BÁO CHÍ Lê Minh Quốc viết LÊ MINH QUỐC: Lai rai từ "bẹo" đến... "Công tử Bột"

LÊ MINH QUỐC: Lai rai từ "bẹo" đến... "Công tử Bột"

tu-beo-den-cog-tu-bot-1-R

 

Ngày từng ngày trôi vụt qua như lật bàn tay, như vừa nhận nhuận bút, hào hứng, hiên ngang bước vào nhà hàng, lúc đứng lên thanh toán hóa đơn, những đồng tiền ấy đã vụt bay cái vèo.

Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy?

Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười

Chẳng rõ, ông Cao Bá Quát nực cười bởi chuyện gì? Sáng nay, như mọi ngày, hễ vừa ngồi xuống ghế thì nhanh như chớp ông chủ quán đã đưa ngay vài tờ báo mới. Ngay tarng đầu đọc cái tin, đã vội lật qua trang khác và phở đã kém ngon. Ấy là cái tin bé gái 5 tuổi bị xâm hại tình dục tại nhà giữ trẻ. Chuyện này xẩy ra tại Bà Rịa. Khiếp quá. Sự tha hóa con người đã chạm đáy địa ngục, đã bắt tay với ác quỷ rồi chăng?

Vẫn tự ý thức, mỗi ngày tự kiếm những niềm vui, chồi non lạc quan, tình người đằm thắm đang diễn ra để thêm yêu lấy đời, yêu lấy người và cũng là một cách yêu chính mình. Nhưng rồi, đã có những thông tin hắc ám ùa tới. Như bão quét qua. Bão đã khiến khu vườn vừa nhú lên những mầm xanh đã xác xơ, tan hoang. Thế thì, như con ốc chui sâu vào trong vỏ, chìm dưới lòng dại dương, lại quay về với những câu chuyện chữ nghĩa, về tiếng Việt. Cũng là một cách lánh xa đời. Đời yêu y sao y lại né tránh? Sự mâu thuẫn này thường trực trong tâm thức mỗi ngày.

Những ngày này đang đọc lại những gì đã viết. Chọn nhón để in tập sách mới. Thế nào “chọn nhón”? Người miền Trung có dùng từ này không? Thú thật, y chỉ biết khi đọc tập sách sưu tầm truyện tiếu lâm, cụ Trương Vĩnh Ký cho biết đã “chọn nhón”. Ban đầu không hiểu rõ lắm. Mãi về sau mới biết nó hàm nghĩa “lấy hớt cái trên”, cái gì hay, tốt thì lấy bằng không thì thôi. Từ điển tiếng Việt giải thích: “lấy vật rời, vụn một cách nhẹ nhàng bằng mấy đầu ngón tay chụm lại”.

Vâng, nếu “mấy đầu ngón tay chụm lại” để lấy một vật gì đó mà lấy một cách thô bạo, mạnh mẽ gọi là gì? Đọc bài thơ Quán bên đường của nhà văn Trang Thế Hy có câu: “Em bẹo hình hài rao lên bán”. Lâu nay, vẫn rằng “bẹo” là lấy ra một ít cái gì đó đã có. Ngày còn nhỏ, thấy đứa bạn cầm cái bánh bò bông, ngon quá, thèm thuồng năn nỉ: “Mi bẹo cho tau một miếng”. Nếu đứa trẻ người Bắc ắt nói: “Cậu cấu cho tớ một tẹo”. Mà “bẹo” còn có nghĩa là… “béo”. Mẹ y từng la: “Em nó còn nhỏ, đừng có béo má em, tội nghiệp”. “Béo” ở đây là “véo”. Việt Nam tự điển (1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức giải thích: “Véo: Lấy đầu ngón tay cái và ngón tay trỏ kẹp vật gì mà rứt ra”. Khi cô gái Bắc thỏ thẻ cùng người tình: “Anh cho em véo một cái nha?” là cưng ghê lắm, vì yêu vì thương mà véo nhẹ, sợ chàng đau. Nghĩ cũng buồn cười. “Véo” cũng hàm nghĩa là… “cấu”. Thành ngữ có câu: “Trăm cái cấu không bằng cái một cái véo”.

Thế thì, từ “bẹo” trong câu thơ của Trang Thế Hy hiểu theo nghĩa nào? Có phải là “lấy ra một ít cái gì đó đã có”?

Lẩn thẩn lật lại vài quyển sách tra cứu xem sao, vì không hiểu rõ phương ngữ Nam bộ. Một trong những quyển đáng tin cậy nhất vẫn là Từ  điển từ ngữ Nam bộ của Huỳnh Công Tín, ghi nhận: “Bẹo”: chưng ra, đưa ra để khêu gợi, khích thích lòng ham muốn người khác”. Từ “bẹo” còn được ghép với các từ khác: “bẹo dạng”: trang điểm, chưng diện nhan sắc, phơi bày ra những cái mà người ta có thể ham thích’; “bẹo gan”: chọc tức, trêu tức, trêu gan; “bẹo hình”: phô trương hình dáng thân thể; “bẹo hình bẹo dạng”: phô trương hình dáng, chưng diện sắc đẹp, có ý khoe khoang lả lơi, thiếu đứng đắn trong hành vi ăn mặc; “bẹo mặt”: chường mặt ra để chọc tức người khác; “bẹo nhẹo”: bèo nhèo, mềm nhão, nhăn nheo”. Hôm trước, ngồi với Nguyễn Minh Nhựt, người Bến Tre, còn cho biết thêm nghĩa của "bẹo": Cây sào cao ở trên ghe, xuồng có treo những thứ cần bán, người ta từ xa cũng thể biết có bán những thứ gì. Hàng hóa treo trên cây sào này, gọi là "đồ bẹo"!

Rõ ràng, nếu hiểu “bẹo” theo cách người miền Trung (như y) là không hiểu đúng chữ “bẹo” trong câu: “Em bẹo hình hài rao lên bán”.

Nhân nhắc đến câu thơ này, còn nhớ có lần bạn thơ Cao Xuân Sơn kể rằng, thời ở cùng chung cư với nhà văn Trang Thế Hy. Lúc ấy, bước vào trong căn hộ của ông, anh thấy có ghi dòng chữ rành rành ngay tầm nhìn: “Khi có tiếng gõ cửa, đề nghị khách không lên tiếng để chủ nhà xử lý”. Tại sao có câu đó? Có phải do lúc đó, ông có chân trong Ban chấp hành hay Hội đồng Văn xuôi gì gì đó của Hội Nhà văn Việt Nam nên nhiều người đến cầu cạnh khiến ông phiền toái chăng? Lại nhắc đến câu nói của Trang Thế Hy, cũng có từ “bẹo”-  xem như một quan niệm sáng tác: “Khi biết mình không viết được nữa thì đi chỗ khác chơi. Đừng bẹo hình bẹo dạng ở chốn trường văn trận bút để bắt độc giả lỡ yêu mến mình đọc những lời lếu láo”.

Có lần, anh Nguyễn Nhật Ánh hỏi: “Q có biết “mọng” của người quê mình nghĩa là gì không?”. Chưa kịp trả lời, anh nói tiếp: “Ví dụ có câu: “Mi đừng có hứa mà em nó mọng”. Giải thích ra làm sao? “Mọng” đơn giản là mong đợi, chờ đợi, trông ngóng; Từ điển in năm 1895 ở miền Nam của ông Huình Tịnh Paulus Của không ghi nhận từ “mọng”; từ điển in năm 1931 của Hội Khai Trí Tiến Đức giải thích theo cái nghĩa phổ thông “nhụng nhịu nhiều nước” như “quả hồng chín mọng”; “mọng mọng” hoặc “mòng mọng” nghĩa là “hơi mọng”. Rõ ràng, cùng từ “mọng” nhưng người miền Trung, miền Bắc hiểu khác nhau.

Tiếng Việt rắc rối quá. Có thời gian, chẳng phải cày kiếm sống, mỗi ngày cứ việc tìm hiểu một vài từ ngữ tiếng Việt thì vui biết bao nhiêu. Chẳng hạn, từ “bẹo” sao lại không liên tưởng đến “bột” cũng âm “bờ”? Câu thành ngữ gây tranh cãi nhiều nhất có gắn với từ “bột” là gì? Là “có bột mới gột nên hồ”, “chó ăn vụng bột”, “chân chỉ hạt bột”? Không, chính là “công tử bột” - nguồn gốc ra đời của nó thế nào?

Đừng nghĩ câu hỏi này đùa cợt vu vơ đấy nhá. Ít ai nhớ trên tạp chí  Ngôn ngữ & Đời sống (số 1&2 ấn hành năm 2004) đã có cuộc tranh luận sôi nổi, bất phân thắng bại. TS Nguyễn Văn Nở giải thích: “Thành ngữ “Công tử bột” thường dùng để chỉ các cậu ấm con nhà giàu có, quần áo bảnh bao, mê ăn chơi nhưng biếng nhác trong công việc; ngờ nghệch trước cuộc sống và thường yếu đuối, “nắng không ưa, mưa không chịu”... Sắc thái biểu cảm của thành ngữ này có phần âm tính; người dùng nhằm mục đích châm biếm, chê bai và có phần thương hại nhưng chưa đến mức căm ghét, thù hằn”.

Dựa vào đâu, TS Nguyễn Văn Nở có được câu giải thích đó? Ông đã liệt kê các chứng cứ như sau:

1. “Theo nhiều người kể lại, các công tử bột không phải ai xa lạ mà chính là các công chức ngành dây thép (bưu điện) trong thời Pháp thuộc. Thuở ấy, các công chức này thường ăn diện quần áo trắng tinh, bảnh bao, cứ chạy nhong nhong như cờ lông công trên các đường phố ở thành phố lớn. Trong mắt người lao động, bọn họ là loại người ăn trắng mặc trơn. Nhưng cớ sao lại gọi họ là công tử bột? Công tử là con quan thì ai cũng hiểu rõ. Nhưng bột là gì? Ở đây, trong cách hiểu dân gian, dường như có sự trùng âm giữa từ “bột” với nghĩa như trong bột gạo, bột mì, bột sắn, gà bột, phổng bột... Cũng như các thứ đồ chơi cho trẻ, xinh xắn, bụ bẫm.... Và từ bột, vốn là cách đọc chệch của âm từ poste trong tiếng Pháp, có nghĩa là bưu điện (dây thép). Hoá ra, công tử bột là chàng công tử làm nghề bưu điện...” (Kể chuyện thành ngữ, tập II - Nxb KHXH, Hà Nội).

2. “Đây là tiếng chế giễu một học sinh đi ăn cắp. Tên hắn là Nguyễn Đức Quý. Quý sau này làm mật thám cho Pháp, can vào vụ âm mưu bắt cóc cụ Phan Bội Châu ở Thượng Hải năm 1925. Quý là con một người tòng sự ở Sở bưu điện Hà Nội. Hồi còn đi học, Quý đã mê một người đào hát, tên là Minh ở rạp Quảng Lạc. Quý muốn tặng cho Minh một chiếc nhẫn kim cương, bèn nghĩ cách ăn cắp của cửa hàng Gôđa... (Tuyển tập Nguyễn Công Hoan - tập III (1986), NXB Văn học, Hà Nội).

3. “Là có nguồn gốc từ tuồng hát bội có nhân vật tên là Hoa Bột, Ba Bột: “Hoặc hát khách thằng Bột: rượu bọt ngon, con gái tốt đẹp, xang xang xang cống xang xê cống cống xang xê. Hoa Bột, Ba Bột là tên của nhân vật xấu gần như vai hề, tánh tình kiêu hãnh trong tuồng hát bội (nay hãy còn gọi là công tử bột). Trong Kim Thạch Kì Duyên của Thủ Khoa Nghĩa có bài hát thằng Bột: “Cậu Ái Lang chữ đặt, cha tri phủ giàu sang, như nhà cụ: cửa nhà chớn chở bạc vàng; hầu thiếp nhởn nhơ điều đỏ. Nói chi bạn hàng cũ, muốn con gái nguyên. Cậu chơi hoài hoài, thiên hoàng thiến chi hoang, sướng đế sướng đê chi sướng…” (Bến Nghé xưa - Sơn Nam)”.

Với 3 chứng cứ này, thử hỏi cách lý giải nào đúng? Nhiều nhà ngôn ngữ học đã tranh luận. Xin không nhắc lại. Tuy nhiên, theo y, cách giải thích của nhà văn Sơn Nam thuyết phục hơn cả.

Tình cờ, đọc lại bài khảo cứu Hát bội in trên Phổ Thông số 35 (15.6.1960), ông Thân Văn Nguyễn Văn Quý cho biết trong hát bội có điệu hát Bài Thằng Bột: “Con quan ở trong triều dân gian thường gọi là công tử bột, học hành chẳng ra hình, ở không nên nết, tụ năm tụ ba, thả rểu phố phường, hiếp kẻ cô đơn, nịnh người quyền thế, có một tài chim gái mà thôi, không giúp ích cho gia đình, chẳng làm lợi cho xã hội. Sân khấu cổ truyền trình những nhân vật đó làm trò cười cho khán giả, cho nói giọng trọ trẹ, đầu bịt khăn gò, mặt cho giồi phấn mốc, mắt mang kiếng giọng vàng, chơn đi giày Tàu, tay cầm quạt lông, mình mặc áo gấm, ra vẻ sang trọng, có nét ăn chơi, ăn nói ngược ngạo láo xấc”. Nói có sách mách có chứng, ông Thân Văn Nguyễn Văn Quý còn dẫn chứng rành rẽ cách ăn nói của công tử bột trên sân khấu:

“Tớ trẻ,

Sáng mai tang tạng tàng tang

Cụ bảo thằng tê bắt con kiến vàng

Lấy sợi dây chà, xỏ ngang lỗ mũi, cho cụ dắt đi chơi, có không hở thằng tê?

Tớ trẻ,
Mi đi đâu mà cụ kiếm đôn, kiếm đáo, đảo địa thiên tôn, hà môn chi xứ, am tự thừa lôi, thấy bánh thấy xôi, thấy ông lọ nồi, chẳng thấy thằng tế, ứ hự thằng tê?”.

Không được nghe âm điệu, chỉ cần đọc qua đã thấy sướng tai. Rõ ràng, thành ngữ "công tử bột" ban đầu từ lời ăn tiếng nói dân gian, tạo nên sức sống của nó chính là do sân khấu hát bội đã tái hiện bằng hình mẫu điển hình. Nói cách khác, xuất xứ thành ngữ "công tử bột" bắt đầu từ Nam bộ. Rồi lan rộng ra cả nước và "sống" đến tận bây giờ. Tương tự, "bẹo" là từ phổ thông ngoài Bắc, ngoài Trung nhưng khi "du nhập" vào Nam bộ lại mang thêm những hàm nghĩa khác.

Hôm kia, nghe đồng nghiệp bạn Hà Đình Nguyên cao hứng buộc miệng nói câu thành ngữ thật hay. Ghi lại kẻo quên: “Nhất rún chị sui, nhì đuôi rắn hổ”. Nếu không sân si, sao ai nấy cũng lại ôm bụng cười ngất, bàn tán rôm rả? Mỗi người một ý. Thích nhất từ “rún”. Nếu thay bằng từ khác, sự hài hước sẽ không còn; hoặc thô kệch, hoăc thô tục. Đọc lại bộ sách quý Tục ngữ, phong dao của cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc không tìm ra câu này. Trong bài chòi miền Trung có nhắc đến rún:

Rủ nhau đi đánh bài chòi

Để con nó khóc tới lòi rún ra

Uớ Ngũ Rún!

Từ Con Ngũ Rún này, tự dưng nhớ đến câu nói toàn âm “rờ” của các “công tử bột” thời trước, của “dân chơi” thời nay lúc tự trào, bỡn cợt, tếu táo: “Rầu rĩ râu ria ra rậm rạp. Rờ râu: râu rụng; rờ rún: rún rung rinh”.

Mặc, tự rờ rún mình thì vẫn xoàng quá!

L.M.Q

(nguồn: Báo ANTG số 169- tháng 9.2015)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com