PHỤ NỮ TÂN VĂN (số đầu tiên) - VĂN -UYỄN

Mục lục
PHỤ NỮ TÂN VĂN (số đầu tiên)
CHƯƠNG -TRÌNH CỦA BỔN -BÁO
LỜI TÂM - HUYẾT CÙNG CHỊ EM ÐỒNG -BÀO
Các danh - nhơn trong nước đối với vấn-đề phụ-nữ
VỀ VĂN- HỌC CŨA PHỤ- NỮ VIỆT- NAM
VĂN -UYỄN
CÁI TƯ - TƯỞNG
VIỆT -NAM PHỤ -NỮ LIỆT -TRUYỆN .
PHẦN NHI ÐỒNG
BỖN- BÁO CẨN- KHẢI ?
Tất cả các trang

VĂN -UYỄN

 

TRINH TIẾT

Danh tiết xưa kia mà biết mấy thu ?

Nghe quyên khắc khoải tiếng tư -phu.

Mày ngài hoa ủ sầu khôn tả,

Má phấn châu rơi giọt dể khô.

Chúc nghĩa đã nguyền vừng ngọc -thỏ,

Tấm lòng phó mặc bóng kim -ô.

Thâu đêm mang tiếng rằng kia nọ,

Dạ sắt gan vàng dễ biết đâu !

Vô Danh.


TRÁCH XUÂN

Xuân một năm là mới một lần,

Sự xuân tôi chửa thấu lòng xuân,

Cũng màu thắm ấy màu xanh ấy.

Sao chỗ hơn phân chỗ thiệt phân ?

Dễ khiến má hồng lo áy náy,

Thêm thương đầu bạc nghĩ tần ngầu.

Thôi thôi chớ tiếc xuân qua cỏi,

Xuân ở cùng ta biết mấy lần ?

VÔ DANH. 


BỊNH -LỬ THUẬT -HOÀI

Trót bảy ngày thâu trọ xứ ngươi,

Tiềm tòi tri -kỷ mỏi con người,

Hỏi ra ai nấy đều đa bịnh,

Nghĩ lại  mình đây cũng bất tài.

Con tạo đèo bòng ba cái xác,

Anh -hùng thoi thóp mấy lâm hơi.

Xưa nay hỏi lại bao nhiêu kẻ,

Thạo bước phong -trần lắm tả tơi.

Nguyễn -Thành -Phương .


MONG CHÚC CHO PHỤ NỬ TÂN VĂN


Nước văn- hiến bốn ngàn năm lẻ,

Mà nử- lưu buồn- tẻ dường nao !

Ðời nay kịch- liệt phong- trào,

Chị em ơi hỡi, lo sao kịp người !

Ðàn anh đã đua- đòi tấn- bộ,

Chị em mình há nở ngồi nhìn ?

Chàng dầu chẳng nại tữ sinh,

Thiếp nên cũng quyết trọn tình sắt son !

Trai với gái đều con của nước,

Gái như trai đều được phần lo.

Xin ai chớ nói "liểu- bồ",

Phấn son chẳng quản nước nhà thạnh suy !

Kìa ! thanh- sử còn ghi lắm việc,

Hiếm chi là nử- kiệt nữ- anh !

Giữ cho xứng- đáng thân- danh:

Cháu con Trưng, Triệu mới đành lòng nhau...

Ước sao "Như- ý- sỡ- cầu " !

CAO CHÁNH


Vịnh Bà NGUYỄN- THỊ- KIM

Tiểu sử - Bà là Hoàng- phi vua chiêu- Thống đời nhà Lê. Hồi vua Lê thua binh Tây- Sơn, phải chạy trốn sang Tàu, bà chạy theo không kịp, phải trở về nương náu ở trong dân- gian, nhà tranh vách đất, thủ tiết mười mấy năm trời. Ðến khi vua Lê mất ở bên Tàu, người ta đem hài cốt về nước, bà ra lạy ở trước linh- cửu vua trước chồng xưa, rồi uống thuốc độc chết.

Dung rủi quan- hà lạc chúa- công,

Ngọn mây non bắc tuyệt mù trông.

Bồng- mao (1) tạm lúc nương thân liễu,

Kinh- khuyết (2) may sau thấy mặt rồng.

Thác nghĩa đã ghi cùng sắt đá,

Sống thừa còn thẹn với non sông.

Thôi thôi củ đây là hết !

Năm lạy linh- tiền (3) chứng thiếp trung.

DƯƠNG- BÁ- TRẠC.


HỎI TRĂNG


Trăng ơi ! trăng hởi ! Bóng trăng tròn,

Có thấu tình ta với nước non ?

Khuya sớm mơ màng hồn thủy- vủ;

Ðêm ngày ngây ngất bóng hoàng- hôn.

Cầm trăng ngảnh lại lòng buồn rức,

Chi- tứ trông ra khí uất dồn.

Hỏi bóng trăng kia sao chẳng đoái,

Tấm lòng bức tức, dạ bôn- chôn.

QUỐC- HOA nữ- sĩ, di- cảo

(1) Bồng- mao- nhà tranh.

(2) Kinh- khuyết- là cung điện ở kinh thành nhà vua.

(3) Linh- tiền- ở trước linh- cữu.

KHẢO VỀ VIỆC NỬ - TỮ GIÁO - DỤC CỦA NƯỚC NHỰT - BỔN.

Ðàn bà ở Phương Ðông ta ngày nay, chỉ có một mình đàn bà nước nhựt là tiến - bộ hơn hết. Trong các phương diện nào là họ cũng tiến - bộ một cách lạ lùng. Ta đã từng nghe nói đàn bà nhựt đậu tới bác sĩ, chủ - trương một xưởng công - nghệ lớn ; hay là ra ứng cữ hạ -nghị -viên; hay là định ngồi máy bay vượt qua Thái -bình -dương, danh tiếng của họ lẩy lừng trong bốn biển năm châu, đã chẳng kém gì chị em ở Âu Mỹ, mà họ còn tự nhận là bực chị của phụ nữ ở Phương Ðông nầy. Vì sao mà họ tiến bộ mau mắn như vậy? Ðó là một vấn - đề mà chị em nước ta nên biết.

Ðàn bà Nhựt-bổn mà đi tới trình - độ như ngày nay, là nhờ việc nữ - tử giáo dục của họ đã dày công- phu lắm. Nhơn đọc cuốn " Nhựt - bổn khai - quốc ngủ thập niên sữ " của bá- tuớc đại- ôi trọng- tínchép về việc nữ- tử giáo- dục kỹ lưởng lắm, vậy xin lược thuật ra đây, để cống- hiến cho chị emmột cái gương phụ- nữ tiến - hoá.



Add comment