầy lợn quay, gà, vịt, hương hoa. Pẩu mô mặc áo đen dài, quần đen, đi giầy vải, đầu chít khăn tày vố, khấn thần xong rồi lễ trước tiên. Sau đến các chức-dịch và dân làng.
Lễ xong, ông Lý vào ngồi cạnh bàn thờ. Rồi Pẩu-Mô tay cầm một quả còn làm bằng vải ngũ sắc, ra giữa ruộng để ném trước. Nếu may-mắn, quả còn lại xuyên qua vòng tròn bịt giấy đỏ, dựng trên chiếc sáo cao là năm ấy mùa màng sẽ hết sức tốt. Pẩu-Mô ném xong, dù qua hay không, cũng đến lượt dân làng ném cho đến khi vòng trònbịt giấy đỏ rách hết mới thôi.
Ném còn xong đến cướp ống lệnh. Đó là một cái ống to bằng sắt gắn kín hai đầu, trong có nhồi thuốc pháo và chỉ để hở một lỗ con để cắm ngòi. Khi đốt, ống sắt bị sức thuốc pháo nổ tung cao lên, trai gái tranh nhau cướp. Ai cướp được mang về bàn thờ lễ tạ trước nhất thì ông Lý thưởng tiền và ban cho vài chén rượu. Ngoài các trò chơi này, còn có trò chơi kéo co và cờ bạc.
Tan lễ ngoài đồng, mọi người lại kéo về nhà ông Lý để ăn cỗ. Lúc này mới là lúc trai gái chuốc rượu nhau. Mỗi người đàn ông,dù quen hay lạ tới dự lễ, bắt buộc phải uống của mỗi côtừ một đến ba chén rượu. Tính ra, thường thướng phải uống bốn năm chục chén mới hết lượt mời. Không uống được, các cô cũng đè ra, đổ rượu vào mồm, lên đầu, vào tai, cho đến khi ướt như chuột mới tha.
Tối đến, con trai ai mệt thì lên gác hay sang buồng bên ngủ. Nhưng các cô có tha đâu. Một cô cầm chiếc điếu cầy và nén hương đang cháy. Theo sau có các bạn gái, chạy vào buồng, bắt ngồi dậy để hát. Nếu con trai bằng lòng, phải đỡ lấy điếu cầy, rít một hơi thuốc lào, rồi cất giọng trả lời. Bằng cứ nằm lì để ngủ thì tức khắc các cô lấy hương châm vào người, vào tay, vào chân, bã đâu châm đấy.
Suốt đêm Lục-Tùng, trong làng vang những câu hát ngân dài, giọng đều đều, đượm tất cả nỗi buồn của nơi sơn-dã đìu hiu. Người phương xa tới đây nghe thấy, không ai là không bùi-ngùi trạnh nhớ cố hương.
Sáng hôm sau, trai gái các làng chia tay nhau về, để rồi lại cặm cụi làm việc trên những miếng đất khô khan của đồi núi và mong sao cho chóng đến Tết Nguyên-Đán sang năm.
NGUYỄN VIẾT PHƯỢNG


BA CHUYỆN LẠY MỪNG TUỔI LẠ ĐỜI


1.)    LẠY CHẾT ĐỨNG GIỮA SÂN RỒNG VÌ CON RẾT
2.)    LẠY QUAN TÀU RỒI LÀM THƠ CHỮA MÌNH
3.)    LẠY RƠI TRONG TÚI RA MẤY HỘP THUỐC PHIỆN
Lễ-tục ở chốn triều-đình ta thuở xưa đối với năm mới rất là tôn nghiêm, long-trọng.
Ngay lúc giao-thừa bắt đầu bước qua năm mới, hoàng-đế đem quần-thần lạy nhà Thái-miếu, lạy mừng tuổi hoàng-thái-hậu, rồi thiết đại-triều tại một chánh-điện, trăm quan bài-ban làm lễ bái hạ nhà vua.
Trong những dịp triều-nghi to tát đến thế, nếu một ông quan nào thất-thố, chỉ sai một bước chân, một cái lạy, cũng phải phạm tội bất-kính mà phải giáng chức hay phạt lương.
Còn nhớ hai chục năm trước, mấy bực cố-lão ở Kính, thuật cho tôi nghe câu chuyện buổi đầu niên-hiệu Tự-Đức, một ông quan chết đứng giữa sân rồng.
Hôm ấy cũng nhằm đại lễ năm mới mừng tuổi nhà vua. Với những bộ triều-phục rực rỡ, mũ hia đai hốt chỉnh tề, các hàng bách quan lờn nhỏ, bài-ban làm lễ ở trước điện Cần-chánh.
Quan Lễ-bộ đứng xướng lễ, lấy làm kinh-ngạc khi nhận thấy ở hàng dưới, một vị quan chỉ lạy đâu một hai lạy rồi đứng sững như cây trồng. Cho đến khi bách-quan lễ tất lui ra rồi mà vị quan nọ vẫn trơ trơ nguyên chỗ.
Thì ra ông ta đã chết đứng như Từ-Hải.
Vua truyền ngự-y cứu chữa. Người ta khiêng ông vào một nơi, tháo mũ cổi áo ra cho tiện xem bệnh. Bỗng thấy trong mũ cánh-chuồn của ông, bò ra một con rết to tướng , bằng ngón tay cái.
Thôi phải rồi, chính nó giết ông.
Người ta lượng-đoán nguyên do như sau này, nếu không thật trúng, hẳn cũng không xa.
Ông làm quan ngôi thấp, không có dinh-thự gì, cảnh nghèo lương ít, phải ở nhà lá. Hòm sơn đựng mũ cánh chuồn đã mọt thủng tứ phía, con rết chui vào đỉnh mũ lúc nào ông không biết. Đến giờ sửa soan đi chầu, cứ thế mà đội lên đầu.
Khi ông lạy một hai lạy rồi, làm cho con rết ở trong mũ bị động đậy, bực bội, luồng cuống, muốn tìm đường ra chẳng có, nó cứ nhẻ đầu ông mà cắn. Tuy biết mình bị rết cắn rất đau, nhưng cắn răng mà chịu, không dám nhúc nhích, sợ mang tội bất kính, khi quân. Con rết ấy tất có nọc độc dữ, làm ông chết đứng tại chỗ.

Ai đọc sử cận-đại nước nhà, tất cũng phải biết có ông tên Trương-đăng-Quế, người Vĩnh-lại, tỉnh Quảng nghĩa, là một vị quan có quyền-vị hiển hách trong hai đời vua.
Tục-ngữ nói: Một người làm quan, cả họ được nhờ. Chúng tôi muốn thêm: trước hết là con cháu.
Người con là Trương-quang-Đàn, chỉ đỗ tú-tài và không có tài-năng gì riêng, nhưng nhờ có dư-oai của cha mà được triều-đình trọng dụng....................................    Quang – Đàn được bổ ra Bắc, làm chức Tham-tán Quân-vụ, Phải biết Tham-tán Quân-vụ của ta ngày xưa ngôi to chức trọng, cũng như quân-chế văn-minh đời nay, sung vào bộ Tham-mưu vậy.
Lúc bấy giờ ở Sơn-tây có viên quản tấy đề-đốc là Phùng-Tử-Tài đóng quân, do vua Thanh-triều phái sang. Bề ngoài, tiếng nói là sang giúp đỡ nước Nam, nhưng thực bề trong họ muốn làm cái ngón xảo-quyệt như quân Minh cứu viện nhà Trần thuở trước cốt thừa nguy xâm đoạt Bắc-hà đấy thôi.
Gặp Tết Nguyên-đán, cụ-lớn Tham-tán Quân-vụ ta mặc áo thụng xanh, đến dinh Phùng-tử-Tài thụp xuống lạy Phùng hai lạy chúc mừng năm mới.
Rõ thật lạ đời ! Chức Tham-tán Quân-vụ  nước Nam cũng đường bệ oai nghiêm, đâu có hèn mọn, việc gì phải hạ mình bái-chúc một viên đề đốc Quảng-tây ?
Lạy rồi vềTrương-quang-Đàn còn làm tội hồn thơ phải thức dậy để chấp-chểnh ngâm nga một bài bốn câu ba vần, ý muốn ghi chép kỷ niệm một việc lạ đời mình đã làm
“Uý thiên đại nghĩa cổ kim đồng
Nhĩ nhật hà phương bái hạ phong
Tự quý phi-phu yêu dục chiết
Bắc-song cao ngọa tưởng Đào-công
Nghĩa là:
Nghĩa cả xưa nay phải sợ trời
Hôm xưa ta lạy, chẳng ai cười,
Thân hèn riêng thẹn lưng hồ gẫy
Nằm khểnh, Đảo-công hoá thảnh thơi.
Chủ ý họ Trương muốn nói: nước nhỏ phải kính sợ nước lớn như sợ trời là lẽ thường nghĩa cả xưa nay. Vậy họ là quan nước to, tôi hạ mình lạy họ chẳng có làm sao. Nhưng cũng tự thẹn  như thế là mình hèn, lạy muốn khòm cả lưng ; thà nằm khểng ở nhà như ẩn-sĩ Đào Tiềm ngày xưa cho sung sướng tấm thân.
Bài thơ này, Trương con cao hứng chép vào tập thơ “Cúc-viên thi tập” của mình, để truyền đời sau.
Có thế, bây giờ chúng ta mới được biết câu chuyện Quang-Đàn lạy mừng năm mới Phùng-tử-Tài.

Hồi đức kim-thượng Bảo-đại mới ở bên tây về thân-chánh, liền hạ dụ bỏ tục “lạy”.
Một ông bạn tôi, người Nam Kỳ, ngỏ ý hân-hoan tán-thành, mặc dầu việc cải lương ấy không liên lạc gì với Nam-trung Lục-tỉnh:
Bỏ lạy đi là phải lắm. Vì có khi nó làm lòi cả sự bí-mật của người ta ra.
Tôi sửng sốt, không hiểu vì sao cái lạy mà “lòi cả sự bí-mật của người ta ra”
Bạn cười và thuật lại một chuyện lạy chính mình đã trải, tôi xin chép lại đưới đây.
Ông đã hiểu trong Nam còn nhiều nhà nho-phong danh-giáo vẫn giữ cổ-tục về Tết. Sáng mồng một, con cháu nội ngoại phải hai lạy mừng tuổi ông bà cha mẹ.
“Gia đình bên vợ tôi là một nhà vào hạng đó. Con cháu nội ngoại khá đông, lại còn ông cụ-cố, đốc phủ-sứ trí-sĩ, gần 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh.
“Còn nhớ sáng mùng một Tết năm đó, tôi khăn áo chỉnh-tề, sang bên nhạc-gia để mừng năm mới. Nhưng tôi đinh ninh trong trí là được miễn lạy, vì đời đã văn-minh cải lương rồi. Khi thấy con cháu nội ngoại đông đủ, bà nhạc tôi bảo:
Các con đưa nhau lên làm lễ mừng tuổi cụ đi.
Làm lễ nghĩa là phải lạy. Tôi giật nảy mình, tưởng như trời nghiêng đất sập. Vì sao ? Vì lúc ở nhà tôi đi sang nhạc-gia, cách vài cây số, ngang qua một tiệm bán thuốc phiện, tôi ghé mua 10 hộp thuốc Luxe để thưởng xuân trong ba ngày Tết chơi.
“Những hộp ấy giờ đang nằm đầy trong hai túi áo cánh tôi đây. Nếu phải lạy, mọp mình quỳ gối, thế nào mấy hộp thuốc cũng bị dốc túi mà văng ra ngoài thì khốn. Nhất là bấy lâu nay tôi vẫn nói mạnh bạo với nhạc-gia là tôi ghét a-phiến như kẻ thù bất cộng đái-thiên, không bao giờ tôi nghiện. Ay thế mới rầy ! Không dám gửi ai cầm hộ mà cũng chẳng kịp giấu đi chỗ nào, tôi đành cứ để trong túi.
“Khổ quá ! lúc sắp sửa lạy, tôi giữ ý tứ nhẹ nhàng hết sức, thế mà vừa cúi mình xuống, chưa được một lạy thì hai ba hộp thuốc đã thoát thân trong túi nhảy ra lăn tròn trong nhà. Mấy đứ trẻ con, em bé của vợ tôi, tranh nhau vồ lấy và cãi cọ rầm lên:
Pháo đùng của anh bà mua cho tao đó, mày à ! đứa này nói.
Không phải pháo, ấy là hộp bánh anh Ba hứa cho tao hôm nọ mà ! - đứa kia cãi.
“Bà nhạc-mẫu của tôi lanh trí, giằng lấy mấy hộp thuốc và mắng lũ trẻ:
Thụốc bẫy chuột, mà dặn anh ba mua cho má đó mà, đưa cả đây.
“Sự thật, bà thừa biết là những hộp thuốc phiện đắt tiền.
“Tôi xấu hổ cuống quýt, đến nỗi không nhớ là mấy lạy nữa. Trong khi những người kia đã xong việc lui ra, tôi còn nghi ngúp lạy mãi. Thì ra tôi đã lạy bốn lạy, chớ không phải hai !
Một lát sau, bà nhạc tôi gọi tôi vô nhà trong, vắng người, đưa trả tôi ba hộp thuốc và nói một câu mát như dầu săng, nhẹ như quả tạ:
Chắc con oán thù cái lạy đáo để !
“Mà thật, tôi oán thù nó ghê ! Không có nó thì làm gì đến nỗi tôi phải lộ-tẩy là thằng nghiện ? Bởi vậy tôi trông mong cái lạy ở khắp nước nhà, đội nón ra đi đâu thì đi cho rảnh !”
Hồn-Phong


Ba mươi Tết của trâu bò gà lợn


Nhà trên, đèn sáng choang.
Mặt người vui hơn mọi ngày. Đồ vật cũng vui hơn mọi ngày. Ở đây trời tối lạnh.
Đây là chuồng bò, chuồng lợn, chuồng gà.
Đây cũng khác ngày thường. Và cũng xao xuyến. phần thì những tiếng gọi nhau, mắng nhau, tiếng bát đĩa loảng xoảng ở trên nhà đã phá tan cảnh yên lặng của mọi đêm.
Phần thì bởi những việc xảy ra ban ngày làm cho chúng lo sợ. Không như mọi hôm, sáng sớm, sáng sớm người ta không mở chuồng gà cho gà vịt ra ngoài. Rồi mấy người bỗng đến, kẻ thì vào chuồng lợn trói chân lão Ỷ khiêng đi, tuy lão đã hết lời kêu van, hết sức chống cự, kẻ khác thì mở chuồng gà bắt ra từng con một, xách ngược hai chân lên, nắn lườn bóp bụng, rồi mang đi mất hai con gà sống thiến, ba con gà mái tơ và con vịt bầu lớn đầu đàn.
Vì thế suốt cả ngày hôm nay gà vịt lo sợ ; chúng đã biết rằng mỗi lần bị bắt đi như thế, chúng không còn hi vọng gì về với cha mẹ, bạn bè. Và bây giờ, hơi một tiếng động cũng làm cho chúng xáo xác, xô nhau lẫn vào tận đáy chuồng. Trâu bò buồn thương nhớ đến tiếng kêu thảm-thiết của lão Ỷ lúc bị khiêng đi, rồi lại nhớ đến cái thảm trạng đã trông thấy lúc ra đồng ăn cỏ : xác lão Ỷ chặt ra làm năm, làm bảy để giữa cái nong, bên cạnh một bồn máu đỏ. chỉ có thằng lợn con, nó vô tâm quá. Nó chạy quanh cái chuồng ướt át, bùn sâu đến bụng, tìm lão Ỷ để được như mọi khi chui rúc nằm bên, cho thêm ấm áp. Cái óc tồi mò ngu độn của nó đã vội quên rằng sáng ngày lão Ỷ bị khiêng đi rồi và khi nghe thấy tiếng ú ớ của lão ở xa xa, nó thấy lòng nao nao chỉ muốn phá chuồng mà trốn chạy. Bây giờ, nó chỉ hết thở dài, rồi ủn ỉn kêu “Trời rét quá ! rét quá !”
Nó đặt mình nằm vào xó chuồng, chỗ cao nhất. Nhưng thân nó run lên.
Mỗi tiếng kêu của nó, mỗi tiếng chân nó rút ở bùn lên lại làm cho mấy con gà đậu trên chuồng giật mình, xớn xác, xô nhau trong xó đen.
Con bò mộng nằm sát đó, ngừng nhai, càu nhàu:
- Câm mồm đi nhãi con. Mày ủn ỉn nữa, tao húc chết.
- Tôi rét. Tôi sợ. Tôi kêu. Việc gì đến ông ?
- Ừ ! rồi sang năm mày sẽ hết kêu. Mày không thấy thằng bạn mày sáng ngày đó ư ?
Con lợn bỗng rùng mình, nhớ đến tiếng gọi không thành tiếng của lão Ỷ. Nó khúm núm:
- Cháu lạy bác. Sao bác lại bảo cháu không kêu được nữa ?
- Người ta sẽ trói chân mày, lôi mày ra ngoài kia cháu ạ.
- Ngoài kia là gì, hở bác?
- Ngoài ấy à ? Ngoài là sân, là ruộng , là vườn, là đồng cỏ, là dòng sông...
- Bác Mộng ơi ? Sao bác lại bảo người ta trói cháu khiêng ra ngoài ?
- Tại sao ư ? Thế mày không thấy người ta lấy sữa của bò già nhà tao, của con gái tao rồi buộc cả mõm cháu bé tao để tranh ăn của nó đấy ư ? Mày không thấy ngày ngày hai cô gà mái tơ khóc rưng rức vì đẻ được quả trứng nào người ta lấy mất quả trứng ấy hay sao?
Một con gà mái giò, cục cục mấy tiếng nói theo:
- Ông Bò nói đúng đấy. Tôi đẻ bốn lứa rồi mà không lứa nào được ấp ! Các ông đâu biết nỗi khổ sở của lòng người mẹ ao ước được chăn dắt đàn con. Mấy lần trước, tôi đẻ ở ổ thấy mất cả trứng nên lần vừa rồi phải làm lấy ổ ở sau nhà bò đẻ giấu đẻ diếm thế mà người họ cũng chẳng tha, xoi bới tìm cho được thấy ổ trứng mới nghe. Không biết họ có lòng mẹ thương con như chúng ta hay không mà sao họ tàn nhẫn quá thế ?
Bò lắc lư đầu mấy cái, chép miệng rồi trả lời gà:
- Thôi nói chi đấn lòng tàn nhẫn của bọn người. Cũng vì bọn họ mà ta phải điêu đứng khốn khổ đến thế này. Mẹ mẹ tôi nghe các cụ kể chuyện lại rằng ngày xưa, đã lâu lắm, chúng ta vẫn được sung sướng thảnh thơi...
Bò dừng nói, mắt đăm nhìn vào xó tối như theo đuổi một ý tưởng xa xôi...
Con bê con vừa lạnh vừa đói loay hoay mãi mà không bú được vì sợ cái que nhọn buộc chéo ở mồm nó đâm vào bụng con bò mẹ. Nghe ông nó nói, bê vội bắt ngay lời, hy-vọng lấy truyện vui để làm cho khuây đói rét.
- Ông kể chuyện cho cháu nghe đi ông.
Mấy con gà cũng lục cục đồng thanh xin bò kể chuyện cho nghe cảnh sung sướng mà tổ-tiên ngày xưa đã đựơc hưởng. Con lợn cũng ủn ỉn;
- Bác kể truyện cho cháu nghe, xong rồi cháu đi ngủ không dám quấy bác nữa đâu bác ạ...
Nể lời, Bò mộng thong thả bắt đầu nói:
- Ngày xưa, các giống vật sống ung dung ở trong những cánh đồng đầy cỏ non, hoa ngát, không làm gì có những chuồng cũi hôi hám, tối bẩn thế này. Thời ấy, hổ báo đều ăn cỏ, ăn bột như chúng ta. Bò con tha hồ bú sữa mẹ. Lợn tha hồ sục đất tìm rễ thơm, củ ngọt ăn cho béo tròn. Ngựa tha hồ chạy nhảy trên đồng bằng bát ngát và trâu bò hàng đàn vui vẻ, đi hết rừng này sang rừng khác, chọn những ngọn cỏ thơm tho...
Các chú gấu lại thỉnh thoảng lại làm trò cho bọn dê con xem; rắn rết nhiều khi chui vào ổ gà nằm cùng với gà cho đỡ rét.
Ngày ấy, ta đâu có thấy như bây giờ: thú dữ ăn thịt những con vật lành, chim ác đánh giết những con chim nhỏ...
Nhưng một hôm bỗng hiện ra một con vật lạ ở đâu sinh ra không biết, mặt mũi nó nhăn nhó, thân thể nó trần truồng, nó rét run cầm cập và chỉ ôm bụng mà khóc than...
Các giống vật động lòng thương, cứu giúp nó, coi nó như đồng loại. Bò ân cần đến gần, giơ bụ sữa:
- Đây sữa đây, bạn bú đi cho đỡ đói, thằng Bê nhịn sữa một ngày, ăn cỏ cũng không sao
Gà vui vẻ chạy lại:
- Bác xơi vài trứng để lấy sức mà đi kiếm ăn; tội nghiệp chửa !
Cừu hấp tấp:
- Bạn rứt lấy một ít lông của tôi đắp vào mình cho ấm. Thôi, tôi đau một tí cũng chẳng hề gì. Anh em đồng lần bác đừng nên quản ngại.
Ngựa cũng ở xa chạy lại, đon đả hỏi chào:
- Bác còn yếu lắm, để tôi cõng bác lên lưng, đưa bác về tận hang cho khỏi nhọc
Tất cả các giống vật đều đem lòng thương hại giống người vì giống đó là một giống vật khổ sở và ươn-hèn nhất. Nhưng tổ-tiên chúng ta nhầm quá. Đáng lẽ các cụ khônng nên làm thế : từ-bi hỉ-sả của tiềng nhấn chúng ta đã làm cho chúng ta bây giờ phải ngậm-ngùi ở trong cảnh ngục-tù này. Vì loài người thực là giống bất nhân, bất nghĩa...
Trả lại ơn cứu sống và tình thân mật ân cần, của chúng ta, , họ đã bắt ngựa làm nô lệ để kéo xe, chở đồ, họ đã giết bò, cướp trứng gà, vịt, cạo trụi lông cừu, thậm chí tranh ăn cả với những con bê con, giết hại cả những con lợn sữa.
Thế rồi theo gương của giống người, quạ cũng bắt chước đi ăn trộm trứng hay đánh cắp gà con. Hổ báo bắt chước người đi ăn thịt uống máu.
Những cảnh thảm thương giả dối ta thường nghe thấy xảy ra ở trong núi sâu rừng rậm đều là bời cái ảnh hưởng của giống người độc ác kia...
Ai nấy đều im lặng. Tâu già mắt lim dim vẫm bỏm bẻm nhại lại cỏ. Bò cái nhắm mắt, và sẽ thở dài. – Con Bò mộng đăm đăm nhìn vào bống tối, ôn lại cảnh tượng những ngày tươi đẹp thuở xưa.
Lợn bỗng sụt sịt khóc:
- Thế ra ông Y bị họ giết hại rồi ư ? Cháu thoát thế nào được tay những thằng gian hùng quái ác ấy !
Một con bò nhỡ, thở dài chép miệng:
- Chú đừng buồn nữa, chẳng phải là một mình chú có cái cảnh ngộ ấy đâu...Chúng ta rồi cùng chung một số phận cả...Hôm nọ, có mấy người lạ đến vỗ về, nắn bóp tôi. Mai kia họ sẽ đến dắt tôi đi, rồi không bao giờ tôi còn được trông thấy các chú nữa... Nghĩ cho kỹ, đi cho nó thoát, sống ở trong vòng lao lung khổ-sở này thì sống nữa mà làm gì.
Bò mẹ ứa nước mắt, trâu già ngoe ngẩy đuôi, bò mộng đăm đăm nhìn bóng tối gà run run chen nhau lục đục ; lợn sụt sịt nằm bệt xuống bùn lấy giá buốt.
Trâu già thong thả đứng dậy, rồi cất lời:
- Các người đừng sợ. Loài người tàn ác thật nhưng họ chỉ tàn ác được ở chốn này thôi. Một ngày kia trời sẽ xuống cõi đời này giải thoát cho tất cả muôn vật rồi đưa chúng ta đến một thế giới ở đấy những ruộng cỏ mãi mãi đẹp tươi, và bầu trời bao giờ cũng ngạt ngào ấm áp...Rồi ngày ấy hổ báo lại ăn cỏ ; vịt gà lại được tự do ấp trứng, lợn lại ăn no béo mà quên lo sợ, rắn rết lại hiền lành cùng sống một ổ với gà, bò ngựa sẽ lại ung dung nay đây mai đó ở nơi núi đẹp rừng xinh.
Con bò nhỡ cố nén lòng buồn:
- Nhưng bao giờ chúa loài vật ngài mới giáng trần. Được thấy ngài rồi có phải đi tôi cũng xin cam.
- Các người không ngại. Mỗi lần các người đi là chính vì ngài đã cho thiên thần đến đón ; chúng ta rồi sẽ lần lượt mà trở về ở cõi thần tiên. Trên đó chúng ta sẽ lại vô cùng sung-sướng với nhau, chỉ có người là không được lên vì họ khác loài vật là họ không có một linh hồn.
Lợn nuốt nước mắt, ủn ỉn:
- Vậy ra nếu họ trói cháu mang cháu ra ngoài là may cho cháu. Cháu khỏi phải nằm bùn, ăn cám, rét, sợ mãi như thế này. Bây giờ thì cháu muốn được ngay như ông Ỷ...
Rồi nó bỗng thấy trong lòng ấm áp và yên tĩnh, quay lại xó chuồng, nằm xuống đất ướt, nhắm mắt mà mơ tưởng đến cuộc đời sau này sẽ dịu dàng , kiều diễm.
Gà rúc đầu vào cánh nhau, ôm ấp nhau, im lặng.
Bò con, dê con đến nằm ấp bên cạnh mẹ. Bò mẹ, dê mẹ lấy lưỡi âu yếm vuốt ve con. Bò mộng, trâu già để hồn trí vẩn vơ đi tìm thế giới tưởng mộng...
Bên ngoài, gió giật từng luồng mạnh. Lá vàng rụng tới tấp che phủ đầy sân. Màn mây đen gió cuốn về chân trời: không trung vòi vọi bỗng lấp lánh muôn ánh sao. Tiếng pháo giao thừa bắt đầu nổ ầm ầm bốn phía cùng với tiếng chuông trống của các đình chùa, Trên nhà trên, người ta cũng tưng bừng cúng lễ, rồi pháo đì đùng vang như sấm sét của những cơn mưa bão. Song ở đây là im lặng và đêm tối.
Trâu, bò, lợn, gà đều đã nằm yên cả.
Mặc người tưng bừng vui sướng ở trong tàn ác, chúng êm ả nghĩ đến cái thế giới cực lạc, ở đấy loài người sẽ không có quyền được sống, vì họ đã chẳng có một linh hồn.
Bạch-Lâm


LÀM CÂU ĐỐI ĐỂ CHƠI CHÙA


Lê quán sao lục
Xưa, các cụ “nhà nho”, ngoài việc ngâm thơ, vịnh phú, hay làm câu đối để biểu-lộ khí-phách của mình để tiêu-dao ngày tháng. Hiếu, hỷ, gặp bất cứ việc gì, các cụ cũng nhân dịp làm câu đối.
Gặp một đám cưới ? Lễ mừng của các cụ là một câu đối. Một đám ma ? Lễ viếng của các cụ cũng chỉ một câu đối. Nếu là một đám ma to, thế nào cũng có những cây bút có tiếng, nên các cụ quên ăn, quên ngủ, vò đầu, bóp trán, cố sao “cho ra” một vài câu xuất chúng. Thành ra một đám ma to là một nơi tập trung những khí phách của các anh tài ... tài đối. Chẳng thế mà, sau khi ông Cử, ông Tú...đi đám ma về, câu hỏi thứ nhất của mọi ngưới là : “Đối của ai hay nhất đám?”
Tết đến. Làm câu đối là công việc đầu tiên, quan trong kính cẩn nhất của các cụ. Ngay từ đầu tháng chạp, các cụ đã bắt đầu nghĩ. Và tối ba mươi Tết, từ cột đình cột chùa, đến cột nhà cột bếp, cho nào cũng dán đầy giấy đỏ.
Sáng mùng một, các cụ đi chúc Tết nhau, chỉ mang một thứ lễ quý nhất : tấm danh thiếp. Một mảnh giấy con gập làm tư xinh-xắn để vào lòng một cái đĩa Tàu trắng phau. Ba quả cau tròn trĩnh màu xanh biếc đè lên trên làm nội bật màu hồng thẫm hay màu vàng tươi của cánh thiếp. Còn gì nên thơ, tao-nhã, thanh-khiết, giản-dị bằng ? Và trong danh-thiếp : một câu đối chứa đầy hạnh-phúc.
Thời ấy đã xa chúng ta rồi. Ngày nay, lễ viếng ? một vòng hoa; lễ mừng ? một hộp phấn ; lễ Tết ? mấy chai rượu. Ít người dùng câu đối nữa. Người ta ngậm ngùi nhìn những cụ già râu phờ tóc bạc ngồi bán văn viết câu đối ở xó chợ đầu hè. Các cụ lấy hết gân, thu hết tàn lực cố kéo lại cái thời oanh liệt của câu đối. Nhưng vô hiệu. Thời ấy đã mai một. các cụ sợ rối “nó” đi đến diệt-vong. Nên gần đây các báo chí, mỗi khi Tết đến, đua nhau tán dương câu đối để làm vang lại “bóng thời xưa”. Nhưng họ chỉ tán dương thế thôi, không làm gì hơn nữa. Than ôi ! tiếng vang rất ngắn, xuân tàn rồi tiếng vang cũng mất ! Bao giờ lâu đài câu đối được kiến-thiết lại một cách vững chắc mãi mãi ! Nào đâu các ông Nghè, ông Bỉnh sống sót lại thời nay ?
Ta nên nhận cái công phu kiên-cố của các cụ trong câu đối. Ý, đều có điển tích; chữ, đều ở trong sách. Nên câu đối rất thâm-thuý. Song không phải cụ nào cũng đạo-mạo đứng-đắn thế đâu. Nhiều khi các cụ tìm cách châm chọc nhau ; vì thế, đã bao phen các cụ gây thù oán với nhau. Thù, oán ấy còn để lại đời đời, cha truyền con nối, chỉ tìm dịp trả lại.
Ví dụ: Cụ Nguyễn-tư-Giản (Bắc-Ninh) đỗ Hoàng-giáp. Cụ Yên-Đổ cũng đỗ Yên-giáp nhưng cùng khoa với ông nghè Nguyễn-Kham, con cụ Giản. Trong một câu đối mừng cụ Yên-Đổ, Cụ Giản có ý xếp ông này ngang hàng với ông nghè Kham. Nhăm nhe mãi, cụ Yên-Đổ đã được dịp trả thù: cụ Nguyễn-tư-Giản chết. Sinh thời cụ Giản có làm bài văn bia ca-tụng ông quận-công Nguyễn-hữu-Độ, bia ấy lập ở Sinh-từ Hanoi và nghe đâu khi còn làm quan cụ Giản không biết làm gì mà bị tội. Cụ phải cầu-cứu đến cha Sáu ở Phát-diệm (Ninh-Bình). Cụ Yên-Đổ viếng rằng:
“Nhất thiên tuyệt bút, Sinh-từ hạ,
Thiên tải du hồn Thuý-tĩnh gian”.
Ý nói: tiếng tăm của ngài còn ghi ở bia Sinh-từ, nhưng hồn của ngài có về thì phải phảng-phất quanh ngọn núi Thúy-lĩnh (Ninh-bình). Kết quả: câu đối bị xé ngay.
Một lối chơi cầu kỳ của các cụ: mượn một người để ám chỉ một người. Ông Đặng...tổng-đốc Hà-đông, sợ vợ có tiếng.
Vợ ông án-sát tỉnh ấy chết. Hôm bà Án mất, Hà-đông còn mang tên cũ là tỉnh Đơ. Ngày hôm sau, thành Đơ đổi tên là Hà-đông. Thừa dịp, ông Trần-tán-Bình xỏ ngọt ông Đặng ....bằng câu đối phúng bà án:
“....(Vế này không quan hệ),
Phu-nhân hiền đức, địa danh chung cánh tỵ Hàđông.
Ý nói: không phải là Hà-đông sư tử, nên bà không thèm sống trên cái đất mang tên Hà-đông.
Ngày trước, đại tang, các cụ không được đi thi. Rủi cho ông Bùi-hướng-Thành, còn 15 ngày nữa mới hết tang bố, mà kỳ thi đã đến. Nhưng sao lại may cho ông, kỳ thi ấy hoãn lại mười lăm ngày. Ông đi thi, đỗ cử-nhân. Nên chú ý: ông đỗ trên có một người. Ông Trần-tán-Bình mừng ông cử mới:
“Thiên ý diệc liên hoa, cống viện từ lai tam ngũ nhật,
Khuê trung ưng phá tiếu, tài lang áp đắc kỷ đa nhân.”
Ý nói: giời run rủi hoãn kỳ thi lại mười lăm ngày, về nhà vợ phá lên cười: “Chàng đè được nhiều người nhỉ? Đè được một người ? Ý ông Bình muốn nói ông Thành chỉ đè được ... vợ, kết quả: câu đối ấy theo thần hoả lên mây.
Nhiều khi các cụ ngồi chắp chữ chơi. Các cụ cũng cười, cũng nghịch, cũng trẻ trung đáo để.
Một cô hàng thịt đến xin đối tết: Cụ Tam-Nguyên Yên-Đổ đọc luôn:
Tứ thời bát tiết, canh chung thuỷ,
Ngạn liễu đôi bồ, dục điểm trang.
Một ông lý-trưởng đến xin câu đối vế dán chuồng lợn. Cụ Đinh La-Ngạn nói: muốn lợn to ? dài ? Thì viết đi:
“Trường trường, trưởng trưởng, trường trường trưởng;
Trưởng trưởng , trường trường, trưởng trưởng trường.
Lý-trưởng tần-ngần mang về.
Cụ nghè Tân làm đối cho anh thổi kèn, khóc mẹ:
“Hu ta tồ hề, tùng xích tùng tử tịch cốc”
(vế nữa không nhớ). Các bạn nghe: toàn những tiếng mõ, chiêng, trống, kèn,.. .nhưng rất có nghĩa: than ôi ! mẹ bắt chước Xích-Tùng-Tử nhịn ăn (tức là chết).
Cụ Cử Nhung, quê ở xã Bắc-Thôn, tổng trà-Lũ, huyện Giao-thủy, phủ Xuân-trường (Nam-định). Nhân tiết xuân, làng mở hội. Cụ làm câu đối dán cột đình, nơi phòng trà;
Tiết đáo xuân trường lưu nam bắc thôn cư vô hạn lạc;
Tân lai trà lũ chước, tất giao thủy ẩm hữu dư hương.
Ý nói: nhân dịp xuân kéo dài, nam bắc các thôn vui vẻ quá; khách lạ đến đây, xin rót chén trà, chỗ bạn bầu uống nước trà ấy càng có hương vỵ. Rõ ra cảnh làng vào đám. Cụ đã khéo dùng những tiếng : Xuân trường, bắc thôn, trà lũ, giao thuỷ, trong câu đối.
Đêm ba mươi tết, ông Tú-Xương còn nằm ở nhà hát, có bốn cô đầu: Yến, Oanh, Lan , Hạnh. Sáng mùng một, một ông đồ (bạn thân thường đi hát với ông Tú) đến chúc tết, thì vừa gặp ông Tú về. Ông Đồ đọc rằng:
“Tiệc yến bày nhà lan, chúc tết ngâm câu cẩm tú,
Giọng oanh vang ngõ hạnh, mừng xuân dong chữ vinh-xương”
Ông Tú nhoẻn cười nhìn bà Tú !
Nhiều cụ lại giở giọng khôi hài trong câu đối. Cụ Nghè Tân đã nổi tiếng về khoa ấy.
Cụ chúc tết cô ruột:
“Cô lô cô lốc...ốc...
Năm mới năm me...que...”
Để thay câu đối, nhiều khi các cụ chỉ dùng mấy chữ cho giản tiện, nhưng có khi các cụ cũng điểm những nụ cười để mỉa nhau.
Ông Huyện Chén ở Nam-định chết. Ông Tuần Vũ khóc:
“Tống quân nam phố”
Ông đã moi tên hèm ông huyện bằng những chén tống, chén quân, chén nam, chén phố.
Kiểm-duyệt bỏ
LÊ-QUÂN (Sông Vỵ)


Những ngày đầu tiên một năm vô duyên
của NGUYỄN-TUÂN  NGUYỄN-HUYẾN vẽ

Cái năm âm lịch ấy, y như là không có tên gọi - độ số chẳng cần tính theo sự gặp gỡ của thập can thập nhị chi. Năm ấy là Canh Tuất ? là Tân Hợi ? là Nhâm Tý ? là Quý Sửu ?
Cậu Tám có cần biết mà làm gì. Cậu Tám chỉ biết năm ấy là một năm Vô duyên. Vô duyên từ giây phút giao thừa, vô duyên kéo qua ngày khai hạ và cứ thế mà ăn lấn thông mãi xuống ngày Nguyên-Tiêu và mãi và nữa.
Cái năm gì ấy, năm mở đầu toàn bằng những trò vô duyên. Những cái vd vốn không nên đeo lấy một cái tên. Cậu Tám cũng nghĩ vậy, nên mỗi khi còn nhắc đến chuyện của ngày vô duyên cũ, cậu chỉ lấy tuổi mình ra mà gọi năm - lấy ngay cái ngày tháng của thân thế mình ra mà điền vào Thời Gian.
Cái năm em ba mươi, sao mà vô doan đến thế. Thậm vô doan ! Những cái triệu xúi, gở vá ác của một năm mở đầu đã như thế thấy mà hãi quá, các bác ạ. Năm ấy, em tưởng em không tài nào đi tới cho trọn thấu được cái tuổi tam thập. Vậy mà cái năm vô doan ba mươi ấy cũng đi qua xong xuôi cả”
Cậu Tám vốn kiêng chữ duyên, đọc chạnh ra doan. Có một người con hát tên là Duyên. Người ấy lúc giở về già, đã là mẹ cậu Tám. Mỗi lần máy môi đọc kiêng tên mẹ, trông hai cái môi cậu Tám đỏ như son - đỏ như trái hồng chứng chín mọng- lại càng có duyên tệ. Nhưng cái duyên ấy chỉ là chút duyên của người mệnh mỏng, mỏng y như cái đời mẹ cậu. Và con người ta chẳng cứ gì phải là hẳn đàn bà mới được làm người bạc mệnh.
Những bậc đại khoa có tuổi nghe đến tiếng cậu nói, tiếng cậu cười, lại nhớ đến cả một thời thi cử của mình, những lúc chờ ngày nhập trường, những lúc yết bảng rồi, thường được nghe mẹ cậu Tám đàn hát gõ phách ở các tỉnh ấy.
Có những bậc đại khoa, nhớ lại hồi đó cậu Tám mới có một dúm tuổi đầu, nằm lọt vào lòng mẹ, nghe mẹ ngõ phách đến đâu là cười sằng-sặc đến đấy. Mẹ hát đến bài Tỳ Bà cho quan khách nghe, cậu Tám oà lên khóc, rồi nhìn làn khói thuốc lào, thuốc lá của các nhà truy hoan, cậu lại cười và giơ tay đỏi bắt những cái vờn tia khói.
Đứa trẻ đa cảm ấy, tuy là con con hát, nhưng lần lần lớn lên, cũng được học sách thánh hiền, học đến đâu thì nhớ chôn được chữ váo bụng. Rồi cũng thơ, cũng phú, ngâm vịnh một cách tao nhã đường hoàng chẳng kém gì các bậc thiếu niên tai tuấn của cái xã hội lương thiện thời bấy giờ.
Nhưng rủi thay, có tài học đến thứ nào đi nữa, cậu Tám cũng chỉ là con một người con hát – nghĩa là khi người ta là con cháu cái đám xướng-ca thì không còn có đường tiến thân nữa. Mặc dầu cậu thông minh, tài tuấn, kinh sử lầu lầu năm xe, xã hội bấy giờ cũng chỉ liệt cậu vào ngang hàng con cháu thằng mõ
Việc trường ốc triều đình, có bao giờ người ta được thấy con phường hát, con thằng mõ, ..........................được đeo một cái ông quyển mà nhập trường ! Khối người rầu rầu chặc lưỡi hộ cho cậu Tám.
“Cậu ta có được đi, nơi bảng vàng thì chưa chắc nhưng với bảng phấn thì sao sao cũng vớ được một cái cái gì”
Xã hội đã chặt chẽ bất công như thế, không cho cậu Tám tiến thân bằng cái vốn đèn sách mười năm thì lần lữa và lay lứt sống mãi đến cái năm ba mươi tuổi ấy, cậu Tám đã làm những gì để đánh dấu mình vào cuộc đời bấy giờ ?
Cậu Tám đã làm toàn những việc mà những người đứng đắn đạo đức không tha thứ cho. Cậu đã đem cái thân phẫn uất ra mà đánh đổi lấy giang hồ. Cái huyết tính của mẹ chừng như đã định đoạt nhiều cho những đoạn đường lang bạt kỳ hồ này của cậu.
Mẹ Tám vốn hoàn lương đã lâu, thấy con bỏ nhà hoài, nhiều đêm nhớ đến chuyện phách đàn xưa cũ, chỉ biết có than thầm với một cái bếp nhà rộng vắng quá, với một cái vũng nước tù ở cái ao trước nhà cũng rộng vắng quá. Ao sen nở, ao sen lại tàn.
“Thằng Tám nó yêu cái giống bạch-liên này lắm. Lúc không có sen trắng thì ước ao. Lúc mẹ chắt bóp hàn gắn được, dựng nhà, đào ao thả sen cho con chơi, thì con ôi con lại đi xa. Năm ấy và năm khác.”
Một lần nòng nực nọ, thấy sen trắng nở kín cả mặt nước ao, mẹ Tám tiếc của trời, bơi chiếc thuyền thúng bé con lách vào đám hoa lá, cốt bứt lấy hết nhị hoa về ướp chè để dành cho cậu Tám ít vò và còn thừa thì đem bán cho cái đám phong lưu hành lạc râu tóc phơ phơ thỉnh thoảng vẫn còn tìm đến để hỏi bà về một vài làn hát thất truyền.
Mẹ Tám đã thảng thốt rồi lo phiền khi nhận ra rằng cả một ao sen trắng đã biến ra thành hoa quỳ, nghĩa là thiếu hẳn cái từng bách diệp cánh lăn tăn ở trong. Thế tức là điềm gở. Thế tức là vận nhà sắp buông đến nơi. Mẹ Tám bất giác lại nhớ đến người chồng bất hạnh – lúc gần nằm xuống, ao sen nhà chồng cũng ngả ra ao quỳ.
Bà liền nhắn nhời khắp kẻ chợ thôn quê tìm cho được cậu Tám.
Cậu Tám đã trở về.
Hai mẹ con, mỗi ngày nửa vò rượu đậu. Buổi sớm, buổi tối, lặng nhìn nhau, một chén lại một chén. Mỗi ngày, ngoài chén rượu, cậu Tám lại còn kèm vào một chén thuốc, lấy thứ cỏ khô thả hơi sương mà làm thang bỏ thêm vào. Trong một cái nhà, có một người ốm, kể cũng còn hơn là không có bóng người. Cái bận bực rộn ràng của việc thuốc thang vẫn còn quý hơn cái yên tĩnh của thui thủi.
Mãi đến cuối tháng chạp, cậu Tám mới thật là khỏe. Nơi lưng bàn tay tháp bút, đã hết hẳn những cái gân xanh ngòng ngoèo.
Mẹ cậu Tám thấy vui trong lòng, đem cỗ phách mốc ra xóc thử mấy khổ. Cậu Tám lại cười như thuở bé. Và cũng ngâm theo một bài phú. Chưa lúc nào mẹ con được hể hả đến như thế.
“Trình để đẻ mừng cho con. Từ nay có lẽ con không quặt quẹo nữa. Tiếng con ngâm phú tròn và ấm đến như thế, đẻ cũng hiểu đấy chứ ? Ba năm nay, con thất thanh, tiếng cứ đục chìm hết cả ; thỉnh thoảng vui anh em, cất tiếng hát một câu, thì giọng Bắc đố mà bắt được. Chỉ toàn hơi Nam thôi...Từ bây giờ con ở nhà luôn với đẻ cho đẻ đỡ buồn.”
Mẹ con lại càng chén tạc chén thù.
Như thế rồi năm hết. Buổi trừ tịch, ngồi chờ lúc giao thừa, cậu Tám đợi những triệu cát tường đến cho thật nhiều để đánh dấu vào cái tuổi sớm mới chỉ một lát một chập nữa là đã ba mươi.
“Thử xem cái năm nay, rồi có khác mọi năm không ?”
Cả một buổi sớm mồng một, cậu Tám chờ mãi, đợi mãi vẫn chưa thấy gì. Cậu nhìn trời, cậu lắng không khí. Không khí chỉ sặc nồng một mùi khói diêm sinh của bao nhiêu vạn pháo thiên hạ đón chúa Xuân.
Chưa muốn xuất hành vội, chưa biết nên làm gì, cậu hãy lấy một mảnh hoa tiên lòng trứng vẽ đôi chim yến ra để khai bút.
Những dòng chữ vẫn sương kính, và đôi ba chữ lại có cái chấm thuỷ rất hồn hậu. cậu Tám nghiêng đầu ngắm nghía, lấy làm bằng lòng và tự ước thầm:
“Nếu đời mình từ cái tuổi tam thập nhị lập này trở đi, lúc nào cũng được tươi sáng, tròn như những con chữ khai bút này.”
Lòng khấp-khởi, cậu ký tên, kèm thêm cái tên hiệu Ấu Mai Bát Lang. Bỗng quản bút chụt khỏi tay cậu, nhấn mực xuống xoá nhèm cả mấy chữ cuối cùng. Cậu Tám biến sắc mặt. Và lặng lẽ buồn như một kẻ sĩ ngồi dưới một cái lều thi một khoa thi cuối cùng của buổi giao thời, nhỡ làm tì ố mất quyển bài. Việc khai bút đầu năm đã đem lại một cái buồn vô hạn rất có tính cách nghiệp-dĩ.
Cậu Tám dìm cái buồn ấy vào nửa vò rượu. Tàng tàng chén xuân, cậu mới bói đến hoa. Thì mấy chậu lan Trần Mộng đã bị rệp đốt từ những năm ngoái, bao nhiêu cuống rò đều nẫu cả. Cậu ngán ngẩm nhìn lũ lan gầy phô những cái màng hoa teo tóp và thâm sì. Chênh vênh trên cái vườn lan xấu số là một cái chuồng chim bồ câu lỗ nào cũng trống trải.
“Cái đàn chim, hồi tháng tám, chẳng hiểu tại sao mà chúng rủ nhau bỏ đi hết, mẹ lo quá. Lại cái điềm không hay gì đây.”
Cậu Tám suy nghĩ nhiều về một câu của mẹ nói vào khoảng năm ngoái, lúc cậu uống thuốc ghé bổ.
Thế là cả một ngày mùng một, hai việc Bút và Hoa đã làm cho Ấu Mai Bát Lang lo nghĩ hết cả một đêm xuân.
Ngày mùng hai. Cậu Tám xuất hành. Làng vốn có sông bọc ở phía dưới, ngăn làng với cái chợ Huyện ra làm hai. Cậu Tám chọn phương hướng, thấy phương Nam là lợi. Đi về hướng Nam tức là đi Chợ Huyện và phải qua con đò ngang bến sông Dâu. À, thôi phải rồi, cậu sẽ bói đò. Những người buôn bán sau một năm ròng phát tài, thường nhắc đến những lúc bói may được gặp đò chuyến lúc đầu năm
Cậu Tám tiến ra nẻo sông. Chưa đến bến, nhìn qua cái lỗ hổng nơi luỹ tre to bằng cái nong, cậu đã thấy thấy một con đò lừ lừ ra giữa sông, trên mạn đò, vô khối là áo đỏ, quần đỏ, khăn đỏ. Thế là định bói đò thì được nhỡ ngay đò ! Đã sướng chưa, hở Trời !
Rượu li bì, đem cái dở tỉnh ra mà nhắm với cái say, cậu Tám chẳng còn biết xuân là của ai nữa.
Cách đấy ít ngày, một đêm thức giấc, cậu nghe thấy tiếng trống tuồng. Sắm sửa khăn áo, cậu tấp tểnh lần theo tiếng trống mà tìm tới đình làng, đầu nặng nhẹ những hơi men. Làng hát bội, tội gì mà không bói. Tích tuồng Sơn-Hậu đệ nhị. Sao lại đệ nhị ? Thường niên, hát khai xuân, thiên hạ ai cũng cho hát Sơn Hậu đệ tam kia mà ! Lớp đệ tam là lớp phục quốc, nhà Tề trung hưng ngay sẽ thắng gian và những người đi bói tuồng sẽ không lo sợ điềm xấu.
Nhưng thôi, cậu Tám cũng cứ vào.
...Trên sân khấu, có một người cụt đầu, chùm cái áo bào xanh đang cầm một ngọn nến, vừa bỏ bộ lom khom vừa ngậm một giọng bạch:
“Phất phơ cùng gió than cùng gió ứ.. ứ.
“Phảng phất nương mây tựa với mââây !”
Đấy là một giọng tuồng ngâm gióng một và cái làn hát ấy gọi là “giọng hát ma”
. À, vậy ra cậu Tám đã bói tuồng vào giữa lúc Khương-Linh-Tá bị Tạ-Ôn-Đình chém mất đầu. Cậu Tám thèm một cái mặt đỏ của một vai tuồng trung nghĩa. Số phận đã cho cậu bói đúng vào một chiếc bào màu xanh lè không có đầu. Rượi ngấm, gió đêm xuân thổi lọt vào ; ngọn đèn treo giữa đình và ngọn nến nơi tay Khương-Linh-Tá đều nháy theo một nhịp, một chiều. Cậu Tám thấy lạnh. Trên sân khấu bày cảnh đèo núi lúc khuya, Kim Lân đang dẫn bà phi tị loan, có hồn Linh-Tá hiện lên dẫn lối. Cậu Tám bỏ ra về. Mấy câu hát sầu thảm rờn rợn còn đuổi theo cậu.
“Đường tăm tối tiếng ai trong ấy ?
“Kim Lân anh ơi, Linh Tá em đây.
“Em nay đã về miền dị lộ...”
Từ buổi xem tuồng ấy, cậu Tám đâm ra ốm lại. Nhớ ngày hôm ấy là Tết nguyên tiêu, cậu cũng cố lần ra chùa làng để xin một quẻ thẻ bình yên đầu năm. cậu thành kính quỳ xuống trước bệ thờ, xóc thẻ lâu lắm mà không thẻ nào rớt xuống chiếu. Cậu lắc mãi ống, lắc mãi ống. Nén nhang cúng Phật đã cháy hết một nửa. Sau cùng cậu Tám bình thân lại, không xóc nữa, đành rút lấy một thẻ trong số sáu chục thẻ nơi ống vậy. Không hiểu tại sào, cậu lại rút phải một cái thẻ không có số hiệu quẻ bói.
Cậu Tám quyết bỏ nhà, vào một ngày của tiết Lập-Xuân, định lại đem cái vô duyên của mình mà đổi thêm nốt nữa cho giang hồ vậy.
Đi khỏi làng đã xa, cậu đã dừng lại bên đường một lúc lâu. Vì nơi cái chõng tre quán hàng nước, ấy, lại có một củ thuỷ tiên lá ngồng vượt lên trên một cái bát đàn. Nép bên khóm hoa vô duyên đặt không xứng chỗ là một bà già mặc cái áo cánh bông rách ngồi sợ lạnh bên chiếc chõng vẹo.


Nguyễn Tuân



Ý xuân


Trong cuốn tiểu thuyết bất hủ “NGƯỜI MẸ” nữ sĩ Pearl S.Buck có viết:
“Một lần nữa, mùa xuân lại đến...
“Người thiếu phụ đi đường thấy trong lòng mình tràn-ngập một cách khác thường, bởi cái êm dịu ngày hôm ấy. Từ trước đến giờ, cái cảnh nơi thung lũng này luôn luôn phô bày trước mắt nàng, mà nàng thì làm ăn kham khổ đến nỗi không bao giờ nghĩ đến sự ngẩng đầu lên mà nhìn quang cảnh ngoại-vật. Nàng chỉ hoàn-toàn chăm chú đến những đồng-ruộng của mình, đến nếp nhà của mình, nàng lúc nào cũng bận việc tố mày tắt mặt.
“Nhưng bây giờ nàng mới mở mặt mở mày và nàng mới nhìn rõ : những cây dương-liễu xanh rì lá non bóng mỡ, những bông hoa lê mãn-khai cánh tung trước gió ; chỗ này, chỗ kia, màu lửa lựu chói trong chồi xuân; gió mơn nhẹ mà đầm-ấm, thoảng lên từng cơn rồi lại dịu đi ngay. Người thiếu-phụ lòng tự hỏi lòng : cái im-lặng âm-thầm và ấm cúng kia, mỗi khi gió đứng, hương của đám đất-ruộng cày toả lên, mà đem so sánh với những đợt gió nhẹ nhàng thơm phưng-phức nào biết thứ nào êm hơn, thứ nào dịu dàng hơn. Từ cái bình-thản đến cái sôi nổi đột nhiên của khí trời, nàng phải nhận thấy, phải hiểu thấy là mình có một thân thể mạnh mẽ, bừng-bừng sự sinh sống Nàng lại thấy mình có một lòng muốn mênh-mông được gặp đàn ông...”
Đó, cái buổi xuân ấm-áp nhẹ-nhàng đưa lại cho người ta bao nhiêu cái rạo-rực của xác-thịt. Nhưng phải chăng là một cớ khiến ta có thể thoát-ly bổn-phận – dù là trong một ngày xuân - được không ?
Thiên truyện ngắn của bạn Huyền-Hà dịch đăng ở dưới đây sẽ cực tả cuộc xung đột thiên thu đó một bên là tiếng lòng, một bên là bổn phận thiêng liêng, một bên là nhục dục, một bên là tinh-thần cao cả.
Người đàn bà sẽ đi về phía nào ? Bổn phận bao giờ cũng là trọng mà tiếng gọi của xác thịt bao giờ cũng là khinh Người đàn bà biết thế lắm, hiểu thế lắm, nhưng như lời Somer-set Maugham đã nói “Bao nhiêu lời triết lý đều vô ích cả”. .Linh hồn bị sa ngã..Một sự hối hận mênh mông. Người đàn bà có thể lầm lỗi và nếu lầm lỗi một lần nữa thì vẫn có thể bị lầm lần nữa, như thường, nhưng, như Marie ở trong truyện các bạn sắp đọc đây, thực quả đã sống trong một cảnh rất mờ ám của linh hồn, và bao nhiêu lý lẽ nàng viện ra để che đỡ tội lỗi của mình, đều là gắng gượng, đều bị đổ cả trước “Bổn-Phận” viết bằng chữ lửa
Marie nói: “Dù tôi muốn đến đâu, tôi cũng không thể gợi trong lương tâm bới lấy một tí chút hối hận. .” Nàng tưởng thế mà thôi, chứ thực ra chính những lúc người ta không ngờ nhất thì hối hận lại với người ta và “nói rằng không hối hận ấy tức là hối hận rồi” !
Chúng tôi xin có lới nói trước với bạn đọc rằng cái nghệ thuật của A.t’ Serstevens tác giả truyện này rất cao siêu, thuần tuý Vậy bạn đọc đọc bài này xin chớ nghiêm khắc mà xét đoán vội vàng, nhưng phải nên hiểu cao lên cho một tầng...
Marie là một người đáng thương hại có một tâm hồn không yên ổn nhưng không phải là một cái gương để bạn gái ta bắt chước ; Marie là một người ghê tởm mình vì đã lừa chồng ; một người có học nhưng không át nổi thú-tính trong người vậy.
Người ta thực sự người nào cũng giống người nào hết. Chỉ có hai chữ này là phân biệt được họ thôi: Hy-Sinh và Bổn-Phận Ai là người biết đặt hai chữ đó lên trên hết cả thì là “Người” - Người, theo cái nghĩa rất rộng rãi, rất uyên thâm của chữ ấy trong cuốn tự vị nhân sinh vậy.
T.B.C.N.

Thư Marie gửi cho Lucien
Quý hữu,
Tôi có thể gọi anh như thế được không, dù xưa nay tôi vẫn khó chịu vì những lý-thuyết của anh cho rằng tình bằng-hữu giữa đàn-ông, đàn-bà không thể nào có được. Anh hãy cứ tạm nhận là có, ít ra trong lúc anh đọc bức thư này. Tôi sẽ kể với anh như là kể với một ông thầy rửa-tội. Nhưng anh sẽ là một vị thầy-cả chưa chịu phép-tắc riêng gì, mà lại là một người đầy dẫy tội lỗi hơn là kẻ này đi ăn-năn tội nữa.
Anh đã biết đời của tôi rất sung sướng đầy đủ. Bao giờ tôi cũng yêu chồng tôi lắm. Mà về đường xác thịt, đối với chồng tôi, chắn-chắn là bao giờ tôi cũng có lòng quyến-luyến mãnh-liệt.
Chúng tôi ở Biarritz được mười hôm rồi; mười ngày ấy dùng vào một cuộc đời ngoài tôn-giáo, dùng để mặc đồ tắm, hay áo quàng để vung vẩy trong làn nước, trong cát vàng, trong ánh nắng, đẻ mà chung đụng với những sức-mạnh căn-bản của sự sinh sống.
Ngày thứ ba, khi tôi uống chè ở ngoài hiên hàng bánh ngọt thì thấy một chàng trẻ tuổi đi qua. Trông cũng khá, không đến nỗi nào, cặp mắt thì xinh đẹp, trông chàng ngon lành lắm ; nói rút lại, chàng không có vẻ gì là khác thường, nhưng chàng là hiện-thân của cái quan-niệm của tôi về người đàn-ông, mà tôi vẫn thích nhìn cho sướng mắt, từ khi lên mười tuổi. Thế nghĩa là từ chưa quá hai-mươi-nhăm năm, anh có thể tin là đúng đấy. Nhưng mà tôi vẫn thấy cảm-động trước vẻ đẹp thuần-khiết của người đàn-ông, tôi sôi nổi như một người đàn-bà bốn-mươi tuổi có thể sôi-nổi được.
Chàng chăm chú nhìn tôi. Và từ lúc ấy, trên đời tôi coi như không còn có ai nữa. Một giờ sau, Jean, chồng tôi, giới-thiệu chàng với tôi. Tôi không dám giấu anh đâu. Chàng là tài tử hát cao-thanh ở bọn ca-kịch diễn trong Câu-lạc-Bộ. Tôi cũng sắp phải dạo đàn piano ở đấy.
Trong ba hôm, trái tim của tôi đập mạnh đến nỗi cái sôi-nổi của nó, cái tiếng động của nó làm tôi thao thức cả đêm. Đầu tôi dường như đau rức vì bao ý thèm thuồng.
Trong ba  ngày ấy, tôi có gặp chàng nhiều bận. Có lẽ, khi nói chuyện, tôi đã đi quá nửa đường cái điều mình muốn giải bày - bởi vì tôi thực tính. Sau cùng, chàng mới ngỏ lòng. Chúng tôi đã hẹn-hò nhau hai lần rồi, nhưng đều lỡ cả, vì sự tinh ý của một đứa con hát, nó vốn là nhân-ngãi của chàng. Nó quả là một đứa ngu dại, chỉ biết nghĩ đến sự ghen tuông bằng súng lục, bằng nước cường-toan. Vả lại, chúng tôi chẳng còn có thì giờ nữa. Đến lúc sau cùng, chàng có khẩn khoản để tôi viết cho chàng một bức thư... Mà cái bức hoa-tiên khéo mới là một cách tỏ-tình sao nhỉ ! Tuy vậy tôi không muốn hứa hẹn gì cả. Nhưng thật ra, tôi cũng không hiểu biết tôi là cái gì nữa. Anh hãy khen thầm cái ranh mãnh oái-oăm của bước đời : từ mấy tháng nay, Jean và tôi đã dự định đi chơi Marseille vào trung-tuần tháng mưới, Jean thì đi đến đấy có việc, và gánh hát của chàng kia cũng đi vòng qua đấy !
Trời ơi ! Tôi bây giờ ra làm sao ? Xưa nay tôi vẫn khinh ghét cái tình-yêu nhục-thể, mà bây giờ tôi chỉ thấy có tình-dục thôi, mà tình dục ấy lại còn được biểu-dương lên nữa ! Tuy vậy, tôi vẫn có những triệu -chứng về một đường tinh-thần thuần-tuý nhất ; tôi hiểu sự vật, tôi hiểu cái đẹp một cách mới-mẻ, tôi thấy mình luôn luôn bằng lòng, hả hê mãi mãi như một tia nước vô tận, tôi có những tư-tưởng đẹp, ví như những tăm nước trong veo sủi trên gương nước của tâm-hồn. Đối với Jean, những cảm-tưởng từ xưa của tôi vẫn không có gì là thay đổi. Nhưng về phần vật chất, tôi cho là chồng tôi không còn nữa, xác thịt của chồng tôi thật là xa lạ. Xưa kia chồng tôi còn ghen bóng gió với những người mà tôi không hề nghĩ đến, thế mà ngay lúc đó chồng tôi cũng mù quáng không thấy gì, nhưng cũng phải ngạc nhiên, từ hồi ấy, về sự lạnh-lùng của tôi. Chồng tôi phải lưu lại ở Bordeaux lâu ngày. Sự xa vắng ấy làm tôi vô cùng dễ chịu.
Anh vẫn nên biết rằng tôi vẫn chưa thể tương tượng  chỉ sống cuộc đời với một mình chồng tôi thôi. Tôi nghĩ đến sự chung đụng một giờ với anh chàng nọ, cái ý nghĩa ấy tôi cho là vô nghĩa-lý thật, nhưng nghĩ đế sự không bao giờ trải qua cái giờ ấy, tôi cho là đời sẽ tối tăm quá lắm. Anh nên hiều rằng cái giớ ấy đến ngày mai, hay trong sáu tháng nữa, sự ấy tôi không lấy gì làm quan ngại...
Anh hãy giảng - nếu có thể - cho tôi biết tôi bây giờ ra làm sao. Anh cho tôi một điều khuyên. Nên thú hết với Jean ư ? Nhưng chồng tôi cần có tôi nhiều lắm, tôi nào kể hết cái cần ấy cho anh được. Bảo cho chồng tôi biết là  vợ chồng từ nay chỉ sống trong nghĩa bạn bè ư ? Chồng tôi tất không bằng lòng đâu ! tôi nhớ ra câu này của “cái-nhà-ông triết-học Nietzche” của anh : :Muốn thắng sự cám-dỗ, chỉ có một cánh là chiều theo sự cám-dỗ”.
Anh tất sẽ bảo rằng tôi bước theo một con đường dốc xâu xa, nhưng tôi không tin là thế đâu. Năm mười-sáu tuổi, tôi có yêu dòng-dã hai năm trời – anh muốn hiểu hay không, tuỳ ý - một người đã có vợ rồi,và hơn tuổi tôi nhiều lắm. Y chỉ ban cho tôi một cái hôn môi. Chỉ có cái hôn ấy, mà tôi sống hai năm thú-vị trong nhục-tính, sống trong kỷ-niệm của nó.
Tôi bắt đầu hiểu thế nào là ái-tình rồi ; bản-chất của nó vốn mỏng như tờ, nó lìa chúng ta chính vào lúc ta muốn lâu dài cố-kết với nó. Thật là cả một mùa xuân sống lại trong lòng tôi. Hồi còn con gái, tôi đã thừa-nhận cái triết-lý của Platon cho phù-hạp với sự nhu-cần của lòng: tôi coi cái phút độc-nhất như một phút thần mà ta không thể đo lường được, nó không giống với phút nào khác và nó không thể bao giờ trở lại. Sau nữa, cái tính vốn lành của tôi xui tôi xây dựng trên đám đất hoang của luân-lý Gia-Tô một toà nhà nhỏ hẹp, tôi ở đấy rất là mãn ý. rồi toà nhà ấy cũng đổ nốt, tôi đứng trên cõi đất trơ-trọi, gió đập vào mi-mắt tôi. Có phải là tự bao nhiêu năm rồi, tôi tự dối lòng tôi chăng ? Có lúc tôi tin rằng trong thâm-tâm của tôi có một con vật nho nhỏ nó vùng vậy, nó vô-tư-lự và hoàn-toàn ưa thích nhục-dục. Hay là tôi giống như những kỹ-nữ Hy-lạp mà anh vẫn thường nói đến, họ thuyết-lý với các nhà triết-học – nói cho đúng, bọn triết-học đó là anh đấy, tuy là anh đâu có đức-độ bằng Socrate nhỉ ! – nhưng họ vẫn yêu thương các gã thanh-niên thịt bắp, vai u ?
Có lẽ số-kiếp sẽ gánh đỡ hộ tôi cái khởi-ý quyết định kia. Thực ra, chàng đợi một là giao-kèo ở bên Mỹ, và có lẽ chàng sẽ ra đi trước ngày gặp tôi ở Marseille. Tôi không chắc rằng trong trường-hợp ấy tôi sẽ cám tạ số kiếp đâu. Rồi mãi mãi, tôi sẽ tự hỏi rằng: “Tại sao tôi không yêu ai bằng cái anh chàng chỉ biết ca hát, cái người mà tôi không có lấy đủ mưới điều ý-hợp tâm-đầu ?” Một hôm, chàng bảo tôi rằng chàng có đa-mang đứa con hát kia, nhưng chẳng có tình gì cả, chỉ tại “sự cần dùng về xác thịt”. Thí dụ anh mà có nói thế, tất tôi sẽ mích lòng, sẽ ghê tởm anh gớm lắm. Nhưng ở miệng chàng nói ra, tôi không thấy thế đâu. Khi chàng nhìn bóng tôi in xuống nước, tôi thấy rõ răng cái tâm hồn muốn thắng cái xác-thịt, nó như muốn thay đổi cả cái hình-hài đầy khuyết-điểm của tôi vậy.
Anh hãy giữ lấy bức thư này. Có lẽ một ngày kia, tôi sẽ hỏi xin lại anh. Nếu tôi viềt thư cho anh, là có lẽ tại anh hơi có chút trách-nhiệm về cái việc xảy ra cho tôi. Mỗi một khi chúng ta nói chuyện, mỗi một lý thuyết của anh về cái tình hoàn-toàn vật-chất, đều ghi vào lòng tôi một chút hồ-nghi, bây giờ tôi mới nhận ra thế ! Tôi giả nhời cho anh, nhưng chính thực thì tôi giả nhời cho lòng của tôi biết. Xưa kia tôi vẫn ghê tởm sự dối-trá, mà bây giờ tôi khám phá là tôi là tôi có thể dối-trá vô cùng.
Anh cho tôi biết ý-kiến của anh.
MARIE

II
Thư Lucien gửi cho Marie
Tôi thật khó mà giả-nhời bức thư của bà chị. Bởi vì nế`u tôi là tự xưng là bạn của chị- có lẽ không còn chữ gì có thể tỏ đúng cái tình của tôi đối với chị - còn điều chắc chắn là tôi là bạn của anh Jean nữa.
Tuy vậy, tôi không thể cho chị một bài học về luân-lý được. Chị sẽ bảo là tôi chỉ có luân-lý để thuyết với người ta thôi. Vả lại tôi cũng gần tin chắc rằng tôi sẽ mang những câu châm-ngôn của tôi đến chậm trễ quá. Chị đã quá chân trong cái ham-mê chốc lát mất rồi, tôi có khuyên-giải cũng không gỡ ra được. Mà tất cả những lời răn của những nhà triết-học cũng không đủ để mà tháo gỡ, chết một nỗi nữa là bà chị cũng biết cách để hiểu những lời khuyên ấy theo ý muốn của mình. Cái tình-thế này phải là nghiêm-trọng lắm, bởi vì bà chị không là người rởm chữ. Trời ơi, không phải thế đâu ! – mà cũng còn phải kêu cầu đến Platon và Nietzche, đấy là không kể đến tôi là một Socrate vụng về.
Chị yêu cái anh kép hát nhỏ của chị, mà chị lại khoan-khoái kể cho tôi biết. Có lẽ không phải chính cái tình cảm, mà là sự thú-tội ấy nó bày ra cái cảnh không thể hàn gắn kia. Nếu trước bà chị nghĩ là có thể thoái hồi không mơ tưởng nữa, tất bà chị không bao giờ nói gì cho tôi biết đâu.
Đã hay rằng chị tự khám-phá thấy mình có một kho dối-trá vô-tận, chị cứ tha-hồ dùng nó để mà che mắt anh Jean. Hạnh-phúc anh là ở trong tay chị. Chị hãy cố sức đối đãi với anh trước sau như một, trong cái lúc vui chơi khoảnh khắc này. Ở trường-hợp này, cái điều mà ta gọi là lòng chính-trực, nó chỉ là ích-kỷ và ác tâm mà thôi. Người ta mua lấy sự thư thái trong lòng bằng cách giày xéo trái tim kẻ khác. Nói cho cùng, không có gì dễ hơn là theo con đường mà thói quen đã vạch san trong bốn năm trời duyên nợ. Chị sẽ bảo tôi : có lẽ đó là một cử chỉ hèn nhát. Tôi cũng không rõ. Dù sao, giá nó có hèn nhát chăng nữa, nhưng đối với chị, nó đã thành ra một bổn-phận rồi.
LUCIEN

III
Thư Marie gửi cho Lucien
Than ôi, quý hữu ạ, không, tôi không thắng nổi lòng tôi đâu. Tôi bắt buộc phải thú với anh, vì anh đã lấy thân-tình mà chịu nghe câu chuyện ấy, vì anh đã giả nhời cho tôi.
Ồ, tôi không nhắc lại nhiều đường nhiều nẻo về cái đầu-đề lãng-mạn này: cả một cái cục-diện thế-gian đã thay đổi chỉ vì một người đàn ông đã ôm ấp tôi trong lòng. Nhưng tại sao tôi lại thân-mật ngay lập tức trong phạm-vi vật chất với một người xa lạ (anh có hiểu tôi muốn nói gì không ?), ôi lại giao cảm xác thịt nmột cách sung sướng mà dễ dàng, cái đồng thanh đồng khí ây tôi đâu dám ngờ là có thể chia sẻ với người nào được ? Ở thời đại cổ-sơ mà Ái-tình chưa có tên gọi, với những sự cao quý của nó, với những khúc-triết của nó, chàng kia có lẽ chỉ là đàn ông của tôi, thế thôi...
Mặc dàu những điều anh đã nói với tôi, anh nên tin rằng tôi không yêu chàng kia đâu, theo cái nghĩa chữ yêu.Lấy việc này ra làm thí dụ: chúng tôi xa nhau đến nay được mười lăm ngày rồi, mà tôi không thèm muốn chàng tí nào, hay là tôi chưa có muốn tái-ngộ với chàng. Có là thư của chàng đợi tôi ở nhà dây-thép, mà tôi cũng không buồn đi lấy về. Có cần gì thư với từ để nhớ đến nhau đâu, nếu tôi còn giữ trên mội hương-vị cái hôn của chàng, nó như một đoá hoa vô hình ảnh. Dường như trên đời này chỉ có tôi với chàng mà thôi. Đối với tất cả bất cứ những người, những sự vật khác, tôi có cảm giác mình là hư không, còn tất cả chỉ là hình-thức. Dù tôi muốn đến đâu, tôi cũng không thể gợi trong lương-tâm bới lấy một tí chút hối-hận : lòng tôi chỉ tràn-ngập một sự đầy đủ vui thích, cái dễ dàng trong sự làm việc mà tôi đã quên lãng đi rồi bây giờ lại quay trở lại, tôi đàn lại tất lá các bản đàn của Mozart. Đã hẳn ca tôi thư-thái trong lòng khi tôi chỉ nghĩ đến tôi thôi, hay nói cho đúng khi tôi nghĩ là tôi chỉ có một mình, không ai khuấy rối. Vì anh đã thừa đoán là cái mặt trái của cuộc đời nó chẳng hay-hớm gì. Tôi vẫn âu yếm Jean, vẫn mang một tình đùm-bọc cho nhau, tôi chỉ nhìn và hiểu cuộc đời thực-tế với một mình chồng tôi thôi.
Còn cái anh kép-hát nhỏ của tôi, giá nhìn xa, thì cũng không đến nỗi ngốc-nghếch như các cậu nhân-tình người ta tạo nên. Chàng có duyên lắm, trơ-tráo một cách tự nhiên, khoẻ khoắn, chàng có khối óc thiên về bản năng. Dù sao, sau mười lăm hôm chung đụng với chàng, rồi tôi cũng sẽ buồn. Nhưng tôi không thể tự giấu lòng rằng trong hai giờ đồng hồ tôi phó thác thân tôi cho chàng, đâu có được thực-thà tha thiết như tôi đã phó thác thân tôi cho anh Jean từ bốn năm trời nay.
Nếu ngày mai tôi có chết đi, chỉ có chồng tôi là đáng kể trong cái ký ức của tôi về sự vật chất. Tình âu-yếm của chồng tôi dù không khéo léo cho lắm, nhưng nó là lần đầu tiên mà thân thể tôi được hiểu là xác thịt sinh ra để làm gì.
Nếu trong câu tâm-sự của tôi có điều gì hơi quá đáng, làm anh mích lòng, anh cứ đổ lỗi cho những nàng tiên đỡ đầu cho tôi, có lẽ các bà ấy quên không nặn cho tôi hai sự hổ thẹn nhi nữ về hồn, về xác cho nó đi đôi với nhau (anh chắc cũng chẳng lạ gì cái xác thịt trần truồng của tôi, suy rằng chúng ta chỉ mới trao đổi những cái bắt tay). Để đền bù cho sự quên lãng của các cô tiên đỡ đầu ấy, có lẽ một ngày kia tôi sẽ được làm một bà cu già bé nhỏ tươi ròn đấy ! Ở trong cảnh này, tôi chỉ thấy có một chước mà thôi : nói dối, nói dối bằng lỗ miệng, nói dối, than ôi ! bằng thân-thể của mình ! Tôi chỉ muốn có thể nói ra rằng: cái tình thoảng qua của tôi đã qua rồi. Nhưng tôi nào có biết nếu tình cờ khiến tôi được gần chàng, tôi nào có thể giữ mình không về với chàng, cũng như ngọn suối không thể không chảy về nơi thung-lũng. Tôi thực tình mong mỏi - rằng sự ngẫu-nhiên không chơi khăm như thế đâu. Tôi ghê tởm không muốn lừa dối chồng nhiều hơn nữa.
Nhưng, hỡi ôi ! bạn ơi, khi nào tôi thấy lẻ loi, tôi đến phải cắn răng mà không nhắc đến tên chàng nữa.
MARIE
Tái bùt. – Mà rồi, câu chuyện đó có quan hệ gì đâu, phải không ? Chung quanh tôi, mọi vật đều bồn chồn giống in như cảnh-ngộ của tôi giống một cách dị kỳ. Anh sẽ bảo tôi, rằng cái cục diện thế gian đâu có suy-suyễn vì một vài cái hôn yêu... Dù sao, trong mấy lúc ngắn ngủi, tôi đã hiểu nhiều hơn là trong cả một đời...
HUYỀN-HÀ


Ngày Tết ở Nhật


Ăn zoomi chàm với misso rồi uống rượu tosso trong ngày Tết, người Nhật-bản kiêng nhất vần “ shi “ cũng như ở nước ta kiêng nói đến tên con ... bố dù.
Từ khi người Nhật theo dương lịch (1872), ngày Tết của họ không còn được linh-đình như hồi còn theo âm-lịch và cũng vì thế, ngày đầu năm mất đi nhiều thi vị.
Bắt đầu từ 13 Décembre họ đã sửa soạn cọ rửa khắp cả nhà lau chùi đồ đạc để kịp đến ngày lễ Motchis (tức là lễ bánh nhân gạo) ; nhiều nhà đến  dịp này phải mời các tay đầu bếp chuyên môn. Họ đến từng nhà và mang theo các đồ nghề lỉnh kỉnh dùng vào việc gói bánh.
Trước Tết hai ba ngày, ngoài cửa trong nhà đều trang hoàng một cách có ý nghĩa. Mỗi cửa đều có chậu trồng những cây thông (kadomatsu) và tre cao để cầu phúc vì người Nhật tin rằng ở trong những cây ấy có trú ẩn những vị phúc thần. Trên mái hiên mắc một giàn rơm Tết như Tết đuôi sam, Tự ở giàn, rủ xuống những sợi rơm lơ thơ khác. Lối trang hoàng này là một cổ-tục truyền lại. Tổ tiên người Nhật xưa trong những hội hè vẫn ưa làm cái gì đơn giản. Thêm vài giàn rơm ấy, còn mắc lủng lẳng vài quả chanh, mấy con tôm rồng, vài nhánh rêu bể, mấy cây dương-xỉ tục gọi là đuôi cáo và một ít lá xanh của cây Irizousia. Mỗi thứ này đều mang một ý nghĩ tốt lành cho người trong nhà.
Đêm hôm 1 er janvier, một vài đền miếu mở cửa. Trong cung đèn thắp sáng chưng, các thiện-nam tín-nữ đến đó ấy mồi lửa đem về. Họ dùng mồi lửa này để nấu zoomi, một thứ bánh gạo tẩm nước chấm Misso, một món ăn có đậu trắng nhiễn ra trộn với lúa mạch và muối. Bữa tiệc đầu năm, ăn trước khi mặt trời mọc, chỉ độc có một món này. Sau đậu trắng đến đậu đen ngưới Nhật dùng trong gia-đình, trong những bữa cơm thường cùng với hai thứ cá: giống Kazannoki đánh ở bể Yezo và giống Gomaníe thường sống từng đàn đông vô kể như cá mòi.
Những hạt đậu nhỏ và nhiều trong lòng trái đậu, những con Kazannoki thường sinh nở từng đàn, những con Gomaníe thường sống tụ họp hàng mấy ngàn con, đối với dân Phù-tang là tượng-trưng câu châm-ngôn : “Hãy sinh nở cho nhiều gấp bội lên” và là chỉ-thị một hi-vọng đẹp ! Lúc đó người ta mới uống rượu “tosso” nấu bằng các dược-thảo, vị hơi đắng, nhưng theo các tay sành uống thì có một hương vị êm-ái lắm.
Tất cả cái mỹ-vị-pháp tượng trưng ấy cũng không khiến người Nhật quên các lễ-nghi ngày đầu năm bó buộc tất cả các dân trong nước phải theo.
Trong triều
Thiên-hoàng tiếp các văn võ, quần thần, Võ quan bậc phẩm phục có tua, phẩm phục văn quan thêu kim tiến nhiều ít tuỳ theo quan cấp, ngài nào ít tước-vị thì mặc thường phục đen.
Năm 1872 - bắt đầu bỏ âm-lịch – là năm cuối cùng Thiên-Hoàng tiếp,các quần thần theo nghi lễ ngày xưa. Vua bận đại triều phục lối ngày xưa Chỉ trong vài phút, các quan liêu ngoịa quốc được trông thấy như thế, rồ một cái màn che đi thế là một thời-đại cổ-điển chấm hết. Bậy giờ thì vua đội mũ có lông chim trắng, áo có tua, quần bằng len casimir viền nẹp kim tiến.
Tại nhà các quan cao cấp.
Rộn rịp, đi thăm và chúc tụng lẫn nhau; các mã-phu tranh nhau đón khác trước cửa dinh các quan thượng. Những ai không có xe thì đi gúeta (một thứ guốc gỗ), họ tươi tỉnh dẫmlên bùn hay trên tuyết, tay khư khư cầm giầy.
Tại tư gia
Đi thăm lẫn nhau, uống trà. Những nhà theo cổ tục, hôm đó tránh dùng đến vần “shi” (ngữ căn của tiếng Tử: chết); đó là một điều xấu. Vì tránh vần “shi” (nó là một vần trong nhiều tiếng Nhật) nên người ta phải dùng từng tràng tiếng nói bóng thay vào.
Hôm đó, kẻ dưới mang lại biếu người trên nào cam nào trứng sống; họ buộc thêm vào lễ-vật một mẩu đuôi cá Kazannoki hay Gomaníe bằng những sợi dây màu xinh xắn. Chủ nhân đối với nô-bộc thì cho tiền. Trẻ con được đồ chơi.
Trong dân gian
Được nghỉ cả tuần lễ đầu năm. Họ đi chơi rải rác khắp phố, du-xuân những hôm tiết trời đẹp, nếu không họ họp nhau chơi đàn sa-mi-sen và uống trà. Khí trời ấm áp thì phong cảnh còn hữu tình hơn nữa.. Đâu đâu, từ trong nhà đến ngoài đường đều dập dìu như ngày hội.. Họ vui cười, gặp nhau cúi mình thi-lễ, tay xa đến gối và không quên câu chào mừng đã thành lệ.: “Omedetto”. Nhiều cửa hàng mở giữa trời, đồ chơi vô số, nhiều cái rất kỳ quặc.
Ngày cuối năm đối với những ngưới có công nợ là cái khoảnh khắc mà ngưới Pháp gọi là  khoảnh khắc Rabelais.. nghĩa là y như bên ta cuối năm công nợ đâu phải trang trả cho sạch, đừng để mang tiếng là ăn-quịt, mới được người ta tôn kính. Trang trải nợ nần xong còn phải mua đồ chơi, sắm Tết, cho nên tốn, nhiều anh nhà nghèo muốn tránh sự phiền toái ngày đầu năm phải tìm sự quên trong cốc rượu sakê.
Cái thú ngày Tết của trẻ con Nhật thì hoàn toàn. Chúng chạy rông ngoài phố, con trai thả diều, dây diều có khi mắc cả vào chân các khách qua đường ; con gái cầm vợt và quả cầu tung tăng.
Khách du lịch thấy Phù-tang Tam-đảo quả là mộ thiên-đường trên lục-địa.
TRỌNG
(Ảnh : Ngày xuân mấy cô Ghesa nhảy múa)



THƠ TẾT


GÁI XUÂN HÀ-NỘI
Cả đường pháo nở ra năm sắc,
Hà-nội hôm nay khói nghịt trời.
Trên gác, ơ kìa trong cửa sổ,
Có nàng xuân-nữ đứng tô môi.

Cố ấy, hơm nay Thì đã dậy,
Lệ-kiều trong tấm áo nhung the.
Ngoài hiên lấp-lánh sương còn ngậm
Trong cánh hoa xuân đợi gió về...

Nàng lại khép mình sau cánh cửa,
Mở Kiều e lệ bói nhân-duyên !
Trong tim như có điều chi lạ,
Ý dậy, mơ nhìn cốc thuỷ tiên!

(- Nói nghe, đâu có điều chi lạ,
Hồi-hộp em ơi ! pháo nhuộm đường....)
QUỲNH-DAO

NGƯỜI ĐẸP TRONG RỪNG CÚC
(Xem phụ bản)
Chúa xuân đến buổi làm thơ
Muốn trang-điểm, đã chòn giờ cho hoa.
Vườn lam tự lúc đông qua
Cúc thôi ngậm ý, tình tha khắp trời
Tinh sương hiện một bóng người
Thanh-tân bẻ nhánh hương đời mới gây.
THANH-CHÂU

MÙA XUÂN DIỄM ÁO
Xuân rộn ca vui trong pháo nổ,
Giọng reo ròn rã rung làn không.
Rèm lá khẽ động màu xanh nhạt,
Tại tiếng vang hay tại gió đông ?

Liễu rũ tơ mành tha thướt dáng,
Chuyền cành nô rỡn cập vành khuyên.
Tưởng chừng đôi mảnh nắng vàng chói,
Của tiết hè nào đã bỏ quên.

Mai cỗi um tùm bóng rợp hiên,
Quả non xanh mởn là non chen.
Nhưng ai dám bảo hoa mai hết ?
Mai kết tim vàng hoá thuỷ-tiên !

Trầm tuôn khói biếc vờn đào thắm,
Hương ngát say sưa tựa rượu nồng.
Có phải hương hoa hay xạ đốt ?
Hay mùi thơm của ngọn đông phong ?

Hải đường cánh min hây hây đỏ,
Lá nõn cành tơ cũng ửng hồng
Ý hẳn tối qua hoa đã hứng
Mưa xuân say uống suốt đêm ròng.

Phơi phới lòng thơ như cánh bướm,
Là bay vồn vã khắp muôn hoa.
Tuổi xanh chụp cả trời xuân thắm,
Cất lấy hương nồng ướp thịt da.
TẢO-TRANG

XUÂN NON
Pháo hớn hở nghênh xuân về kế vị
Thay cho đông gầy yếu mới “thăng-hà”
Ôm đường mộng, nắng nhung vàng thuỳ-mị
Gió đào cong mơn cỏ biếc nõn nà...

Vườn lành mạnh phô toàn màu tươi trẻ
Với hoa cười lòng ngát vị mùi trinh,
Cây xanh mượt run-run luồng nhựa khoẻ.
Bướm ngây tình hôn ướm má đào xinh.

Chim vui-vẻ hoà muôn vần thơ-dại.
Hương say-sưa chờm-chợ giữa không gian.
Trời hồng dịu, mây non không phiền ngại.
Giòng trong hiền như cô gái nằm ngoan !

Dăm cô thiếu-nữ mềm hơn liễu
Cầm mấy cành mai đẹp min màng,
Hạnh phúc vờn theo thân yểu điệu ;
Vài chàng mơ-ước đắm trông sang...
ĐÌNH-HÒE

XUÂN TRÀN ĐẦY
Hồn lắng ý xu6an vương phấn-hương,
Khi hoa xây thắm gió ngàn phương.
Chim về kêu chói trong vườn rậm,
Nêu quyện hơi thanh rắc nhạc hường....

Tơ lụa êm êm dăng lá xanh,
Bướm vàng, bướn trắng cánh mong-manh
Đề-huề bay lượn trong nắng thạnh,
Cành biếc mê-man nhận tốt lành.

Say-sưa nắng mới ngã hàng soan !
Mây bạc dừng chân cnạh nắng vàng,
Dăm nàng trinh-nữ thân nhau lắm,
Dưới cụm hoa đào, pháo nổ vang.

Dịu quá ! Không gian dệt nắng trong,
Bâng khuâng ánh sáng thả tơ hồng.
Bên tai rộn rã cây rung gió,
Hạnh-phúc ban đầy, vẽ má nhung...

Xuân ngập đầy tâm nương ý thơ...
Mừng vang mộng đỏ gặp tình-cờ.
Hồn trinh trang-điểm mùi hương dịu
Thầm khấn lòng ai ghé lại bờ...
LỆ-CHI

MỖI BẬN XUÂN VỀ
Trời bvỗng mưa phùn khắp đó đây,
Bầu trời như thoảng có hương say,
những ccánh đào đỏ đi rong phố,
Mấy bức tranh tô chợ bán đầy.

Hàng pháo, hàng khăn chật khắp đường
Hàng hoa giấy để cạnh hàng hương.
Nhẹ nhàng, gượng ghẹ cô hàng bát
Bày đặt hàng ra giữa phố phường.

Xuân về bao-phủ chợ Đồng-Xuân,
Rét mướt người không chút ngại ngần.
Vui vẻ cùng nhau đi sắm Tết
Quay về, trở lại chẳng rời chân.

Đông quá, chợ-hoa họp giữa đường,
Những nàng xinh-đẹp lướt trong sương:
Khách tình ngơ-ngẩn nhìn say-đắm,
-    Hoa ngát hay người sực nức hương ?

Nhìn hoa chưa đủ lại nhìn người:
Hoa đẹp bên người cũng kém tươi...
Trong đám đông này nhiều thiếu-nữ
Mỗi lần Xuân đến, dạ chơi-vơi !

Trên gác nhà kia có một cô
Nhìn người qua lại: mắt ngây-thơ !
Nhiều chàng trai-trẻ say sưa ngắm
Ngắm mãi người xinh: mặt thẫn thờ...

Xuân đến lòng người lại ước mong,
Tưng-bừng sống với cảnh non-sông,
Mơ-màng những chuyện thần-tiên lắm !
Xuân đến, anh ơi ! Ấm cõi lòng...
ANH-ĐẠT
(Janvier 1941)


NGHỆ THUẬT ĂN TẾT - đồng bào ba kỳ ăn Tết ra sao ?

Saigon ăn Tết

những người lạ qua Saigon tất phải ngạc nhiên vì thấy Saigon trong ba ngày Tết không có vẻ thay đổi mấy. Cũng có nhà đốt pháo mừng xuân nhưng không nhiều. Các cô thiếu nữ ăn mặc không cần đỏm đang và cũng không cần lựa chọn các màu áo cho lắm. Ai thích màu gì thì mặc màu ấy họ không quan tân đến mốt này, mốt kia như ngoài Bắc. Chợ nghỉ không bán mấy ngày đầu năm vì vậy chợ Bến-Thành trong ba ngày 28, 29 và ba-mươi Tết bán suốt đêm, đông và vui hết sức: dân Saigon tranh nhau mua đồ ăn để ăn trữ Tết.
Món ăn Tết đặc biễt nhất của dân Saigon là dưa hấu, có khi đắt tới hai đồng một quả. Tết ờ Saigon vào mùa nóng nên hay có dưa hấu. Mỗi nhà phải trữ ít ra vài chục quả. Dưa hấu nhiều người ăn với muối chứ không ăn với đường như ngoài Bắc. Ít khi uống rượu mùi, phần nhiều họ uống la-de (bia) hoặc li-mô-nát (nước chanh), nước cam.
Rượu la-de dân Saigon nhắm với tôm khô bóc vỏ, ớt tươi, đậu phộng (lạc rang). Dân Saigon thích món nhắm này vô cùng. Vào một nhà của một người Saigon trong ngày Tết thường thấy có một cái bàn dài bày la liệt nào la de, dưa hấu, tôm khô vân vân... Họ mới nhau:
-    Ăn chơi chút xíu, anh Hai ?
Rồi la de mở ra, dưa hấu bổ, họ ăn đại, uống đại không làm khách một tị nào
Còn món ăn ngày Tết thường có thịt kho cắt miếng kho với nước dừa, có nhiều chỗ kho thịt và cá bằng nước dừa lẫn hột gà (trứng gà) luộc rồi bóc vỏ lẫn cả quả vào nồi thịt hay nồi cá.
Họ ít làm vây bóng - trừ những nhà ăn Tết theo lối tầu - họ hay ăn bánh hỏi và bánh đập.
a)    Bánh hỏi ăn có bún rưới hành mỡ ăn với những thứ rau này : lá chiếc (tựa lá đơn) lá dấp-cá, rau thơm, lá hẹ, thịt heo (lợn) quay, đậu phộng, hoặc thịt bò xào với sả, hoặc thịt bò lụi (nướng) thái quân cờ. Nhưng ăn cả thịt lợn, thịt bò xào, thịt bò lụi cùng một lúc cũng chẳng làm sao ? Trái lại còn ngon hơn và bổ hơn nữa là khác!
b)    Bánh đập là một lượt bánh cuốn rối đến lượt bánh đa nướng, rồi lại một lượt bánh cuốn nữa, ở trên có thịt heo nướng, thịt heo xào với nước mắm hành, thịt bò nữa cáng hay, ở trên lại có bánh cuốn, bánh đa và bánh cuốn nữa. Xong rồi đập một cái cho vỡ bánh đa ra. Thế mới gọi là bánh đập. Nhưng đập cho khéo kẻo vỡ cả đĩa, bắn cả bánh đi thì mất ăn. Đoạn cắt ra từng miếng !
Bánh hỏi và bánh đập đều chấm với nước mắm pha dấm – có nhiều ớt – và củ cải, cà-rốt ngâm dấm.
Ngoài hai thứ đó ra nhiều nơi còn ăn món thịt vịt phơi khô (lạp ạp) của khách trú bán, mua về chặt ra từng miếng xào với củ cải, lạp xường, tỏi và ớt tươi - đừng quên ớt. Một món nữa là gà xé phay tức thịt gà luộc xé miếng nhỏ trộn với dầu dấm, hánh tây và rau răm.
Mứt thì có mứt thèo lèo tựa như mứt thập cẩm ngoài Bắc : mứt gừng, mứt hạt sen, mứt bí, mứt phật thủ vân vân...trộn lẫn với nhau. Ăn vừa ngọt vừa thơm, vừa bùi nhưng có khi nhai phải miếng mứt gừng cay ứa nước mắt ra. Đôi chỗ ăn bánh gio chấm với đường.
Dân Saigon ăn không kể bữa, đói lúc nào ăn lúc nấy.


Huế ăn Tết
(Thuật theo lới bà Huỳnh-Tân - Huế)
Tết là dịp cho các cô gái Huế trổ tài làm bánh mứt. Mứt Huế xưa nay vẫn có tiếng như những lọ bánh quế, mứt me, mứt chanh, mứt rứa, mứt ớt, mứt quất, mứt cam...vân vân...ngày Tết mới mở ra thì thật là những món mứt tuyệt khéo, trông đã đẹp, ăn lại ngon.
Ngày Tết dân Huế cũng uống các thứ rượu ngọt, rượu mùi như ngoài Bắc. Và họ ăn nem chua – nhưng không phải với rau và bánh đa như ngoài Bắc. Họ ăn nem chua thái đôi thái đôi ra chấm với nước mắm, dấm và ớt - rất nhiều ớt. người Huế không biết ăn ớt không phải là người Huế !
Đôi chỗ ăn ram là bánh đa cuộn với hành và giá sống rồi bỏ vào chảo mỡ rán già. Ram cuộn vừa từng miếng một, có người ăn kèm với rau, khế, chuối xanh và chấm với nước tương nấu với lạc rang.
Người Huế thường làm món chả tôm trong ngày Tết. Tôm tươi bóc vỏ rửa sạch, cho vào cối giã như giò – nên giã nhẹ tay kẻo bắn hết tôm và thủng cối là khác – Bao giờ tôm mịn trộn với lòng trắng trứng, them muối, tiêu cho đều đoạn cho vào một cái mai cua bể, hấp gần chín thì phết lòng đỏ trứng lên trên. Chả tôm ngon phải giòn không được nhão hay bã. thường ăn chả tôm với rau sà-lách, rau thơm, bánh đa mỏng, chuối, khế thái mỏng, đôi khi ăn với món ram vừa kể trên. Chấm với nước mắm chanh ớt.
Nếu ngày Tết rét, thì dân Huế thường ăn tả pí lù tức là món dúng. Dúng có thịt lợn sống, lạp xường sống, bồ dục sống, cá quả lạng sống thái miếng, mực khô rửa sạch thái miếng và thịt bò sống. Ở giữa bàn có một soong nước dùng ngọt để trên hoả lò. Dúng các món trên kia vào nước dùng vời các thứ rau sà-lát, rau mùi, rau thìa là vân vân...chín thì vớt ra cho vào bát ăn với nước dùng. Nên nhớ : phải xem nước dùng có sôi quá không, nhỡ húp vào bỏng lưỡi phải phun cả ra thật bất lịch-sự. ăn dúng mỗi người được một quả trứng gà nhưng thừa trứng thì lấy hai, ba quả không sao - miễn là mình nhanh tay thì được.
Ăn dúng được cái thú là cả nhà xum họp quanh một lò than ấm vừa ăn vừa sưởi không những đã ngon lại ấm.
Ở Huế lại có bánh khoái làm bắng bột gạo, tôm, trứng và giá rồi rán tựa như bánh xèo ở Bắc. Nhưng cái đặc điểm nhất của dân Huế là bánh tét tựa như bánh chưng ngoài Bắc, nhưng gói tròn chứ không gói vuông như bánh chưng vì thế gọi là đòn bánh tét. Ở Huế nhà nào cũng có bánh tét ăn trong ba ngày Tết.
Theo bạn Lệ Chi ở Tourane cho biết thì tự ngày xưa – phong tục sau đây còn truyền đến bây giờ - các bà các cụ đi xem mặt vợ cho con, mỗi dịp Tết đến là đến để ý xem, các cô lột đòn bánh tét có gọn và sạch sẽ hay không. Lệ ở Huế cắt bánh tét bằng lạt nhỏ khoanh quanh bánh, một đầu lạt cầm ở tay, một đầu lạt cắn ở răng – đã có đánh Gibbs rồi - khẽ kéo cho bánh tét đứt ra thành từng khoanh tròn. Các cụ xem những khoanh bánh cắt đó và xét tính nết nếu:
1)    Khoanh bánh dày thì cô nọ có tính tham, ăn nói cục cằn, làm việc chậm chạp.
2)    Khoanh bánh mỏng là người không lo xa, nhẹ dạ.
3)    Khoanh bánh dày mỏng không đều làm việc hấp tấp, tính nóng nảy.
Các cụ chỉ chọn cô nào tét (cắt) khoanh bánh không dày không mỏng và đều dặn. Bây giờ nhiều cụ còn theo tục lệ ấy – các cô liệu lấy “double – décimère” mà đo bánh trước và đánh dấu ngầm đi thì vừa.


Hanoi ăn Tết
(Thuật theo lời cô Hoàng Yến – Hanoi)
Những món ăn này riêng tặng cho các cô ở Huế và Saigon muốn ăn một cái Tết đặc Bắc-kỳ. Các chị em ở Bắc xem có chỗ nào không được tuyệt thì xin “đại xá” đi cho: xin nói thế vì chị em Bắc-kỳ thạo nấu nướng, và Tết Bắc - nhất là Tết Hanoi – thì ăn uống khó khăn lắm. Chả thế đã có câu “ăn Bắc, mặc Kinh”. Bây giờ còn hơn thế nữa, phải nói “Ăn Bắc, mặc Bắc” nữa thì mới đúng !
Đặc điểm về Tết của Bắc có: bánh chưng, dưa hành, thịt bò hầm, cá thu kho, thang và cuốn. Xin lần lượt kể qua dưới đây ! Nhiều nhà bắt chước Tầu cũng ăn vây bóng nhưng thể nào cũng phải có những món ăn đặc-biệt Bắc-kỳ vừa kể trên đây ! Mứt cũng như ở Huế. Ngoài Bắc có bánh Xuân-Cầu (Bắc-Ninh) không đâu có. Bánh đó  như bánh đa, vuông nhỏ bằng nửa bàn tay. Vứt vào chảo mỡ sôi bao giờ bánh đó phồng thì vớt ra và dưới mật mía lên trên. Khi nào ăn nên chọn miếng nào có nhiều mật hãy ăn thì hơn !...
Mấy ngày Tết chợ hiếm, nên thức ăn phần nhiều họ làm sẵn để dành. Vì vậy nhà nào thực đơn cũng giống nhau. Phần nhiều người ta hay làm lợn riêng, hoặc mấy nhà chung nhau một con. Làm con lợn, tiện nhiều bề. Thủ lợn để gói giò, ăn rất giòn. Thịt lợn để gói bánh, kho tầu, ninh v.v. Chân giò nấu đông vừa dẻo ngon vừa không ngấy.
Mồng một Tết người ta hay nầu thêm đồ Tầu như vây, bóng long-tu v.v. Nhưng sự dùng đồ Tầu không phải là điều đáng khuyến khích với ta, nhất là trong hki nước ta đã sẵn nghèo. Mồng hai mồng ba trở đi bấy giờ người ta mới bắt đầu ăn thang, cuốn, nham, dúng chẳng hạn.
Muốn biết cái phong-vị Tết của đất Bắc cũng chẳng khó gì. Các bạn có thể cứ theo đây, ngồi nhà mà đem cái Tết Nguyên-đán xa xô ở Bắc về vui hưởng trong mấy ngày đầm ấm nơi mình:
Bánh chưng
Món này là đầu vị Tết. Vật-liệu có gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong hoặc lá chuối. Gạo nếp ngâm rồi vớt ra trộn với tí muối cho khỏi nhạt. thịt lợn thá to khổ, ướp nước mắm, hành, hạt-tiêu, cà cuống. Gói với lá dong. Cứ một lượt gạo nếp lại một lượt đậu, dầy mỏng tuỳ theo sở-thích của các bạn, ở giữa đặt một lượt thịt, trên lại phủ đậu xanh gạo nếp một lần nữa rồi mới gói. Nên gói cho chặt tay. luộc bánh phải gần 10 tiếng đồng hồ đều lửa mới chín. Lúc luộc xong, muốn bánh ăn ngay và ngon thì đừng ép. muốn để dành lâu thì phải đem ép ngay cho dấn bánh và ráo nước. Bánh chưng rất ngon, nhưng khôn thì bên ăn chỗ có nhiều nhân, cùi bánh để cho người khác.
Người Bắc lại còn ăn giò thủ lấy thịt thủ đem luộc qua rồi vớt ra, thái từng miếng mỏng và dài rồi đem nhào với mộc-nhĩ, mắm, muối, hạt-tiêu đoạn gói vào lá chuối rồi ép vào hai khúc gỗ treo lên. Hôm sau đã ăn được.
Cá kho tức là cá thu
Pha ra từng khúc, kho với riềng, nước chè mạn đặc, nước mắm, hạt-tiêu.
Dưa hành
Hành củ đem ngâm nước gio ba hôm rồi vớt ra rửa sạch, bóc mạng đi, đaọn đem ngâm độ nửa tháng với nước muối, khi nào củ hành trong suốt như ngọc, ăn giòn tan như kẹo ấy là được.
Thịt bò hầm
Mua thịt bò bắp, thái hơi dầy và to bản, đổ vào nồi kho với gừng, hạt-tiêu, thảo quả, quế chi tán nhỏ.
Thang
Vật liệu : 1) Gà luộc, với xương lợn, tôm he, làm nước dùng. 2) Bún trần nước sôi. 3) Tôm he khô, nướng rồi giã cho bông. 4) Trứng tráng mỏng thái chỉ. 5) Giò lụa thái chỉ. 6) Thịt thăn gà xé nhỏ như ruốc. 7) Thịt sụn lợn băm nhỏ rang với hành, mắm, hạt tiêu. 8) Rau răm thái nhỏ.
Khi ăn, nước dùng phải đun thật sôi mà chan vào. Ăn kèm them mắm tôm, cà cuống, củ cải dầm, dưa hành. Nên nhớ: thang không có mắm tôm và cà cuống thì thang chỉ có bỏ đi.
Cuốn
Vật liệu : 1) Bún cắt miếng bằng hai đốt ngón tay một. 2) Tôm rang cả con. 3) Thịt lơn luộc cắt theo khổ bún. 4) Giò lợn cắt theo khổ bún. 5) Củ cài dầm hoặc dưa hành. 6) Dấm-bỗng đem chưng với mật cho thật quánh như kẹo. 7) Rau mù hay rau thơm. 8) Hành hoa cả dọc luộc sẵn. 9) Rau diếp sống.
Cách làm. – Rau diếp chọn lá dài và nhẵn cho dễ cuốn. Cuốn tròn các món kể trên vào là rau diếp như ta cuộn trầu không, rồi lấy hành hoa quấn ra ngoài cho chặt, xong xếp vào dĩa. Khi ăn, chấm với nước mắm cà cuống.
Ăn cuốn có thể ăn to đến đâu thì cuốn đến đó. Nhưng đừng cuốn to quá - bằng cái chày chẳng hạn – thì khó ăn.
Các món nấu của ba kỳ chúng tôi đã gom góp đủ rồi. Các bạn hãy nếm thử xem Tết ở dâu ăn ngon, ở đâu ăn dở. Và muốn thử xem các bạn có nấu đúng hương vị, mắm muối gia, giảm có đúng không thiết tưởng các bạn ở đây ăn Tết – dù là ăn Tết theo lối Trung-Nam hay lối Bắc-kỳ - cũng nên mới một người đến xem xét... Người ấy hiện ở T.B.C.N. tên là: ANH-ĐẠT
(Ảnh: NGÀY XUÂN LỄ CHÙA: Xuân đến, các cô thiếu-nữ vui vẻ đi lễ chùa. Những nụ cười trong cảnh mùa xuân tươi đẹp đã đem lại cho khách bộ hành bao nhiêu sự may mắn mừng vui
THĂM HOA: cụ già tóc bạc phơ phơ chẳng quản gió sương đang thơ thẩn trong vườn xem bói những giò hoa. Gió lạnh, sương bay nào làm sờn lòng nổi khách yêu hoa.)


 

Thơ mán Vẩn-bao

Thấy T.B.C.N. cổ động nhiều về số Tết, một bạn đọc báo T.B.C.N. ở một chốn thâm sơn cùng cốc: (Bính Thài) - một chốn mà có lẽ người đế kinh chưa có ai nghe nói tới – có lòng yêu bản báo gửi tự ở xa về mấy bài thơ xuân bằng tiếng ...Mán để bạn đọc cùng ngâm nga trong ngày xuân tươi đẹp.
Đã đành rằng các bạn sẽ không hiểu gì hết cả ! Nhưng chúng tôi,  vì cảm tình của ông bạn Mán và cũng vì lúc nào cũng muốn đem những cái mới lạ đến cho tâm hồn các bạn, nên cứ “mạn phép” các bạn đăng-tái những bài thơ đó lên đây. Ước mong ằng chúng ta sẽ làm rung động tơ lòng các bạn trong dịp đầu xuân và các bạn sẽ nghĩ, nghĩ xem chúng nó định nói những gì...hay thách đố gì các bạn...
Nếu các bạn không trả lời được, xin giở xem trang 63 trong báo này.
T.B.C.N.
Quyệt-đồng, Lai-nói-thớ, Vẩn-bao
Mương khồng, Man tiếng khống !
Khỗng cung hỉnh tượng phài
Lả chì: Lai nói thớ
Vẩn bảo cua, Bính Thài

Xuần ngay, bán độ, nay cầu
Má nều đưởng giạc mày câu liệp gằm !

Ây ánh, vuồng hinh, hãnh giứa cò
Bế bồn, trặng gáo, xãnh vàng đo
Rừng ngay, lặng bóng, ây đi đấu
Cõ hế, la xuần, ánh mặt co !
Mónh ảo, tười mâu, đạo cánh từa
Đầu trên, tọc mốt, são dơ ro !
Đen không hẳn, lứa tiêng tăm khống
Hẹ đống kều môm, đáo sẵn hồ

Giông đém đầy vê nộng khuyến tư
Toản chì lã nhứng trống đem cừ
Giơ bào đên xuấn sơm hoa khái
Ở thỉ tiền vương, cống bõ sư !

Canh khồng, la khống, cáo mà thê !
Khảnh lú kìa sanh, não lúc hề
Đống gọi cũng sè han tiếng lết
Lợi hoà nư xuẫn dão tiêu lê

Đâu câu cài lá chứng banh
Hái thư phào lá, rưng trành tiền thuy
Bá thư đền rối viển uy
Nều chang ngước ngẩn quyên uỳ tứ thư
VẨN-BAO (Bính-Thài)

Giải nghĩa thơ Mán
Chắc các bạn cũng tha lỗi cho chúng tôi vì, năm mới năm me, chưa chi chúng tôi đã đùa các bạn về văn-chương tư-tưởng.
Ở bên Pháp. Lúc bắt đầu sang xuân, nghĩa là từ đầu tháng Avril, người ta có cái tục đùa nhau như thế, tục gõi là “Poisson d’Avril” – cá tháng tư – Ngày “cá tháng tư”, muốn đùa thế nào cũng được, vậy chúng tôi tưởng trong dịp đầu xuân vui vẻ ở đây, chúng tôi có đùa các bạn một chút xíu, thế tất các bạn cũng không trách cứ làm gì vậy.
Vâng quả thế, bài “Thơ Mán Vẩn Bao” ở trang 54 không phải là thơ Mán.
Đó chỉ là một bài thơ Kinh, một bài thô của người Kinh viết bằng tiếng Kinh kỳ: cô Bảo-Vân tinh nghịch của chúng ta ở Thái-Bình đã có tiếng là một người hay lỡm - lỡm người khác bằng nhưng câu đối hóm hỉnh không có ai đối được.
Chính nguyên văn mấy bài thơ mán ấy thế này:
Độc quyền, thơ nói lái, Bảo-Vân
Không mường, không tiếng Mán
Cũng không phải tượng hình
Chỉ là thơ nói lái
Của Bảo-Vân Thái-Bình.

Ngày xuân đố bạn câu này
Nếu mà giảng được cầu may gặp liền !

Anh ấy hình vuông giữa có hành
Bốn bề gạo trắng, đỗ vàng xanh
Ngày dưng lặng bóng đi đâu ấy,
Hễ có xuân là có mặt anh !

Áo mỏng màu tươi tựa cánh đào,
Trên đầu, một tóc, rõ dơ sao !
Không đèn lửa, hắn không tăm tiếng
Động hé mồm kêu hố sẵn đào !

Đem giống về đây tự Khuyến-Nông
Chỉ toàn những lá cứ đem giồng
Bao giờ xuân đến khai hoa sớm
Thì ở vườn tiên, sứ bõ công

Không cành không lá thế mà cao
Mà khách sành kia hễ lúc nào
Có động sẽ cùng lên tiếng hát
Ba lời xuân nữ lễ tiêu dao !

Câu đầu là cái bánh chưng,
Thứ hai là pháo, tranh rừng thuỷ tiên...
...Thứ ba, rồi đến uỷ-viên
Nàng nêu ngất ngưỡng uy quyền thứ tư
Bảo-Vân (Thái-Bình)


NGHỆ THUẬT CHƠI TẾT

Y-phục ta mặc  trong ba ngày Tết phải như thế nào ?
Chúng tôi không có ý muốn đặt một cái lệ-luật để cho dân nước phải theo đó mà ăn mặc trong ba ngày Tết.
Không, chúng tôi cho rằng sự ăn mặc, cũng như sự uống là cái sở thích tuỳ theo từng người. Nhưng có ai để ý tới sự ăn mặc của một số người nước ta thì tất đã nhận thấy rằng trong những ngày hội hè đình đám- nhất là trong những ngày Tết trước- có nhiều ông, nhiều bà , nhiều cô ăn mặc khó coi quá, đến nỗi thành dớ dẩn, thành khôi hài, rất có thể làm cho một người ngoại-quốc đến chơi lần đầu tiên ở nước ta phải ngộ nhận dân ta là một dân nhắng, một dân phường chèo vậy.
Nói riêng về đàn ông vận Âu-phục, những áo spencers và redingotes chỉ mặc đi dự tiệc về ban đêm thế mà có người tưởng lầm những áo ấy là lễ phục, muốn mặc giờ nào cũng được, nên sáng mồng một Tết đã mặc những áo ấy đi nghênh ngang ngoài phố.
Về nam phục, nhiều ông lại còn ăn bận lố lăng hơn. Các ngài tất đã trông thấy nhiều ông, nhiều cậu dăm ba tuổi quèn, mặc áo gấm đi guốc kinh, mà lại đội nón dứa, đeo kính trắng hút sì-gà đi lễ Tết chứ gì ?
Kẻ viết bài này một năm kia lại còn cái tai nạn phải nhìn thấy một anh mặc thiết bì, loắt cha loắt choắt như một con bố dù làm xiếc, mặc một cái áo gấm da đồng, chít một cái khăn vàng- tuy ông ta không phải là giặc Khăn-vàng- cầm lù lù một hộp thuốc lá Three Castles như sắp đem cúng cụ đi nghênh ngang ngoài phố hôm mồng một Tết trên một... con ngựa sắt.
Các ngài đã thấy tuyệt-đích của sự lố lỉnh trong cách ăn mặc hay chưa ?
Ấy thế là tôi chưa dám kể nhiều đấy. Đến như đàn bà thì lại càng lắm điều gai mắt, tưởng không sao chịu được. Có bà xuân xanh năm chục ngoại rồi mà còn mặc áo Lemur như thể một đồ vui vẻ trẻ trung; phân đánh bự lên như qué ; có cô ăn mặc rất đứng đắn, diêm dúa, đặc Annam mà không hiểu sao lại “cho”ngay một con cáo to xù xù lên giữa cổ và cứ thế mà đi tễu ở ngoài phố, không chút gì ngượng nghịu...
Đến trẻ con thì thật là một bài thơ khôi hài : có đứa chưa ráo máu đầu, đã chít khăn xếp như cụ già ; có đứa mới nứt mắt mà đã son phấn như một ả gái chơi loã lồ nhất ; có đứa ăn mặc tây. lại cho ta thấy một cái quần dài như thể một ông cụ ở Pháp đầu râu tóc bạc.
Chúng tôi thiết tưởng với ít điều mắt thấy, kể ở trên kia, bạn đọc phương xa tất đã nhận thấy những sự lố lăng về y phục của dân ta trong ba ngày Tết nó lố lăng đến thế nào rồi vậy.
Không muốn để cho quốc dân ta - vốn là những người hiền lành, chân thật, không làm gì mà đến nỗi bị trời đầy - phải khổ sở vì những điều trông thấy đó, chúng tôi bèn mở ra mục này, chủ ý là chỉ để cho độc giả thấy một chút ít về nghệ thuật ăn mặc trong ba ngày Tết Nguyên-đán vậy.
Không ngần ngại, chúng tôi đã viết thư và đến hỏi nhiều người có danh trong xã hội về chuyện này, và đến đâu cũng được anh em và các ngài khuyến-miễn và bảo ban nhiều điều lợi ích về nghệ thuật ăn mặc trong ba ngày Tết.
Theo ý kiến của cụ An-Phước-Nam Vi-văn-Định - một vị quan đã quả quyết bận âu-phục trong khi làm việc ở công đường hoặc đi kinh lý các phủ huyện – thì trong ba ngày Tết cũng như trong các ngày kỵ lạp, các ngày lễ khác, người Annam không nên mặc âu-phục, cứ phải giữ lấy bộ quốc phục để khỏi mang tiếng là người vong bổn.
Nhưng quốc phục nên mặc thế nào ?
Ngày thường ta chỉ nên mặc những thứ quần áo vừa phải, ta nên để dành hoặc cái áo đoạn hoặc cái áo sa tanh thâm thực tốt để đến ngày Tết hay ngày lễ khác.
Nhiều người, mùa rét, ngây hai buổi đi làm cũng mặc áo sa tanh, áo đoạn ; như thế thực xa phí quá, mà ngày Tết, ngày lễ, không còn biết mặc gì cho phân biệt với ngày thường được. Cũng có nhiều người, ngày Tết, ngày lễ cũng ăn mặc xuềnh-xoàng như ngày thường để tỏ rằng mình không lấy Tết làm vui như trẻ con, nhưng thiết tưởng như thế cũng không được. Còn quần, ngày Tết nên mặc quần lụa trắng để phân biệt với quần vải trắng mặc ngày thường.
Khăn nên dùng khăn lượt, nhưng nên ruộm mùi tam-giang để khác với khăn lượt đen đội ngày thường. Bít tất nên dùng mùi đen ; giày nên dùng giày ta da láng. Khi đi ra ngoài nên dùng bí tất tay trắng.
Đó là y-phục thông dụng của những người thường dân, còn ai đã có phẩm, tước, thì sẽ theo phẩm phục mà mặc.
Còn y phục bên nữ giới thì cụ An-Phước-Nam nói rằng không có thể bày tỏ ý kiến được vì các bà, các cô ăn mặc tự do quá, không thể lấy gì làm chuẩn-đích được.
Chúng tôi bèn tới hỏi nhiều bà về y-phục của phụ-nữ và chúng tôi thấy rằng ý tưởng của một số đông các bà tai mắt về vấn-đề phụ nữ gần giống nhau.
Cái ăn cái mặc cũng là chuyện cần cho thân thể, nó tôn giá trị con người cũng như cái đức là món cần thiết cho tinh thần người ta vậy.”
Bà hội Vũ huy Quang nói với chúng tôi:
Vâng, chính thế, sự ăn mặc quả thực là khó lắm. Bây giờ nếu bảo tôi tìm lấy sự chuẩn-đích của sự ăn mặc của phụ nữ trong ba ngày Tết thì thực khộng thể nào mà nói được. Nhưng cứ theo ý riêng của tôi thì đàn bà, ngày Tết hay ngày thường cũng vậy, đều không nên ăn mặc lộng lẫy quá, cốt nhật cho nó lành lặn, thơm tho, nhất là những người đã có chồng và có con rồi thì lại càng phải ăn mặc thế nào cho nhã nhặn.
Theo ý tôi, người đàn bà vào khoảng bốn mươi nên đánh chút ít phấn thôi, nhưng ăn mặc phải kín đáo một chút. Ngoài cái áo cánh ra nên mặc áo mớ đôi: áo dài trong nên dùng màu cẩm thạch hay hoa lý - nếu muốn cho có vẻ xuân sắc một chút cũng có thể dùng màu hồng được.
Áo ngoài nên dùng áo kép màu tam-giang hay màu sẫm, khăn nhung đen, quần trắng. Điều cốt yếu là nên ăn mặc cho nền nếp đừng có dùng kiểu gì chướng mắt quá hay có thể làm cho mọi người phải chú ý đến mình nhiều quá.
Người đàn bà 50 tuổi có thể mặc áo gấm trong, ngoài sa tanh đen, cổ quàng một miếng nhung đen khổ hẹp hơi dài một chút và vấn khăn thì cũng nên vấn khăn nhung đen.
Quần, nên mặc quần màu trắng, nó có vẻ sạch sẽ, nhưng nếu muốn giữ vẻ nền nếp cũ thì vẫn có thể cứ dùng quần lĩnh đen. Người đàn bà 50 không nên dùng manteau, nhưng nếu trời rét quá thì có thể bận một cái áo sa-tanh bông mỏng, hay lót lông cừu ở bên trong. Giày nhung không nên dùng. Tốt hơn hết là đi giầy cườm thêu hay là giầy kinh - nhưng nên đóng đế  cao xu để lúc đi cho êm một chút.
Chúng tôi đã hỏi xong ý kiến cụ Thiếu Vi và bà Hội Quang về lối y phục của những ông, những bà từ lối bốn mươi trở lên rồi, vậy, đến lượt các người tuổi 35 trở xuống cất tiếng về y phục mặc trong ngày Tết:
Ý kiến bà Vũ huy Quang về y phục đàn bà từ 40 trở lên thì thế, bây giờ chúng tôi muốn hỏi ý kiến bà về lối ăn mặc của các thiếu nữ trong ngày Tết nên thế nào ?
Rất nhã nhặn, bà Hoàng xuân Hãn đã viết thư cho chúng tôi và lấy làm tiếc...không thể tỏ bày ý kiến của bà cùng bạn đọc.
Cái việc ăn mặc nó nghiêu khê lắm lắm mà.
Chúng tôi không được nghe lời vàng tiếng bạc của bà Hoàng xuân Hãn , nhưng lối ăn mặc của bà đã làm cho chúng tôi phải nghĩ nhiều.
Kẻ viết bài này, một hôm đi dự một đám tiệc kia đã được thấy bà ăn mặc ra thế nào.
Chúng tôi, nếu không lầm, thì đã đoán ra được một chút ý kiến của bà rồi: ngày Tết, người đàn bà trẻ tuổi hay những cô thiếu nữ có thể dùng những màu sáng sủa để cho vui vẻ lên một chút.
Bà Hoàng xuân Hãn mặc quần trắng, áo dài hoa và cổ cao lối áo Khách...
Đã đành chúng tôi cũng nhận cách ăn mặc đó cũng ưa nhìn, nhưng thiết tưởng không phải người nào cũng mặc được, bởi vì có phải người nào cũng thon người và có cái cổ đủ cao như bà Hoàng-xuân-Hãn đâu ?
Vì vậy chúng tôi phải tới tìm một bà giáo và bà giáo ấy đã nói với chúng tôi rằng:
Người đàn bà trẻ tuổi hay người thiếu nữ cũng vậy, đều không nên ăn mặc lộng lẫy chói lọi quá, nhất là không nên mặc những kiểu áo làm người ta chú ý quá như kiểu áo “vai batông”, cổ tay “hoa sen, hoa khế”, hoặc “cổ thìa, cổ bẻ” nói tóm lại những kiểu áo “đầm lai” quá, những kiểu áo không đứng đắn.
Người lịch sự mặc thế nào cũng vẫn lịch sự như thường, chỉ nên biết thêm rằng nếu người đàn bàtừ 30 đến 40 cần phải có phấn sáp để đem lại cho mình sự hồng hào lúc thiếu thời thì chính những thiếu nữ nên lợi dụng ngay cái sắc đẹp của trời cho, nghĩa là không nên dùng son phấn quá, nên để cái hồng hào của tuổi trẻ lộ ra, nên có một cái đẹp khỏe mạnh, chịu được những hạt mưa phùn hay ánh nắng.
Đó là về thiếu nữ.
Nhưng về thiếu niên thì cách ăn mặc ngày Tết thế nào ?
Chúng tôi đã biết ý kiến cụ An-Phước-Nam “ ngày Tết nên bận quốc phục” là hay, là phải, nhưng tiếc rằng ở nước ta hiện giờ có nhiều thanh niên đã quen vận âu phục mất rồi nên sự ăn vận quốc phục hẳn trong ba ngày Tết cũng là một điều khó khăn lắm lắm.
Người bạn trẻ của chúng tôi là bác – sĩ T.K. – ông có yêu cầu chúng tôi giấu tên – nói với chúng tôi rằng :
Thanh niên ta ngày Tết vận âu phục có nhiều cái lố.
Những cái lố ấy, chúng tôi đã nói ở đoạn đầu bài này rồi... Ông bạn của chúng tôi xét là phải và bàn với chúng tôi rằng ngày Tết ta cứ ăn vận màu đen hay mùi sẫm là hơn cả. Vào khoảng 30 tuổi, người ta có thể dùng màu nhạt và kín đáo. Tuổi 20, người ta có thể mặc nhiều màu, nhưng bao giờ cũng không nên mặc màu rực rỡ hay lố lăng quá.
Tôi, tôi đã khổ vì trong những ngày Tết trước, tôi đã phải nhìn thấy nhiều cậu bé và các cô bé ăn mặc rất “hề”ở ngoài đường.
Có cậu dăm ba tuổi quèn, mặc quần chùng và áo cheviotte; còn các cô bé thì ăn mặc áo nhung, đánh phấn và tô son bự cả mặt ra.
Đó không phải là lỗi ở các trẻ em nhưng chính là lỗi của các bậc làm cha làm mẹ đã làm dáng cho con sớm quá và tập tành cho chúng những thói hư thân.
Tôi chủ trương rằng trẻ con ngày Tết không được phép ăn mặc xa hoa phù phiếm quá.
Các em giai, nên cho mặc quấn cộc và mặc áo len, áo pullover màu rực rỡ...Mặc ta nên cho mặc áo đoạn, giầy tây đen, đội mũ, còn các em gái thì cứ nên cho ăn mặc như thường : quần trắng, giầy đế cao su, áo nhung các màu tóc cúp. Những em nhỏ một chút nữa thì rất có thể cho ăn mặc như đầm: như thế trông có vẻ ngộ hơn.
Như trên kia, đã nói, những ý kiến này không cứ nhất định phải thế, nhưng rất có thể thay đổi đi cho hợp với trẻ, với tính tình của trẻ và với vẻ đẹp của chúng nữa. Có một câu này tôi xin nhắc lại”người ta không nên tập cho trẻ con làm dáng sớm quá” chắc ai cũng đồng ý với kẻ này :
THIÊN-TƯỚNG


Nụ cười đầu xuân
Các bà các cô nên thương đến các nhà khảo cổ 100 năm sau này
Ta phải nên thận trong trong việc ăn mặc
NGUYỄN KHẮC KHAM
Mới đây, báo “New York Times” bên Mỹ nhân đăng một bài tường thuật về chuyện các cô học trò trường kia bảo nhau cải nam trang một loạt, có đoán trước rằng một ngày kia đàn bà sẽ nhất luật vận nam trang.
Diều dự đoán đó cũng có phần thực, vì ngay ở nươv1 ta đã thấy nhóm lên cái phong trài mặc nam trang hay gần giống nam trang. Mười năm trước đây, giá thấy một thiếu nữ nào mặc cái quần tây cộc đi diễu ngoài phố thì ta đã cho là một chuyện kỳ quái lắm nhưng mấy năm nay người ta đã quen mắt với những cái mắt thấy ấy rồi.
Nên khi thấy một thiếu nữ Việt Nam mặc quần tây, áo sơ-mi-dét, tóc cắt ngắn, cử chỉ mạnh dạn như một cậu con trai, người ta không để ý đến nữa. Nói cho đúng các cô mặc áo tây cũng còn hiếm. Nhưng hiếm gì những cô mặc áo cắt theo lối nam trang. Đi đâu mà con mắt ta chẳng vấp phải những cái vai long đình, những cái cổ áo bè xòe như cổ áo “pyjama russe”, những cái quần smoking, và trên hết những cái đó, những bộ tóc cắt đến gáy theo lối “Jeanne d’Arc”.
Các cô hoán cái cách ăn mặc theo đàn ông như thế, phải hay không phải ? Cái đó xin nhường lời các nhà đạo đức, nhưng có một điều nên chú ý là đàn bà ăn mặc giống đàn ông hay trái lại, không phải là một sự mới có ở thế kỷ thứ hai mươi này đâu ! Nếu ta có cái óc tò mò chịu xem xét lịch sử y phục của nhân loại, ta sẽ nhận ra rằng nếu có những thời kỳ đàn bà và đàn ông ăn mặc khác nhau, thì cùng có thời kỳ đàn bà và đàn ông chịu ảnh hưởng lẫn nhau và ăn mặc giống nhau.
Ở nước Pháp chẳng hạn, về thế kỷ 18, nữ trang đã làm biến đổi nam trang rất nhiềi và khiến cho nam trang có cái vẻ yếu ớt mảnh rẻ đ. Ngay bây giờ, y phục đàn bà cũng còn ảnh hưởng đến y phục đàn ông : xem như các áo đàn ông may chẽn lưng ong đủ biết. Nhưng trái lại y phục đàn ông cũng ảnh hưởng đến y phục đàn bà  vì đ1o ta thấy ypđàn bà có vẻ gọn gàng mạnh bạo hơn xưa. Ta cứ so sánh hai cái ảnh đàn bà Pháp váo hồi trước chiến tranh 1914-1918 với ngày nay, ta sẽ nhận ra sự biến cải đó ngay.
Lịch sử người Hy Lạp cũng có những thời kỳ tính biệt và tính đồng trong cách ăn mặc. Về thế kỷ VI, trước thiên chúa giáng sinh, đàn bà đều mặc áo dài và để tóc dài, phân biệt rất khó. Kế đến thế kỷ thứ V, y phục hai phái đã phân biệt rõ rệt hơn. Đàn ông thì mặc áo ngắn ; đàn bà thì mặc áo dài và để tóc dài.
Ngoài quần áo ra,nhiều đồ trang sức cũng chạy từ đàn bà sang đàn ông hay từ đàn ông sang đàn bà như thế. Giống người La Mã có tục cấm người đàn bà không được đeo nhẫn chỉ cho đàn ông quyền dùng nhẫn vì nhẫn làm biểu hiện cho nam quyền. Về sau, vì tục đeo nhẫn phổ thông đàn bà mới được dùng đến. Bên Pháp về thời thượng cổ, cà đàn ông lẫn đàn bà đều đeo vòng tay, hoa tay và nhiều đồ trang sức khác. Từ thời trung cổ trở đi, chỉ còn thấy đàn bà đeo vòng tay và hoa tai thôi. Về cậb thời, cũng còn thấy một số ít đàn ông thuộc hạng hạ lưu đeo hoa tai. Một cuốn sách xuất bản vào thế kỷ 18, có nói về cái tục đó như sau này: “cái cớ đàn ông đeo hao tai, là vì bị bắt buộc chứ không có chi khác cả, vì đeo hao tai là một cái dấu hiệu của sự nô lệ nó làm giảm nhân phẩm đi. Đeo hao tai chỉ thích hợp cho phụ nữ thôi, vì phụ nữ theo luật trời, phải tòng phu. Thế mà có nhiều bà đeo hoa tai còn lấy làm hãnh diện”.
Nay nếu ta xét lẽ thay đổi về y phục phái nam và phái nữ, thì ta sẽ thấy rằng cái lẽ sâu xa nhất là thuyết nam nữ bình đẳng. Phụ nữ đã bị đàn ông đè nén hàng mấy nghìn năm nay, bỗng nổi lòng công phẫn muốn phá đổ cả các giới hạn phân biệt hai phái đi. Đàn bà muốn ngang hàng với đàn ông về tất cả các phương diện kể cả y phục nữa.Cái lối cắt tóc ngắn xuất sản ra ở bên Mỹ và lan rộng ra cả hoàn cầu văn minh chẳng qua cũng vì lẽ đó gây nên vậy.Xem việc này đủ biết : bên Phi-châu về địa hạt Nossi Bé có tục bắt đàn bà mỗi lần có một ông vua mất là phải cắt tóc đi để tỏ lòng thương tiếc. Nhưng các bà tượng đồng đen đó có biết gì là đồng đẳng với bình quyền, các bà chỉ biết rằng tóc có xoắn tít như ruột gà và Tết thành từng bím con con thì mới đúng mốt và mới đẹp mắt. Vì thế các bà rủ nhau nổi loạn để yêu cầu bỏ cái tục dã man và thiếu vẻ mỹ thuật ấy đi. Các bà đi diễu khắp làng và đồng thanh kêu to cái khẩu hiệu “Tsimihéty” nghĩa là “bỏ kéo đ” rồi những người theo phái không cắt tóc họp nhau lại lập ra một bộ lạc khác đặt tên là Tsimihéty.
Ta xem đó ! cái cớ đàn bà mặc áo giống đàn ông, không phải họ thích cái lối ăn mặc của chúng mình đẹp mắt hơn lối của họ đâu. Chẳng qua vì họ muốn tỏ cho chúng mình biết là họ cũng có quyền như chúng mình. Cái thời kỳ “dương thịnh” sắp qua rồi, cái thời kỳ “âm thịnh” sắp tới chăng !
Ngẫm cho kỹ, cuộc cách mệnh đó cũng chẳng có chi tai hại cho lắm. Vả lại đàn bà đứng ngang hàng với đàn ông kể ra cũng không phải là không xứng đáng. Các ông Reclus, chamberlain, Emerson, Bucher, đều đã phải công nhận cái địa vị quan trọngcủa đàn bà trong việc xây đắp nền văn minh.Hưởng ứng với nhân loại sử, nhiều chuyện cổ tích cũng có nói đến công đức của đàn bà trong lịch sử tiến bộ của nhân loại. Theo một cổ tích Hy lạp, con gái người thợ đố gốm Boutadès trong khi mơ tưởng đến người yêu của mình, vẽ hình người đó trên bức tường trắng rồi chiếu ánh sáng vào. Boutadès hấy thế, tím ra được cái ý rất hay là lấy đất thó đắp lên trên cái  mặt vẽ trên tường rồi đem ra nung. Vì tấm tình yêu của một người thiếu-nữ, người Hy-lạp mới có cái hình chạm nổi đầu tiên, hiện còn giữ ở viện bảo tàng tỉnh Corinthe. Đàn bà không những đã sáng tạo ra rất nhiều công nghệ mà thôi, việc làm của họ lại có ảnh hưởng rất lớn đấn tư tưởng đàn ông nữa. Thế kỷ 19 văn sỹ Pháp nợ ơn bà de Stael đến quá nửa những tác phẩm có tiếng thời ấy. ông Benda đã phải thốt ra câu khen ngợi này :”Cả khoa Thẩm-M4 kim thời do tay đàn bà làm ra”. Ông de Seillère phải thú rằng: “Chúng ta đã sống suốt hai thế kỷ dưới uy quyền của phụ nữ”. Nhà thi sĩ Lamartine lúc xuất bản quyển “Premìeres méditation” đã trả lời những kẻ dèm chê mình bằng câu: “Ai có nói thì cứ nói ! Đã có phụ nữ và thanh niên với ta, ta còn cần chi nữa”
Đàn bà đã có công với văn minh như thế, thời muốn ngang hàng với đàn ông bằng cách cải nam trang kể cũng chính đáng lắm. Nhưng xé cho kỹ, những hành động trái ngược đó của phái yếucũng không phải là không có hại cho phái ấy. Có hại vì vẻ sức yêu kiều, mất sức quyến dũ, mất sự trìu mến của đàn ông, đó là chưa kể đến cái hại tổn mất thanh danh của phụ nữ. Trong thần thoại Hy-lạp có kể chuyện giống đàn bà gọi là Amazoncs. Giống đàn bà này có tục vứt con trai đi không nuôi và đốt vú bên phải đi để dương cung cho dễ. Tuy họ có tiếng là đàn bà thượng võ nhưng lại có tiếng dã man thực chẳng đẹp mặt cho phái phụ nữ một chút nào. Mới đây một nhà khảo cổ khám phá ra rằng giống người Amazones chẳng phải đàn bà , mà đích là đàn ông. Sỡ dĩ trước kia các nhà khảo cổ lầm lẫn như thế là vì y-phục của người Hy-lạp thuộc về thời ấy đàn bà cũng như đàn ông. Khi người ta khảo cứu các hình chạm nổi thấy những người đàn ông Hétéens mày râu nhẵn nhụi tóc dài lê thê, lại mặc áo đàn bà, người ta tưởng lầm là đàn bà, nên mới có cái lầm tai hại đó.
Phụ nữ ta nên trông gương đó mà thận trọng về cách ăn mặc. Muốn ganh đua với đàn ông thì thiếu gì cách, hà tất phải tranh nhau về phục sức, mà nào có đẹp gì ! Phải coi chừng các nhà khảo cổ trăm năm về sau với những bộ kính tò mò ! Phải hành động cho xứng đáng với các đấng phụ nữ thủa xưa trong việc đào tạo văn minhnhân loại, đừng để cho lại có những điều sai lầm như điều sai lầm về các nữ tướng Amazones. Và nếu phụ nữ cứ khăng khăng chực len chân vào địa vị của đàn ông, nhất định đòi giống đàn ông về y phục, - như mặc quần có nẹp, soóc, áo “sơ mi dét”, cắt tóc lối móng dừa, áo dài vai “ba lông”, vai long đinh, xoăn xoăn cái cổ lối “Mi-la-dy” trong truyện “ba người ngự lâm pháo thủ” và đi giấy tây mũi nhọn và cả “mũi hộp” nữa- tôi e rằng một ngày kia, đàn ông đâm ra tức mình, tương kế tựu kế, họ lại đội lốt ra làm đàn bà – đánh phấn, thoa son (có người đã đánh phấn thoa son rồi đấy) mặc quần áo phụ nữ, để tóc dài, mặc quần lĩnh, đi giầy nhung, đeo vònh và hoa tai – và vì đó, sẽ gieo những mầm hoài nghi vào óc khảo cứu của hậu thế thì khổ cho ... hậu thế lắm vậy.
(Ảnh: THỜI MỚI QUẦN ÁO MỚI: Một bộ quần áo mới: sơ-mi-dét và soóc mà mấy năm gần đây rất thịnh hành khi các cô gái mới tranh nhau đi xe đạp. Một bộ quần áo mà 10 năm về trước đây giá các 10 vạn bạc một cô thiếu nữ Hanoi cũng không dám mặc
MARLÈNE DÍETRICH GIẢ TRAI: Nếu bao giờ nàng cũng ăn mặc như thế này thì chẳng ai đi xem xi-nê nữa
DOROTHY LAMOUR MẶC QUẦN ÁO ĐÀN ÔNG: Còn đâu nữa tấm thân đều đặn, bộ ngực nở nang của các cô Hula và Toura khêu ngợi)
NGUYỄN-KHẮC-KHAM


ĐẦU NĂM XIN THẺ

Làm hay không, giầu hay nghèo, sướng hay khổ, ấy là những câu hỏi mà ta thường đặt trong óc rồi vì đấy mà đâm ra phân vân lưỡng lự. Vì thế mà ta thường thấy có người tung đồng xu hay đồng hào lên trời để xem sấp ngửa, rồi định làm hay không, và có người lấy nắm đũa để bói hung cát. Lại có người xem bói, xem số và nhất là cứ đầu năm thì những người kéo nhau đi xin thẻ để xem công việc hàng năm ra thế nào.
Nay nhân lục trong đống sách nho cũ thấy có quyển nói về cách bói bằng thẻ, xem ra cũng không khác gì thẻ xin ở các đền, các chùa, vì cũng có ống để xóc, cũng có câu đoán và cũng do đấy mà người ta có thể cầu tài cầu lộc được, vậy xin lược dịch ra đây để độc giả nhàn lãm. Thẻ này lại có cái tiện là bất cứ lúc nào, ước muốn việc gì hay muốn giải quyết điều gì thì cứ việc đem ống thẻ ra mà xóc thì sẽ được ra ý.
Linh ứng hay không thì chúng tôi không dám nói trước. Nhưng muốn được linh-ứng thì các bạn cần phải thành tâm.
Vậy độc giả lấy 8 thanh tre đem vót như các thẻ thường dùng, rồi lấy mực hay son viết lên 8 thanh tre, mỗi thanh một chữ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Li, Khôn, Đoài. Viết xong đem bỏ cả vào một cái ống. Như vậy độc giả đã có một ống thẻ rồi. Nay độc giả chọn một trong 6 cung sau này xem ước mong điều gì:
1)    Liệu có vợ hay chồng không?
2)    Thi cử có đỗ hay không?
3)    Buôn bán có phát tài không?
4)    Bè bạn có tốt không?
5)    Cờ bạc có đuợc hay không?
6)    Danh lợi thế nào? Đằng nào hơn?
Rồi lấy ống thẻ ra mà xóc. Thẻ nào rơi ra đem các bạn cứ tra theo bảng trả lời dưới đây.
Ví dụ hỏi: Tôi muốn biết đi thi có đỗ không? Bạn lấy ống thẻ ra xóc. Một chiếc thẻ có chữ CẤN rơi ra. Thế là quẻ Cấn. Bạn xem bảng dưới này về quẻ Cấn, cung hai (vì thi cử thuộc về cung hai) thì thấy câu trả lời.
ĐÀM-KHÁCH

BẢNG TRẢ LỜI
8 quẻ
6 cung

CẤN
1) Cái đó can hệ lắm phải nghĩ kỹ mới được.
2)Thế nào cũng đỗ nhưng lúc thi phải cẩn thận một tí.
3)Chểnh mảng như vậy thì phát tài sao được?
4)Thử hỏi vay tiền sẽ biết lòng người.
5) Được, nhưng được tiền ít mà được chua cay nhiều.
6)Sao lại không nhưng lười như vậy thì lấy đâu ra?     CHẤN
1)Chửa chắc vì con phải sửa đổi tính nết đã.
2)Phải cố làm việc hơn bây giờ.
3)Nói đến làm gì vì đã vô tài lại lười biếng!
4)Giầu về bạn, sang về vợ.
5)Nếu còn phải hỏi thì tốt nhất đừng chơi nữa.
6)Của thế người đời.
TỐN
1)Rổ rá còn cặp lại được,huống chi là ...
2)Nên soi gương Chu-mãi_Thần.
3)Còn có tính điêu bạc thì đừng hòng.
4)Thức khuya mới biết đêm dài.
5)Chơi đến cua cá cũng thua.
6)Cố cho kỳ được vì mất gì mà chẳng cố.
KHẢM
1)Khó lắm!.. Khó lắm!...
2)Trượt là phải vì có học đâu mà đỗ.
3)Giầu đâu đến kẻ ngủ trưa.
4)Phải gặp cảnh gia biến mới biết được.
5)Tất nhiên là thua vì lại thế nào được với các ông nhà nghề.
6)Nói làm gì vì danh lợi đâu đến mình.        LI
1)Biết thế nào mà kén cá trọn canh.
2)Thua keo này ta bày keo khác.
3)Nên nhớ câu “khách nhớ nhà hàng”.
4)Lưu-Bình, Dương-Lễ đời nay hơi hiếm.
5)Thế nào cũng được nhưng phải là chủ gá.
6)Ai giầu ba họ.
CÀN
1)Có, nhưng bực nhất là lúc nào cũng có người kèm bên cạnh.
2)Có công mài sắt có ngày nên kim.
3)Chịu khó đôi chút, cuối năm lấy rổ mà súc tiền.
4)Nên bế quan tọa khách.
5).................. được to.
6)Áo xiêm đùm bọc lấy nhau.
ĐOÀI
1)Gái có chồng như rồng có vây, giai có vợ..
2)May ra thì đỗ vì nhiều lần đã bị xấu hổ chỉ vì lười.
3)Sẽ buôn may bán đắt nhưng nên nhã nhặn với khách hàng.
4)Có nhiều nhưng chỉ có một người mà mình không biết đến là thành thực.
5)Cờ bạc là bác thằng bần.
6)Tốt danh hơn lành áo.    KHÔN
1)”Vui chi thế sự mà mong nhân tình”?
2)Cố lên, giời không phụ người có công bao giờ.
3)Làm gì mà chẳng phát tài nếu chịu để tâm suy xét.
4)Sông sâu còn có người dò...
5) Được, nhưng so với hôm thua thì chả bõ.
6)Giấy nát giữ lề.


ĐẦU NĂM TÂN-TỴ

Kiểm-duyệt bỏ

Ông Trạng Mới, biệt hiệu là Hắc Vân-Am - chắc ông này nghiện thuốc phiện quanh năm sống ở trong mây đen, tức là khói – nhân ngày Xuân đến, có cao hứng làm một bài......... ..... .............. gởi đến chúng tôi............. ................. ................................ ........... ........ ........
Vậy chúng tôi đăng tải bài này lên báo............. nhưng chúng tôi “vui lòng” giấu tám chữ đầu đi.
Tám chữ đầu ấy là tám chữ gì? Họp cả nhau lại thì thành ra câu gì?
Ông Hắc Vân-Am có ý nói lờ mờ cho chúng tôi biết rằng câu ấy ở ngay bài của Văn Lang Nguyên doãn-Vượng đăng ở đầu số báo này... Chúng tôi tìm đã công phu mà không thấy câu ấy vậy xin các độc giả tìm hộ câu trả lời:
...Phải yêu đời chớ chán đời,
...Chi thở ngắn lại than dài,
... Đang cô gái nên thân gái,
...Bộ chàng giai đáng vẻ giai,
...Thẳng đường trường rong ngựa rui,
... Đi sông rộng sẵn thuyền bơi.
...Qua tháng lại xuân còn mãi,
...Mẻ cùng xuân đó hỡi ai?

(Xem trả lời trang 62)


CHƠI BÀI

Mục-đích:
Trò chơi mà chúng tôi hiến các bạn dưới đây để giải trí trong dịp Tết gọi là “Bài xếp Quốc-ngữ Trung Bắc Chủ Nhật”. Đánh “Bài xếp Quốc-ngữ T.B.C.N”, các bạn có thể chắc chắn được vui vẻ luôn luôn. Ngoài cái ý định đó,chúng tôi còn có một ước muốn cao hơn là làm cho tiếng Quốc-ngữ được phổ thông và bành trướng ra khắp mọi nơi.
“Bài xếp Quốc-ngữ T.B.C.N” đối với các trẻ em sẽ là một cách dạy trẻ em chóng biết Quốc-ngữ vì vừa chơi vừa đùa thật dễ hiểu. Đối với các bạn nhớn tuổi“Bài xếp Quốc-ngữ T.B.C.N” sẽ làm cho các bạn học cách viết Quốc-ngữ cho đúng chữ và làm cho các bạn vừa vui chơi vừa biết thêm những cái tinh hoa của chữ mẹ đẻ của chúng ta, bởi vì chúng ta cũng có một lối chữ riêng – như tất cả các nước văn minh khác trên mặt đất.
T.B.C.N

Cách làm bài:
“Bài xếp Quốc-ngữ Trung Bắc Chủ Nhật” có 52 cây. Các bạn lấy bìa cứng cắt ra 52 cây bài, mỗi cây bề dài 8 phân tây, bề ngắn 3 phân. Bài gồm có 23 chữ cái Quốc-ngữ, thêm 6 chữ nguyên-âm (voyelle) có dấu: ă, â, ô, ơ, ư và 5 dấu: nặng (.), sắc (́ ), huyền (`), hỏi (?), ngã (~).
Mười hai cây bài mỗi quân có đề chữ:
B-D-Đ-G-K-L-P-Q-R-S-V-X
Mười bảy chữ sau này, mỗi chữ đề trên hai quân bài, cộng là 34 cây bài:
A-Ă-Â-C-E-Ê-H-I-M-N-O-Ô-Ơ-T-U-Ư-Y.
Những thứ sau này  nhiều gấp ba lần những chữ ở trên là vì được dùng đến luôn luôn ở trong tiếng Quốc-ngữ.
Còn lại 6 cây bài nữa thì lấy hai cây, mỗi cây đề hai dấu: một dấu hỏi (?)ở trên cây bài, một dấu ngã (~)ở dưới, đoạn lấy hai cây bài mỗi cây có đề hai dấu huyền (`) và sắc (‘). Còn hai cây nữa thì ở một cây trên đề chữ A, dưới đề dấu nặng (.), một cây trên đề chữ O dưới đề dấu nặng (.). Phải đề thêm hai chữ A và O như thế vaì hai chữ này dùgn luôn luôn trong tiếng Quốc-ngữ.
Tổng cộng là 52 cây bài.

Cách chơi:
“Bài xếp Quốc-ngữ Trung Bắc Chủ Nhật” có hai lối chơi, và có thể chơi từ hai đến sáu người. Bài chia đều cho mọi người, những quân lẻ sau cùng không chia đủ cho mọi nhà thì để lại vào giữa và coi là bỏ đi.
LỐI CHƠI THỨ NHẤT:
Chia bài ra cho các nhà. Lấy những cây bài của mình chắp thành tiếng. Ai được nhiều tiếng nhất thì thắng cuộc. Nhỡ có hai nhà cùng chắp được một số tiếng ngang nhau thì người nào còn lẻ ít cây bài nhất thì ăn.
Thí dụ: Bốn người chơi. Mỗi người có 13 cây bài. Một ngừơi chắp được hai tiếng Chỉnh và Lưỡng kể cả hai dấu ngã và hỏi nữa thế là dùng được 12 cây bài, còn lẻ có 1 cây.
Một ngưòi khác chắp đựơc 3 tiếng Đem, O: và Sấu, trên tay còn lẻ những bốn cây bài nhưng vì chắp được những 3 tiếng nên ngừơi sau này được. Chỉ trừ ra như khi một người chắp được ba tiếng Dầy, Lôi, Xoa còn lẻ ba cây bài, và một người khác cũng chắp đựơc ba tiếng Đòn, Mua, Vặt chẳng hạn nhưng chỉ lẻ có hai cây bài thì người lẻ hai cây này được.
Nên nhớ: Chỉ những chữ Quốc-ngữ chắp có nghĩa mới được kể. Những chữ vô nghĩa như Pánh-Boe-Kiu-Lun vân vân ... thì không được kể.

LỐI CHƠI THỨ HAI:
Chia bài cho các nhà. Lần lượt mỗi ván một người được đánh trước và đánh theo vần khuy áo. Người đầu đánh ra một cây, người thứ nhì phải đặt luôn ra đó một cây khác cho thành nghĩa, người thứ ba đặt theo người thứ nhì ... bao giờ cho thành hẳn một tiếng thì thôi. Khi tiếng quốc-ngữ đã thành hẳn rồi thì ngừơi ngay sau tiếng ấy phải góp vào một phần đã định từ trước rồi nhường cho người sau mình đánh.
Thí dụ: Bốn người là Xuân, Hạ, Thu, Đông đánh bài. Xuân vứt ra một chữ B, đến lựơt Hạ đánh tiếp một chữ O, Thu đặt ra chữ N, Đông đặt chữ G: thành chữ Bong, lại đến lượt Xuân đánh nữa, Xuân cho thêm vào đó cây bài có dấu sắc (‘) thành ra chữ Bóng. Khi chữ Bóng đã thành thì Hạ phải góp một phần đã định rồi để cho Thu bắt đầu vứt ra một chữ khác.
Khi nào đến lượt mình mà tiếng chắp chưa thành nghĩa mà mình không có chữ đặt vào được nữa thì mình phải góp phần rồi để cho người ngay sau mình đánh nối. Người sau mình có quyền đánh nối chữ ấy hay bỏ đi mà đánh một chữ bắt đấu của một tiếng khác được.
Thí dụ: Ba nhà đã họp thành chữ Nha rồi đến lượt Đông, nếu Đông không cho được một dấu hay một chữ gì vào cho tiếng Nha thêm nghĩa thì Đông ;hải góp phần vào nhường cho Xuân đi. Nhưng Xuân không phải bắt buộc đi thêm chữ hay dấu cho tiếng Nha thêm nghĩa. Xuân có quyền gạt tiếng Nha đi và bắt đầu đi một chữ khác để cho Hạ phải đi theo. Cứ thế cho đến khi người nào đi hết bài trên tay TRƯỚC NHẤT  thì được thu cả các phần của những người bị phạt vừa góp.
LỜI DẶN RẤT CẦN. _Bao giờ cũng phải đi từ trái sang phải nghĩa là đi xuống dưới chứ không được đi lên trên. Thí dụ đã đi thành chữ Han rồi thì phải đi xuống sau chữ N để thành ra Hang chứ không được đi lên trên chữ H để thành chữ Than chẳng hạn.
Những tiếng Quốc-ngữ vô nghĩa không được kể nhưng những tiếnng vô nghĩa như Kin, Gưn, Ng và Th cũng được phép đi vì những chữ đó có thể thành tiếng, nhưng nếu người sau mình không có chữ để đi tiếp vào hay không muốn đi tiếp vào thì những người đã họp thành các chữ dở dang kể trên kia phải cũng đóng một phần đã định vào. Nghĩ thì thiệt nhưng các bạn đã đi bớt được một quân bài rồi. Chỉ trừ những tiếng Boe, Ling, Coa vân vân ... thì không được kể vì những tiếng đó dù có thêm chữ hay thêm dấu vào cũng không thành nghĩa lý gì.
Lãng-Hồ và Tùng-Hiệp
(Giữ bản quyền, cấm sao lục và bắt chước)
Trò chơi Hốp-Hốp
Rất dễ và rất buồn cười. Có thể chơi được nhiều người. Đầu tiên định rằng: “Con số 6 hay số 7, gì đó”.
Một người đầu đếm to: Một, người sau phải đếm Hai... cứ lần lượt như thế đến 100. Người nào đến lượt mình có con 6 hoặc số nhân lên của con 6 hoặc một số có chữ 6 thì phải keu hốp thật to. Người sau đọc luôn con số tiếp.
Thí dụ chơi về con số 6 thì những số này phải kêu hốp: 6-12-18-24-26 vân vân ...
Con số 7 thì những số này phải kêu hốp: 7-14-17-21-27-28 vân vân ...
Thí dụ một người đếm 26, người thứ nhì phải kêu hốp và người thứ ba cũng kêu liền hốp, người thứ tư đọc luôn 29 ...  vân vân  ...
Phải đọc nhanh không nghỉ. Người nào đọc nhầm số hay đến chỗ phải hốp mà quên không kêu hốp hay kêu hốp nhầm lúc thì phải ra ngoài. Người nào không nhầm còn lại sau cùng là được cuộc.
Chơi giỏi rồi thì có thể đếm liền cả hai con số 6 và 7 - hoặc con số 6 và 8 vân vân ...
Lối chơi này rất chóng giỏi cửu chương.
ANH-ĐẠT
Giả-nhời bài:
ĐẦU NĂM TÂN-TỴ
(Ở trang 60)
TÁM CHỮ THIẾU LÀ:
Hãy can đảm tiến bước sang năm mới

BỨC TRANH PHỤ BẢN
Để tạ lòng độc giả, chúng tôi định cho ra kèm theo số TẾT TÂN TỴ này một bức tranh phụ bản tuyệt đẹp của nhà nhiếp ảnh Võ-an-Ninh. Chúng tôi không ngại công trình, nên từ nửa tháng trước khi số Tết này xuất bản, chúng tôi đã tìm khắp Hà Thành một thứ giấy tốt nhất đẹp nhất, một thứ giấy lụa giống như giấy lụa của Nhật để in bức tranh quý giá kia trước là để làm món quà đầu xuân tuyệt đẹp kính tặng những bạn đọc thân yêu, và sau là để đền đáp tấm lòng tốt của bạn Võ-an-Ninh có lòng yêu mến chúng tôi đã riêng tặng Trung Bắc Chủ Nhật bức tranh phụ bản hàng năm vậy.
Không may, thứ giấy ấy như các độc giả thấy đây, trông thì thực lạ, thực quý và thực đẹp, chẳng ngờ lúc in ra thì lại thấm mực, hai ngày sau khi in xong thì dầu mực loang ra làm giảm mất cả vẻ mỹ quan của bức tranh phụ bản mà các bạn vẫn ó lòng yêu trông đợi. Không biết làm thế nào khác trong lúc cấp bách này, chúng tôi đành cứ phải in ra và đính theo số này.
Mong các bạn xét tình cho và chúng tôi lại có lời xin lỗi cả bạn Võ-an-Ninh nữa. _ Ra giêng, trong số báo ra ngày mồng 7 tháng giêng tức là 2 février 1941 chúng tôi xin in lại trên báo vào một thứ giấy Norvège thực trắng, thực tốt để đáp lại thịnh tình của các bạn và các bạn sẽ thấy hết cả cái tài tình nhiếp ảnh của bạn Võ-an_Ninh thân mến.
T.B.C.N
Trung-Bắc Chủ-Nhật ra giêng
Nhiều tranh đẹp, nhiều bài hay, lại kém thêm một phụ bản “Người đẹp trong rừng Cúc” in trên giấy Norvège thực trắng và thực đẹp. T.B.C.N. số 46 ra ngày mồng bảy tháng giêng tức là 2 Février 1941 sẽ làm cho độc giả vui sống với mùa xuân tươi thắm.



Các quảng cáo
CÁC BẠN GÁI TA NÊN LẠI
KHÁNH-LONG
Mà ghi những nụ cười êm đẹp của tuổi xuân
Vì hiệu KHÁNH-LONG là nơi đáng cho ta làm kỷ niệm lâu bền những ngày xuân mới
KHANH-LONG
42, RUE J. FERPY HANOI

BÁC-SỸ DẶNG-VŨ-HỶ
NGUYÊN NỘI TRÚ TẠI NHÀ THƯƠNG ST LAZARE Ở PARIS
TIẾP CÁC BỆNH NHÂN TẠI
Số 18, phố Richard, Hanoi (đầu ngõ HôiVũ)
CHỮA CÁC BỆNH
Chuyên môn chữa bệnh hoa-liễu và bệnh đàn bà
Sáng từ 8h đến 12h - Chiều từ 3h đến 7h

QUÀ BẠN GÁI
HOA đem gửi cho các người thân nó sẽ thay bạn mà biểu lộ những ý bạn muốn nói
Riêng nhà Mai-Phong là hiệu may nổi tiếng của bạn gái ngày nay có làm nhi62u những bông hoa tinh xảo dùng trang-điểm và bầy salon rất lịch sự về dịp Tết
MAI-PHONG
HIỆU MAY BẠN GÁI
Số 7, phố hàng Quạt, HANOI

CÁI THÚ NGÀY XUÂN
Không gì bằng uống rượu
Chén rượu có thú vị, không gì bằng
thuốc mạnh
ĐẠI-QUANG
Thuốc này hoà với rượu mà uống, mùi thơm, ngon, ngọt, bổ khí, bổ huyết, khai vị, mau tiêu-hoá, không uống được rượu hoà với nước sôi uống cũng hay lắm. Nam phụ lão ấu uống đều tốt.
Mỗi chai giá : 0$70. Trong dịp Tết, mua một chai biếu thêm một chai
23, HÀNG NGANG, HANOI – GIÂY NÓI 805

CHÉN TRÀ XUÂN
Bình-minh sổ chan trà
Mỗi nhật cứ như thử
Lương-y bất đáo gia.
Thật vậy, mỗi buổi sáng hay sau mỗi bữa cơm ngài hãi uống hai chén trà ta ĐỒNG-LƯƠNG LIÊN-TÂM, trà QUAN-ÂM, trà KIM-KHÁNH ngài sẽ thấy tỉnh táo tinh-thần, sáng sủa đầu não, làm việc vui vẻ suốt ngày.
Nhất là trong dịp Tết này, một chén trà ĐỒNG-LƯƠNG, trà QUAN-ÂM, trà KIM-KHÁNH, hương thơm ngát, nước trong xanh như màu hổ phách để làm cho câu truyện vui xuân tăng thêm vẻ đằm thắm, mặn mà và ý nhị lắm...
Uống chè ta ĐỒNG-LƯƠNG LIÊN-TÂM, trà QUAN-ÂM, trà KIM-KHÁNH  lại còn là giúp cho nước nhà được giầu mạnh, tỏ ra mình biết bảo tồn quốc hóa không gánh vàng đi đổ sông Ngô, vác tiền làm giàu cho khách...
CHÈ TA ĐÔNG-LƯƠNG
TỔNG-CỤC: 12 Hàng Ngang, HANOI – CHI-CỤC: 149, Phố Khách, HAIPHONG
Có Đại-lý khắp các tỉnh tại TRung, Bắc và Lào.

Các ngài cần dùng tới thuốc Bắc, thuốc Nam, thuốc sống, báo chế, các thứ sâm chính hiệu như : Cao-Ly sâm, Hoa-kỳ sâm, Giả-Sơn sâm, Bắc-Dương sâm, cùng các thứ cao-đan hoàn-tán rất hay, như thuốc: đau mắt đã có màng mộng, thuốc chốc-lở, thuốc ho, thuốc cam-tích trẻ con, thuốc bổ thận, thuốc điều-kinh bổ huyếtv.v... Kính mời các ngài lại:
HIỆU THUỐC ĐỨC –PHONG
NHÀ SƠN ĐỎ
Số nhà 45, Phố Phúc-Kiến, Hanoi
Một hiệu thuốc mở đã lâu năm, được các ngài đều tín nhiệm và công nhận là :
Thuốc rất tốt,
Giá phải chăng,
Cân đúng cân lạng.
Đó là ba cái đặc điểm của hiệu thuốc:
ĐỨC –PHONG
(NHÀ THUỐC SƠN ĐỎ)
45, Phố Phúc-Kiến, Hanoi

NĂM CANH THÌN ĐÃ QUA VÀ ĐEM LẠI CHO TRẻ EM TRONG NƯỚC MỘT SỰ MỚI LẠ VÀ BỔ ÍCH CHO TÂM TRÍ CỦA CHÚNG , ĐÓ LÀ NHỮNG
ĐỒ CHƠI MẠNH-QUỲNH
Bước sang năm mới, ĐỒ CHƠI MẠNH-QUỲNH còn đem lại cho các trẻ em nhiều sự mới lạ và thích hợp với trí óc của các trẻ em nữa. Các em hãy chờ !

ĐỒNG HỒ THỤY-SĨ THƯỢNG HẠNG
MARQUES:
MOVADO
CYMA
PIERCE
BÁN TẠI NHÀ KIM-HOÀN
PAUL CHABOT
SỐ 56 PHỐ TRÀNG-TIỀN, HANOI

Trung-Bắc Tân-Văn
GIÁ BÁO
Un an        1 an         6 mois
Tonkin Annam Laos.                11$00        6$00        3$25
Cochinchine, France et Colonies francaises    12.50        6.75        3,50
Administration et Services publics            22.00        ..        ..
Mua báo tính từ ngày 1er hoặc ngày 16 mỗi tháng cho gọn. Các ngài mua báo dài hạn xin trả cho tiền trước.

Thuốc thơm ĂNG-LÊ rất êm dọng

Tủ sách Gió tây
SẮP XUẤT BẢN
CUỐN ĐẦU
Chiếc lá rung
Tiểu thuyết của Somerset Maugham
Bản dịch của Huyền-Hà

HÀN-THUYÊN XUẤT BẢN CỤC
Giám-đốc: NGUYỄN-XUÂN-TÁI - Tổng- thư-ký: TRƯƠNG TỬU
71, Phố Tiên – Tsin – HANOI
KINH THI VIỆT-NAM
của TRƯƠNG TỬU
Sách này viết trả lời chung cho tất cả những kẻ vong-tổ thường có thói khinh-thị nòi-giống Việt-Nam, không tin-tưởng ở tương-lai của đất nước Việt-Nam, chỉ vì không tìm hiểu đến cái sức mạnh Việt-Nam trong quá khứ
GIÁ: 0$70
THỰC và MỘNG
Thơ của
LR6-TRỌNG-QUỸ và LƯƠNG-ĐỨC-THIỆP
THƯỜNG MÀ LẠ
CŨ MÀ MỚI
In toàn bằng giấy hội chỉ - Bìa cáo-trục in ba mầu tuyệt đẹp, do hoạ-sĩ NGUYỄN-ĐỖ-CUNG trình-bầy.
GIÁ: 0$60
ĐÃ CÓ BÁN Ở KHẮP CÁC HIỆU SÁCH ĐỘNG-DƯƠNG

BẮC-KỲ NAM-TỬU CÔNG-TY
CHUYÊN-TRÁCH HỢP CỔ CÔNG-TY VỐN 200.000$
trụ sở tại Văn-Điển
HADONG
Rượu nấu toàn bằng gạo nếp và men thuốc bắc. Rượu thường 35 phân và 40 phân........
Rượu mùi đủ các hạng:
Cam, Lê, Hoàng-Cúc, Bạch-Cúc, Hắc-nhu Mễ, Bạch-nhu Mễ.. .. .. .. ..

Đầu xuân năm mới, không gì xung xướng hơn bằng được khỏe trong mình, muốn được sức khỏe nên dùng thuốc
SÂM NHUNG
BỔ-THẬN-HOÀN
của
Nhà thuốc NHỊ-THIÊN-ĐƯỜNG Ông Phật
Thì sẽ được vạn sự như ý suốt năm “Tân-tị”

CHƠI XUÂN LỠ MẮC BỆNH PHONG TÌNH
Các ngài chơi xuân lỡ mắc bệnh Lậu, Giang-mai, Hạ-cam, Hột-xoài, v.v..
chỉ nên tìm đến
DỨC-THỌ-DƯỜNG
131, ROUTE DE HÚE, HANOI
mà chữa khoán hoặc uống thuốc, sẽ được khỏi mau và tuyệt nọc. Thuốc dễ uống, không công phạt, không hại sinh dục. Cách chữa rất có vệ sinh. Thuốc lậu 0$60 một hộp, giang-mai 0$70, hạ-cam: thuốc uống 0$30, thuốc rắc 0$30, v.v. Nhà thuốc mở đã lâu năm, có kinh-nghiệm và thực-tài, hàng vạn bệnh-nhân ở các tình xa đều có về mua thuốc và chữa bệnh. Nhà thuốc có thuốc riêng và phòng riêng chữa bệnh đàn bà, lại còn chế nhiều thuốc rất linh-ngườiệm như : Bổ-thận, Bạch-trọc, Điều-kinh, Khí hư Thiên-truỵ, Cai nha-phiến, v.v..
TROING BA NGÀY TẾT
SÁNG MỞ CỬA TỪ 8 GIỜ ĐẾN 10 GIỜ

TRONG THÁNG FÉVRIER 1941 SẼ XUẤT BẢN
“BÁO-MỚI”
BÁO THÔNG TIN HÀNG NGÀY RẤT NHANH CHÓNG
TRANH ẢNH NHIỀU, ẤN LOÁT VÀ XẾP ĐẶT MỸ-THUẬT NHƯ MỘT TỜ BÁO THÔNG TIN ÂU MỸ
Một cơ-quan của Thanh-niên Việt-nam
DO
NGUYỄN KHẮC-KHAM
VÀ NGUYỄN DOÃN-VƯỢNG
CHỦ-TRƯƠNG
VỚI
MỘT BỘ BIÊN-TẬP GỒM CÓ NHỮNG THANH-NIÊN HOẠT ĐỘNG ĐÃ TỪNG LÀM BÁO Ở PHÁP, Ở NGOẠI QUỐC VÀ NƯỚC NHÀ

Trà tuyết quý nhất
Tuyết trắng, cánh nhỏ, hương thơm, nuớc xanh, vị ngọt.
Hồng trà pha với đường
Thường dùng rất có ích
Thiết khách rất lịch sự
Làm quá rất hợp thời
Bán tại 68 Hàng Đường HANOI

XI ĐÁNH GIẦY HIỆU MẶT GIĂNG NÀY DO NHÀ KỸ-SƯ HOÁ HỌC ANNAM CHẾ BẰNG NHỮNG CHẤT BÓNG LÂU, BỀN MẦU, KHÔNG HẠI DA NHƯ CÁC THỨ XI KHÁC
Mua xi đánh giầy hiệu MẶT GIĂNG là khôn, vì chắc chắn được thứ xi tốt, mà lại còn có ý-nghĩa là : giúp cho Kỹ-nghệ nước nhà mau phát đạt. Có bán khắp mọi nơi.

ROBERT BEAU
HIỆU KIM-HOÀN LỚN
Có bán đủ các thứ đồng-hồ Thụy-Sĩ thượng hạng. Kiểu mới sáng chế.
OMÉGE
JUDEX
VULCAIN
STUDIO
LONGƯờINES
ROLEX
MOVADO
HANOI  HAIPHONG

CỘNG-TY
NẤU RƯỢU DÔNG-PHÁP
SOCÍETÉ FRANCAISE DES DISTILLERIES DE L’INDOCHINE
Nguyên hãng rượu của ông A. R. FONTAINE
Công-ty vô-danh tư-bản 100.000.000 phật-lăng
BAN QUẢN-TRỊ
55, Bd. Gambetta
SỔ THƯƠNG-MẠI
HANOI số 140
CÁC NHÀ MÁY Ở:
HANOI – NAMDINH – HAIDUONG
CỬA HÀNG BÁN LẺ:
17, rue Borgnis Desbordes – HANOI
Rượu Rhum trắng và rượu Rhum cũ
Cồn dùng để đốt - Rượu nguyên chất
Rượu 90 và 95 phân
Dấm nấu bằng gạo - Nước lọc
NHỮNG THỨ RƯỢU TA
Rượu Vân-Hương và Nam-Hương
Rượu Cúc
Rượu Ngũ-Gia-Bì và Rượu Mùi

Chia sẻ liên kết này...

Add comment