BÁO CHÍ Thư mục Lưu Đình Triều LƯU ĐÌNH TRIỀU: Duyên cùng Khoai, Chuối…

LƯU ĐÌNH TRIỀU: Duyên cùng Khoai, Chuối…


Trong diện cấp Hòn của vùng biển Tây Nam thì Khoai được coi là hạng chân dài: 316,7 m. Chuối kém hơn chỉ cao 139, 9 m ( so với mặt nước biển). Cùng hộ khẩu Cà Mau. Khoai không dân, có một con đường, Chuối thì ngược lại.

 

Hocn-chuoiRRR

 "Quán trà đàm" của lính đảo Hòn chuối rất ư là sân vườn (ành: L.Đ.T)

 

1. 

   
Từ dưới gành lên trạm rada Hòn Chuối, theo chân lính, tôi men khe đá, len lách, leo theo một lối mòn hằn trên vách núi , gần như dựng đứng… Bước chân cứ lỡ cở, chồng chềnh. …Vừa đi vừa thở phì phò… Lên tới đỉnh, mở ra trước mặt tôi, một mảnh đất khá bằng phẳng, sạch thoáng tựa như một khu nghỉ dưỡng mini!

“Quán trà đàm” lộ thiên nằm ngay trên rẽo đất cao của trạm. Dàn dây chanh leo trĩu quả, đan liền với tán cây mít già cỗi tạo một khoảng xanh  thoáng mát rộng lớn, làm thành chiếc dù phủ che hai bộ bàn ghế đá bên  dưới. Khung cảnh nên thơ, thanh thoát . Nhâm nhi chung trà Bắc, rảo mắt  một vòng, lại phát hiện ra chuồng… trăn, với một mẹ hai con và cạnh đấy là một lồng chim sáo. .. Thỉnh thoảng, giữa câu chuyện râm ran bên chén trà về đời lính đảo xa, ca sĩ sáo lại minh họa những âm thanh mà chắc nó đã  ghi nhận từ môi trường xung quanh. Ngộ nghĩnh nhất, là khi sáo rít từng  hồi,sắc lẻm … âm vang tiếng kéo thuốc lào.

“Trà đàm” thật ra chỉ là những phút giây thư giản hiếm hoi của lính. Một  ngày như mọi ngày của lính Hòn Chuối nhiều việc lắm. Trần Văn Vận, chàng trai có thâm niên 5 năm trên đảo nói gọn. Ngày, chủ yếu là trực chuyên môn, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Chiều, ra sân mà đá bóng, đánh bóng chuyền hoặc tăng gia sản xuất (ngoài heo gà như Hòn Khoai, ở đây còn nuôi cả mấy con bò). Tối sinh hoạt, xem ti vi… Tôi đã thâm nhập vào góc triêng của lính sau những giờ họ mệt nhoài làm nhiệm vụ. Giường chiếu ngăn nắp gọn gàng. Trên đầu giường ngoài ống tre đựng bàn chải, kem đánh răng, đôi khi lại có một quyển sách. Giống như các doanh trại  khác của lính biển Tây Nam, tủ sách trên đảo thường nhỏ, ít sách, nhưng  lại rất thấm nhuần lời nhắn nhủ mà tôi đọc được trên trạm rada 610: “Đọc  sách là một văn hóa. Giữ sách, sắp đặt tủ sách ngăn nắp cũng là văn hóa”.

Chất văn hóa trong phòng ngủ của lính đảo còn thể hiện ở nhiều góc cạnh khác nhau. Gây ngạc nhiên đến sửng sốt là cây đàn bầu bóng loáng treo trên tường. Vũ Văn Tiệp chủ nhân cây đàn tình thiệt thừa nhận mình không biết đàn, nhưng được một người thân tặng anh cũng xách luôn ra đảo treo cho …đẹp phòng.

 

2.

xe-dao-khoai.RRRjpg

"Chiến mã" của lính Hòn Khoai xơ xác đến thấy... thương (ảnh: L.Đ.T)


Trên đỉnh cao, trong màn mưa xám, một ngôi nhà quét vôi vàng ẩn hiện giữa rừng nguyên sinh. Đó là Trạm rada 595 thuộc Vùng 5 hải quân. Chỗ đóng quân của lính nhưng xung quanh cây cối, rau quả tốt tươi như một sân vườn. Thấy tôi có vẻ quan tâm đến cái hồ nước khá lạ, đáy được căng lót bằng một tấm ny lon lớn, ở bên hông nhà, Trạm trưởng Hoàng Huy Hùng cười, giải thích: "Ở Hòn Khoai này nước ngọt hiếm hoi lắm anh à. Phải tranh thủ mùa mưa, làm cái hồ này để lấy nước dành tưới rau"… Đúng là cuộc sống của người lính tiền tiêu hôm nay được cải thiện nhiều về vật chất lẫn tinh thần. Nhưng so với dời sống người hậu phương thì các anh vẫn còn  nhiều thiếu thốn và đầy ắp gian lao.

Việc đi lại vận chuyển hàng hóa trên các vách núi cheo leo, không những khó khăn, vất vã mà chỉ cần một cú sảy chân là nguy hiểm đến tính mạng như chơi. Điện không có, xài máy nổ, chỉ được vài tiếng / ngày. Máy cũ, hư lại phải mất vài ngày đưa vào đất liền sửa chữa. Khi ấy chỉ trông cậy vào cây đèn pin mini hay đèn dầu leo loét. Phương tiện ra vào đất liền khó khăn. Mỗi lần đi phép tiền thuê tàu vào đất mất 2, 3 triệu bạc, nhưng thanh toán theo quy định tài chính chỉ… 50.000 đông. Đó là chưa kể sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Mùa nắng lo chuyện  phòng cháy rừng. Mùa mưa thì đối đầu với giông to, sóng lớn…

 

3.


Vài giờ trước khi dùng cơm trưa trên Hòn Chuối, tôi ngạc nhiên nhìn thấy một nhóm phụ nữ băng băng tiến vào doanh trại. Thì ra đấy là đội ngũ nhà bếp, lên phụ lính nấu nướng chuẩn bị bữa cơm đải khách phương xa. Ở đảo này là vậy, có chuyện gì lính nhờ là dân xăn tay áo chia sẽ. 40 hộ dân trên Hòn Chuối, thì đều gần như là hàng trăm người bà con của lính. Thượng úy Hồ Hữu Nghĩa trạm trưởng Trạm rada 615 không giấu giếm, trong kế hoạch dự trữ nước ngọt, gạo của trạm phòng khi thời tiết khó khăn, luôn tính đến những nhân khẩu ngoài cơ số lính. Chuyện giúp dân sửa nhà, làm nhà, dọn vườn …cũng thuộc vào chuyện thường ngày của lính. Có ốm đau gì, dân hú một tiếng, bất kể sớm tối,  y tá của Trạm lại xách đồ nghề xuống khám chữa bệnh cho dân.

Trong bữa cơm trưa mời khách đất liền, có sự hiện diện của một người phụ nữ mà lính đảo nào cũng chào: “Má Sáu hôm nay có khỏe không?”. 82 tuổi lẽ ra phải xếp vào hàng cụ, nhưng nhìn má Sáu đi đứng, chuyện trò và “cụng một ly đi bây” thì cứ ngỡ là tuổi năm mươi. Cùng chồng ra đảo Chuối lập nghiệp cách nay chừng 40 năm, khi đảo còn hoang vắng, bà trở thành cao thủ trồng chuối, từ chuối già, chuối sứ cho đến chuối hột… Chồng mất, con cái rủ nhau vào đất liền lập nghiệp, bà theo con được một thời gian rồi lại quay về đảo… Vào một ly ngọt xớt, má Sáu cùng một vài “đứa con” rỉ rả kể chuyện, giúp cho khách hình dung ra cái mối quan hệ “biểu trưng” của tình quân dân trên đảo mà bà là nhân vật trung tâm. Từ khó khăn gạo, nước đến nhức đầu sổ mũi gì, bà đều được lính lo toan. Liên hoan, lể tết ở Trạm không thể thiếu má Sáu. Ở bên kia (nhà bà), bầu bạn với chó với mèo dễ buồn, chiều chiều má hay băng rừng sang chơi, cơm nước cùng “tụi nó”.

Nhiều hôm xem cải lương trên ti vi xong, khuya quá bà ngủ luôn tại trạm xá , “tụi nó” lo mùng mền, giường chiếu cho má đầy đủ… Một thân một mình, ở tít trên cao, xa xóm nhà dân bên dưới gành, nên có chuyện gì “ tui cứ trông nhờ vào tụi nó’. Má buông câu đúc kết, rồi lại… một ly ngọt xớt.

 

4.


Vừa xong ca trực chuyên môn, Trung úy Nguyễn Thọ Trường cùng tôi chuyện ngắn chuyện dài trên hành lang nhỏ nhưng như một xa lộ gió. Dõi mắt nhìn ra biển xa mênh mông, Trường bồi hồi nhớ lại thuở nhập cư Hòn Khoai. Dạo ấy, chàng trai Thái Bình, mới 22 tuổi, lần đầu đặt chân lên đảo,  ngỡ ngàng. Vắng vẻ quá, không dân, chỉ rừng một bên và biển một bên. Anh cảm thấy buồn và nỗi buồn kéo dài cũng ròng rã mất mấy tháng trời. Lâu dần, theo lời Trường, quen địa hình, quen môi trường lại đâm ra… có tình cảm. Trường mộc mạc : “Nói nôm na là tôi có duyên với vùng đất này” . Trường tâm sự rất thật, bởi vì anh đã 15 năm bám trụ Hòn Khoai, chẳng xin chuyển đổi!

 

duyencunggon-chuoi-hon-khoai

Ngoài nhiệm vụ bảo vệ biên cương, người lính ở Hòn Khoai còn ngày ngày dạy chữ cho các em ( Ảnh: Huy Thọ)


Trên chuyến tàu HQ 637, ngày cuối cùng cho chuyến “ lãng du” cùng biển đảo Tây Nam, tôi lân la dò hỏi những cán bộ hải quân về chuyện “có duyên” như Trường cảm nhận. Đại tá Đậu Khải Hoàn, Chủ nhiệm chính trị Bộ Tư lệnh vùng 5 Hải quân cho biết lính trên đảo quê ở miền Bắc, miền Trung cũng khá nhiều. Trong số đó, lính ”có duyên” với vùng đảo biển này như trung úy Trường ngày càng gia tăng. Không chỉ cắm chân lâu dài, có người lấy vợ dân địa phương, có người đón vợ con từ quê vào và xin chọn nơi này làm quê hương. Chợt nhớ đến một đêm giao lưu cùng lính biển. Trong không khí thân tình, ấm áp, khi khách đề nghị cùng hát “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ”, một lính bật đứng dậy, cất giọng run run, xúc động. Đó là Thượng úy Đào Minh Sửu, quê Hà Tĩnh, nơi đã xây hồ Kẻ Gỗ. 18 tuổi, vào lính, Sửu rời quê nhà, ra vùng biển Tây Nam ngay. Dù cách xa hàng nghìn cây số, nỗi nhớ quê nhà vẫn đau đáu trong lòng, nên trong đêm giao lưu, được hát một bài ca quê nhà, với anh, là niềm hạnh phúc. Vẫn thương quê, vẫn nhớ quê, nhưng có lẽ cũng vì chữ “duyên” Đào Minh Sửu đã gắn bó ở vùng biển đảo này 21 năm. Không những thế, anh còn thuyết phục vợ - một cô giáo ở Hà Tĩnh chuyển ra đây dạy học và sinh sống.

Và như thế, tôi ngộ ra, “em một bên” trong ca khúc Chút thơ tình người lính biển (thơ Trần Đăng Khoa - nhạc Hoàng Hiệp) là rất thực tế với nhiều người lính biển Tây Nam: "Cho dẫu mai đây xa ánh đèn thành phố/ anh đến buông neo nơi thăm thẳm ánh sao trời / Anh vẫn thấy đời không lẻ loi/ biển một bên và em một bên...”.

 

L.Đ.T

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com