BÁO CHÍ Lê Minh Quốc viết LÊ MINH QUỐC: Mừng năm Bính Thân bàn chuyện khỉ khọt

LÊ MINH QUỐC: Mừng năm Bính Thân bàn chuyện khỉ khọt

 

nam-moi-banchueynkhi-khot-1R

 

Trong tiếng Việt, từ “khỉ” thường mang sắc thái tiêu cực, không mấy hay ho gì. Nhà văn Phi Vân của Nam bộ có viết phóng sự cực hay: Đàng trai đi rước dâu tại xóm Kiến Vàng. Phải đi ghe máy mất hai ngày, đi qua sông Ông Đốc, kinh xáng Bà Kẹo, Đầm Cùn, kinh xáng Thọ Mai, nhưng vẫn còn xa lơ xa lắc. Khi đến nơi, nhà gái lại làm khó, bắt bẽ dễ từng chút một, từ khay trà rượu, câu đối liễn đến bông đeo tai…

Bực lắm nhưng nhà trai vẫn nín nhịn, đến lúc rời khỏi nhà gái, đã đưa được cô dâu lên ghe máy: “Bỗng ông Tộc trưởng trên nhà chống gậy xồng xộc chạy xuống níu tay ông Chánh Khá thở hào hển, vểnh râu, sừng sộ: “Còn lễ... “trao thân gởi mình”, sao không làm hử?”. Việc này vượt quá mức chịu đụng nhà trai nên trưởng tộc nhà trai nhảy xuống ghe nói với lên một câu: “Trao thân... con khỉ mốc!”

Chỉ cấp độ “mốc” cao hơn còn có mốc xì, mốc khô, mốc thếch, mốc meo, mốc xanh ra, mốc hoa cau... Đoạn văn trên, “mốc” có nghĩa phủ định, không có hoặc chẳng có giá trị gì. “Phải chi lấy được vợ vườn/ tập đi cầu khỉ thêm đường dọc ngang”. Có phải do lúc đi qua cầu khó khăn, dễ té như lúc đang đi xiếc, không khéo rớt ùm xuống sông nên mới chết tên “cầu khỉ”? “Trò khỉ” dứt khoát là trò nhố nhăng, không thể chấp nhận.
Trong nhiều ngữ cảnh, từ khỉ lại hàm nghĩa khác hẵn chẳng hạn, hai người trò chuyện: “Hôm trước cậu được bồ nhí bao ăn nhà hàng à?”, “Khỉ họ! Làm gì có”; “Cậu vừa mua hàng đa cấp chứ gì?”, “Cái khỉ khô đó mua về thêm rác nhà”; “Ơ kìa, đi một mình à? Thế anh chàng đẹp trai hôm nọ đâu”; “Hỏi chi cái thứ khỉ đột đó nữa. Xù rồi”. “Cà Mau khỉ khọt trên bưng/ dưới sông cá lội trên rừng cọp um”. “Khỉ khọt” là nhiều khỉ, sống từng đàn nhưng câu nói: “Chà, cái lớp này học trò khỉ khọt quá mức”, nghĩa là các em hay đùa nghịch, liến láu, liến khỉ, tinh nghịch chạy nhảy cứ như “khỉ mắc phong”. Tương tự, trường hợp nhân vật trong Thềm hoang của nhà văn Nhật Tiến cáu gắt: “Khỉ gió, "cấu" chết thịt người ta đây này”; hoặc trong bài thơ của Tú Xương: “Cử nhân: cậu ấm Kỷ/ Tú tài: con đô Mỹ/ Thi thế mà cũng thi/ Ới khỉ ơi là khỉ!” hoàn toàn không có con khỉ nào ở đây cả.

Không rõ, có ai đã nghe tiếng ho của con khỉ chưa? Nhưng quả thật có câu  “khỉ ho cò gáy” nhằm chỉ nơi xa xôi hẻo lánh, nơi rừng rú hoặc nơi đất đai cằn cỗi; còn có cụm từ na ná “hóc Bà Tó”. Có thể giải thích “hóc” là chỗ kẹt, chỗ xó, chỗ khó đi tới nhưng “Bà Tó” là ai hay địa danh ở ở đâu thì vẫn là một ẩn số. Thiên hạ đang tranh luận ầm ầm nhưng vẫn chưa đâu vào đâu. Lại có thành ngữ “khỉ chê khỉ đỏ đít” là chê kẻ xấu, không ra gì lại còn lên mặt chê bai người khác. Đâu phải chỉ lấy con khỉ ra ví von, người ta còn dùng để mèo và chuột nữa, chẳng hạn, “mèo chê mèo dài đuôi”; “chuột chù chê khỉ rằng hôi/ khỉ lại trả lời: cả họ mày thơm”.

Khi né tránh sự bất lợi này lại gặp sự bất lợi khác còn tồi tệ, nguy hiểm hơn, có thành ngữ “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa” hoặc “tránh khỉ mắc độc già”. “Độc” là một loài khỉ dữ, dám tấn công mọi loài, kể cả con người. Với cách nói trên, có thể liệt kê hàng loạt câu nói khác nhau, để thấy rằng tiếng Việt cực kỳ phong phú, muốn cỡ nào có cỡ đó: “Tránh ông một chai gặp ông hai nậm”, chai và nậm cùng dùng dựng rượu, cũng “hủ chìm” như nhau; “tránh ông Cả ngã phải ông Ba Mươi”, “tránh hùm mắc hổ”, cũng đều chỉ con cọp; “tránh ông pháo gặp ông mã”, mã và pháo là hai quân cờ; “tránh nơi thả lưới mắc đường bẫy treo”, “tránh lợn cỏ gặp phải gấu chó”…

Không rõ có ai thấy khỉ ăn ớt chưa? Lúc ấy, cái mặt nó nhăn nhó khó coi đến độ đi vào câu cửa miệng: “nhăn như khỉ ăn ớt”. Lại còn nghe “nhăn như khỉ ăn mắm tôm”, “nhăn như khỉ ăn gừng”… Ngày xưa có tích, nàng Tây Thi lúc chột bụng, mặt càng nhăn nhó càng đẹp; còn cái sự nhăn của con khỉ ắt ngược lại, chỉ có thể so sánh với “nhăn như chuột kẹp”, “nhăn như mặt hổ phù”, “nhăn như sứa thối”, “nhăn như bị”.

Sống trên đời, chớ có dại dột “nuôi khỉ giữ nhà”, chẳng khác gì cho bọn “phục binh” núp dưới gầm giường, tạo cơ hội cho chúng có lúc phản thùng, làm hại mình. Lời khuyên này, đâu phải mỗi con khỉ “độc quyền” mà còn có nhiều cách nói khác như “nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà”, “nuôi hùm để họa”, “nuôi gà cỏ trở mỏ về rừng”, “nuôi cò, cò mổ mắt”, “nuôi sáo, sáo đốt nhà”…

Nhiều thế hệ ắt còn nhớ đến câu thơ của cụ Phan Văn Trị lúc “bút chiến” với Tôn Thọ Tường: “Chớ mượn hơi hùm rung nhát khỉ/ Lòng ta sắt đá há lung lay”. Ấy là rút từ thành ngữ “rung cây nhát khỉ” chỉ sự dọa dẫm, răn đe không đúng đối tượng, tốn công vô ích. Khi làm một việc không cần thiết như bày vẽ, hướng dẫn cho người khác làm việc gì mà họ đã quá thành thạo có câu “dạy khỉ leo cây”, tương tự “dạy đĩ vén xống, dạy ông cống vào trường”. “Xống” tức là váy; “ông cống” tức người đã thi đỗ bốn kỳ trong thi Hương thời xưa, chứ có phải người mới cắp sách đâu mà chỉ với vẻ.

Mà này, xin hỏi, con khỉ có tên gọi gì khác không? Thưa có, đó chính là “con tườu”. Ca dao có câu: “Ông trăng mà bảo ông trời/ Những người hạ giới là người như tiên/ Ông trời mới bảo ông trăng/ Những người hạ giới mặt nhăn như tườu”. Tại sao có sự lại biến âm, “lột xác” từ “khỉ” qua “tườu” oái oăm đến thế? Xin “bàn giao” lại cho các nhà ngôn ngữ học giải thích vậy.

L.M.Q

(nguồn: Tuổi Trẻ CƯỜI số XUÂN 2016)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com